Top 6 Bài soạn Một số thể loại văn học: Thơ, truyện (Ngữ Văn 11) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn 11, với bài học Một số thể loại văn học: Thơ, truyện, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Một số thể loại văn học: Thơ, truyện dành cho các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo.

Bài soạn tham khảo số 1

I. Kiến thức cơ bản

Câu 1: Loại và thể trong văn học

– Loại là phương thức tồn tại chung, thể hiện thực hóa của loại

– Tác phẩm văn học: trữ tình, tự sự, kịch

+ Trữ tình: thơ ca, khúc ngâm…

+ Tự sự: truyện, kí…

+ Kịch: chính kịch, bi kịch, hài kịch…

– Ngoài ra còn có nghị luận

Câu 2:

Đặc trưng của thơ

– Đặc điểm về loại thơ: thơ có vần, điệu, ngôn ngữ hàm súc, gợi cảm, thể hiện tình cảm, tâm hồn con người

– Thơ được phân loại theo nội dung biểu hiện: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng

– Thơ phân loại theo cách tổ chức có luật thơ, thơ tự do, thơ văn xuôi

– Những yêu cầu chính khi đọc – hiểu một bài thơ gồm:

+ Khi đọc cần biết rõ xuất xứ của bài thơ: tác giả, năm xuất bản, thông tin hỗ trợ khác

+ Đọc kĩ để hiểu đúng và cảm nhận mạch cảm xúc thơ

+ Tìm đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ

+ Phát hiện ra những câu, từ ngữ, hình ảnh tạo cảm xúc nhất


Câu 3: Đặc trưng của truyện:

– Truyện phản ánh hiện thực trong tính khách quan của nó

– Truyện có cốt truyện, nhân vật, tình huống, mâu thuẫn diễn ra trong hoàn cảnh không gian và thời gian

– Ngôn ngữ truyện có kể chuyện, lời nhân vật…

– Thể loại: sáng tác dân gian (ngụ ngôn, truyện cười, truyền thuyết, cổ tích..), truyện trung đại, truyện hiện đại (truyện ngắn, tiểu thuyết và truyện thơ…)

* Yêu cầu khi đọc – hiểu truyện:

– Đọc truyện cần biết hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để hiểu tư tưởng, chủ đề của tác phẩm

– Hiểu cốt truyện, diễn biến của tình tiết chính

– Nắm được tính cách của nhân vật từ đó hiểu tư tưởng, đặc điểm nghệ thuật của truyện


Luyện tập

Bài 1 (trang 136 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Câu cá mùa thu

– Bài thơ gợi tình yêu và sự gắn bó sâu sắc và thiên nhiên vùng đồng bằng Bắc Bộ

+ Cảnh thu đẹp nhưng phảng phất nỗi buồn từ tâm trạng nhân vật trữ tình

+ Tư thế của người đi câu cá chứa đựng những u uẩn truyền miên

+ Cái tình của Nguyễn Khuyến đối với đất nước, đối với non sông sâu sắc

+ Tâm sự, nỗi lòng của Nguyễn Khuyến dành cho đất nước thầm ặng, da diết, đậm chất suy tư

– Ngôn từ: giản dị, trong sáng đến mức kì lạ, có khả năng biểu đạt xuất sắc tinh tế cảnh vật, những uẩn khúc thầm kín khó giãi bày tâm sự

– Bài thơ cũng thành công với cách gieo vần: vần “eo” khó luyến láy, khó sử dụng nhưng được Nguyễn Khuyến sử dụng một cách tài tình: diễn tả không gian nhọn, cảm giác về một không gian thu hẹp dần và khép kín lại, hài hòa

– Nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy cái động để gây ấn tượng sâu đậm về cái yên ắng, tĩnh lặng của tâm trạng

⇒ Bức tranh mùa thu nhẹ nhàng, tươi đẹp nhưng chan chứa tâm trạng, tình cảm


Bài 2 (trang 136 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Hai đứa trẻ một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam: giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc

– Truyện không có cốt truyện, chỉ là tâm trạng của Liên và An đợi tàu đi qua

– Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm của nhân vật với những cảm giác mơ hồ, mong manh bằng lối viết tinh tế, sâu sắc

– Tác giả sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật đối lập, tương phản nhấn mạnh khung cảnh nghèo nàn, hiu hắt của phố huyện nghèo

– Lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ, ẩn sâu sau những hình ảnh và ngôn từ là tâm hồn nhân hậu, tinh tế, nhạy cảm trước mọi chuyển động trong tâm trạng con người và trạng vật

Bài soạn tham khảo số 2

Câu 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

+ Loại lớn hơn thể, một loại bao gồm nhiều thể. Ví dụ: Loại trữ tình gồm các thể: thơ ca, khúc ngâm; Loại tự sự gồm các thể: truyện, kí, tiểu thuyết;…

+ Loại là phương thức tồn tại chung, thể là sự hiện thực hóa của loại.


Câu 2 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

+ Đặc trưng thơ:

– Cốt lõi của thơ là trữ tình, thơ luôn biểu hiện tâm hồn, tình cảm bên trong.

– Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, nhạc điệu.

+ Các kiểu loại thơ:

– Theo nội dung biểu hiện có: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng.

– Theo cách tổ chức có: thơ cách luật, thơ tự do, thơ văn xuôi.

+ Yêu cầu về đọc thơ:

– Có kiến thức nền về xuất xứ của bài thơ.

– Đọc kĩ bài thơ, thông qua từ ngữ, chi tiết, vần điệu,…để cảm nhận nội dung thơ.

– Đánh giá, lý giải bài thơ trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.


Câu 3 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

+ Đặc trưng của truyện:

– Truyện phản ánh đời sống khách quan: Có cốt truyện gồm một chuỗi các tình tiết, nhân vật được miêu tả gắn với hoàn cảnh, không gian và thời gian đa dạng.

– Truyện sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại.

– Ngôn ngữ truyện gần với ngôn ngữ đời sống.

+ Các kiểu loại truyện:

– Văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

– Văn học trung đại: truyện viết bằng chữ Hán, truyện thơ Nôm.

– Văn học hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.

+ Yêu cầu về đọc truyện:

– Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.

– Phân tích diễn biến cốt truyện.

– Phân tích các nhân vật trong truyện và mối quan hệ giữa các nhân vật đó với nhau.

– Nhận ra được vấn đề được nói đến, ý nghĩa tư tưởng của truyện về cả phương diện tái hiện đời sống lẫn khám phá bản ngã của con người.


Luyện tập

Câu 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến:

+ Nghệ thuật tả cảnh: khắc họa thiên nhiên mùa thu ở làng quê đẹp, thanh bình nhưng buồn và có xu hướng co hẹp lại, thiên nhiên hiện lên qua những hình ảnh thân thuộc, bình dị, khác với mùa thu ước lệ quen thuộc trong thơ trung đại.

+ Nghệ thuật tả tình: Tả cảnh ngụ tình, tả việc cũng để ngụ tình, câu cá thực chất là để suy nghĩ về thế sự.

+ Ngôn ngữ: gieo vần lạ, độc đáo, ngôn ngữ lạ hóa, giàu tính gợi hình, gợi cảm.


Câu 2 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

Hai đứa trẻ – Thạch Lam:

+ Cốt truyện: cốt truyện đơn giản, nhẹ nhàng, không có kịch tính, cốt truyện là cốt truyện tâm lý.

+ Nhân vật: là những số phận bé nhỏ nơi phố huyện nghèo, những con người hết sức bình thường.

+ Lời kể: nhẹ nhàng, là tác phẩm thuộc loại tự sự nhưng đậm chất trữ tình (giàu tính nhạc, tính họa).


Ý nghĩa

Thơ tiêu biểu cho loại trữ tình. Thơ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu.

Trong khi, truyện tiêu biểu cho loại tự sự, thường có cốt truyện, nhân vật, lời kể. Truyện có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người.

Bài soạn tham khảo số 3

Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

– Loại là phương thức tồn tại chung; thể chỉ là sự hiện thực hóa của loại.

– Phần lớn các ý kiến đều đồng ý rằng các tác phẩm văn học được chia làm ba loại lớn: trữ tình, tự sự, kịch. Mỗi loại lại có thể gồm các thể riêng:

+ Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm,…

+ Loại tự sự có các thể: truyện, kí, tùy bút,…

+ Loại kịch có các thể: chính kịch, bi kịch, hài kịch,…

Bên cạnh đó còn có một thể loại khác cũng thường gặp đó là nghị luận.


Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

a, Thơ có nhiều loại, tùy theo tiêu chí:

– Phân loại thơ theo nội dung biểu hiện có: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng.

– Phân loại thơ theo cách thức tổ chức bài thơ có: thơ cách luật, thơ tự do, thơ văn xuôi.

a, Khi đọc thơ cần tuân thủ những yêu cầu:

– Cần viết rõ tên tác phẩm, tên tập thơ, tên tác giả, năm xuất bản, tìm hiểu những thông tin liên quan đến hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

– Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu. Ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, những sự việc, sự vật… Đồng cảm với nhà thơ dùng liên tưởng, tưởng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từ ngữ, chi tiết, vần điệu,.. mới cảm nhận được ý thơ, thấu hiểu hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình.

– Từ những câu thơ đẹp, lời thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình,… đánh giá bài thơ cả về nội dung và nghệ thuật.


Câu 3 (trang 136 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

* Cùng với sự phát triển của lịch sử của văn học, truyện cũng có những kiểu loại khác nhau.

– Văn học dân gian có nhiều kiểu truyện: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích khác nhau.

– Văn học trung đại có loại truyện viết bằng chữ Hán và loại truyện viết bằng chữ Nôm.

– Trong văn học hiện đại, người ta phân ra thành truyện ngắn, truyện vừa và truyện dài (tiểu thuyết).

+ Truyện ngắn thường ít nhân vật, sự kiện, nó hướng tới một vài mảnh nhỏ của cuộc sống, có thể kể về cả cuộc đời hoặc một đoạn đời,… nhưng nó vẫn đặt ra những vấn đề lớn lao, thể hiện tư tưởng nhân sinh sâu sắc.

+ Tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn. Có nhiều loại tiểu thuyết: tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết sử thi ghi lại sự tích anh hùng, nhưng nhiều nhất là tiểu thuyết về những số phận cá nhân trong cuộc đời thường.

* Các yêu cầu về đọc truyện:

– Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để có cơ sở cảm nhận các tầng lớp nội dung và ý nghĩa của truyện.

– Phân tích diễn biến của cốt truyện qua các phần mở đầu, vận động, kết thúc, với các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể. Làm rõ giá trị của các yếu tố trong đó trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống và khắc họa bản chất, tính cách các nhân vật. Chú ý tới nghệ thuật tự sự: người kể chuyện ở ngôi thứ nhất hay ở ngôi thứ ba; điểm nhìn trần thuật; cách sắp xếp các tình tiết, sự kiện; thủ pháp kể chuyện, miêu tả; giọng điệu lời văn,…


Luyện tập

Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:

– Bài thơ gợi tình yêu và sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cảnh thu đẹp, được miêu tả qua màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, trời xanh ngắt; qua đường nét: sóng hơi gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo, tầng mây lơ lửng. Cảnh thu đẹp nhưng vẫn có một chút nét buồn phảng phất. Cảnh buồn một phần bởi thi đề mùa thu trong văn học vốn đã gắn với những nét buồn sầu man mác nhưng có lẽ cái nét buồn vương vấn trong bài thơ chủ yếu là cái nét buồn lan ra từ tâm trạng nhân vật của nhân vật trữ tình. Tuy vậy, xuyên suốt bài thơ, người đọc mới thấy nhân vật trữ tình xuất hiện nhưng là xuất hiện trong tư thế của người đi câu (Tựa gối ôm cần lâu chẳng được) mà thực không phải thế. Đó là tư thế của con người u uẩn trong nỗi lo triền miên, chìm đắm.

– Câu cá mùa thu là một minh chứng sinh động về sức biểu đạt của ngôn từ tiếng Việt. Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, đặc biệt vần “eo” được Nguyễn Khuyến sử dụng rất tài tình. Vần “eo” hợp với tất cả các câu bắt buộc (câu 1,2,4 và câu 8). Nó góp phần diễn tả cảm giác về một không gian thu nhỏ hẹp dần và khép kín lại, tạo nên sự hài hòa với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhân vật trữ tình.

Ngoài ra bài thơ còn thành công trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật: lấy động tả tĩnh, sử dụng các tính từ: trong veo, xanh biếc, xanh ngắt,…


Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

– Nhận xét về cốt truyện, nhân vật, lời kể trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam:

– Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực vừa mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời qua truyện ngắn này cũng thể hiện tài năng viết truyện ngắn của Thạch Lam.

– Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện. Toàn bộ câu chuyện chỉ được kể về tâm trạng thao thức của Liên và An, mong mỏi và chờ đợi một chuyến tàu đêm đi ngang qua.

Trong truyện ngắn này, Thạch Lam đi sâu vào việc khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh.

– Thạch Lam cũng sử dụng rất thành công thủ pháp đối lập, tương phản, giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, thấm đượm chất thơ của Thạch Lam.

Bài soạn tham khảo số 4

Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

+ Thể là sự hiện thực hóa của loại lớn hơn thể, một loại bao gồm nhiều thể.

VD: Loại tự sự gồm các thể: truyện, kí…


Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Đặc trưng thơ:

+ Thơ là tiếng nói bên trong tâm hồn người, cốt lõi của thơ là trữ tình

+ Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, nhạc điệu.

– Các kiểu loại thơ:

+ Theo nội dung biểu hiện: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng.

+ Theo cách tổ chức bài thơ: thơ cách luật, thơ tự do, thơ văn xuôi.

– Yêu cầu về đọc thơ:

+ Tìm hiểu về về nguồn gốc xuất xứ của bài thơ.

+ Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận chi tiết, hình ảnh

=> Lí giải, đánh giá toàn bài


Câu 3 (trang 136 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Đặc trưng của truyện:

+ Phản ánh đời sống trong tính khách quan: cốt truyện, sự việc, nhân vật

+Sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật, đối thoại, độc thoại.

– Các kiểu loại truyện:

+ VHDG: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

+ VHTĐ: truyện viết bằng chữ Hán, truyện thơ Nôm.

+ VHHĐ: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.

– Yêu cầu về đọc truyện:

+ Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác

+ Phân tích diễn biến cốt truyện.

+ Phân tích các nhân vật

+Tìm hiểu ý nghĩa tư tưởng


Luyện tập (trang 136 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

Câu 1

– Nghệ thuật tả cảnh: khắc họa chân thực và sinh động và tinh tế cảnh thu của miền đồng bằng Bắc Bộ

– Nghệ thuật tả tình: Tả cảnh ngụ tình

+ Ngôn ngữ: giàu tính gọi hình gợi cảm, từ láy,…


Câu 2

Hai đứa trẻ – Thạch Lam:

+ Cốt truyện: cốt truyện tâm lí nhẹ nhàng

+ Nhân vật: những con người bình thường bé nhỏ

+ Lời kể: tự sự nhưng giàu chất trữ tình đượm buồn

Bài soạn tham khảo số 5

Câu 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

– Loại: là phương thức tồn tại chung

– Thể: là sự hiện thực hóa của loại.

– Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Các thể loại trữ tình: ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…

+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…

+ Các thể loại kịch: kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.

Câu 2 (trang 131 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

– Đặc trưng của thơ:

+ Tiêu biểu cho loại trữ tình.

+ Là tiếng nói của tình cảm con người

+ Chú trọng đến cai đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan.

+ Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu.

– Kiểu loại thơ:

+ Theo nội dung biểu hiện: thơ trữ tình; thơ tự sự ; thơ trào phúng.

+ Theo cách thức tổ chức bài thơ: thơ cách luật; thơ tự do ; thơ văn xuôi.

– Yêu cầu về đọc thơ:

+ Cần biết rõ xuất xứ

+ Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu.

+ Từ câu thơ, lời thơ, ý thơ cái tôi của nhân vật trữ tình ta đánh giá, lí giải bài thơ ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

Câu 3 (trang 131 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

– Đặc trưng của truyện:

+ Truyện tiêu biểu cho loại tự sự.

+ Phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó.

+ Truyện có cốt truyện, tình tiết, sự kiện, biến cố, nhân vật và số phận của từng nhân vật, hoàn cảnh và môi trường, không gian và thời gian.

+ Ngôn ngữ có nhiều hình thức khác nhau: ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật; lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm ; Ngôn ngữ truyện gần với ngôn ngữ đời sống.

– Các kiểu loại truyện:

+ Trong văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết…

+ Trong văn học trung đại: truyện viết bằng chữ Hán; Truyện thơ Nôm.

+ Trong văn học hiện đại: Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.

– Yêu cầu về đọc:

+ Tìm hiểu bối cảnh XH, hoàn cảnh sáng

+ Đọc kĩ truyện, nắm vững cốt truyện và có thể tóm tắt nội dung truyện.

+ Phân tích nhân vật, phân tích tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống đối với việc khắc họa chủ đề của truyện. Khái quát chủ đề tư tưởng của truyện.

Luyện tập

Câu 1 (trang 131 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến có nét đặc biệt là:

– Một bức tranh thu cổ điển với thi đề, thi liệu quen thuộc.

– Mùa thu trong “Câu cá mùa thu” là điển hình cho mùa thu của làng quê Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.

– Đường nét trong bức tranh thu thật mảnh mai, tinh tế.

– Sự hòa phối màu sắc đã đạt đến độ tinh tế bậc thầy.

– Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, diễn tả được những biểu hiện tinh tế của sự vật và của tâm trạng con người.

– Bút pháp nghệ thuật của thơ cổ điển (lấy động tả tĩnh).

⟹ Cảnh chan chứa tình và tình thấm đẫm trong cảnh là nét đặc trưng của mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến.


Câu 2 (trang 131 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”:

a. Cốt truyện: không có cốt truyện, các chi tiế là một sự duy trì tuần hoàn về không gian thời gian.

b. Nhân vật: lần lượt xuất hiện theo thời gian. Truyện không thiên về các sự kiện, tình tiết mà đi sâu vào diễn biến tâm trạng của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nhân vật là những kiếp người nhỏ bé, lụi tàn sống nơi phố huyện nghèo.

c. Lời kể: tâm tình, thủ thỉ, nhẹ nhàng.

Bài soạn tham khảo số 6

Câu 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Loại và thể trong văn học được xác định như thế nào?

Lời giải chi tiết:

Hình thức tổ chức tác phẩm văn học được xác định trong loại (loại hình, chủng loại) và thể (thể tài, thể loại, kiểu, dạng). Loại là phương thức tồn tại chung; thể chỉ là sự hiện thực hoá của loại.

Phần lớn các ý kiến đều đồng ý rằng các tác phẩm văn học được chia làm ba loại lớn: Trữ tình (lấy cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của con người làm đối tượng thể hiện chủ yếu), tự sự (dùng lời kể, lời miêu tả đê xây dưng cốt truyện, khắc hoạ tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh vể đời sống) và kịch (thông qua lời thoại và hành động của các nhân vật mà tái hiện những xung đột xã hội). Mỗi loại lại có thể gồm các thể riêng:

– Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm,…

– Loại tự sự có các thể: truyện, kí, tuỳ bút,…

– Loại kịch có các thể: chính kịch, bi kịch, hài kịch,…

Bên cạnh đó còn có một thể loại khác cũng thường gặp, đó là nghị luận.

Câu 2 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Hãy nêu đặc trưng của thơ, các kiểu loại thơ và yêu cầu về đọc thơ.

Lời giải chi tiết:

a. Đặc trưng của thơ

Đặc điểm về thể loại thơ: Thơ thường có vần, điệu; ngôn ngữ hàm súc, gợi cảm; thể hiện tình cảm, tâm hồn con người.

b. Các kiểu loại thơ

– Phân loại thơ theo nội dung biểu hiện có: Thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng.

– Phân loại thơ theo cách thức tổ chức bài thơ có: Thơ cách luật (viết theo luật đã định trước), thơ tự do (không theo luật), thơ văn xuôi (câu thơ gần như câu văn xuôi nhưng vẫn có nhịp điệu).

c. Khi đọc thơ cần tuân thủ những yêu cầu dưới đây:

– Cần biết rõ tên tác phẩm, tên tập thơ, tên tác giả, năm xuất bản, tìm hiểu những thông tin liên quan đến hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

– Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu. Ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, những sự việc, sự vật,… Đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng, tướng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từng từ ngữ, chi tiết, vần diệu,… mới cảm nhận được ý thơ, thấu hiểu hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình.

– Từ những câu thơ dẹp, lời thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình, hãy lùi xa ra và nhìn lại để lí giải, đánh giá toàn bài thơ cả về nội dung và nghệ thuật. Cần chỉ ra được những nét độc đáo, sáng tạo trong hình thức biểu hiện; những đóng góp về nội dung tư tưởng.

Câu 3 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Tóm lược đặc trưng của truyện, các kiểu loại truyện và yêu cầu về đọc truyện.

Lời giải chi tiết:

* Cùng với sự phát triển lịch sử của văn học, truyện cũng có những kiểu loại khác nhau.

– Văn học dân gian có nhiều kiểu truyện: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

– Văn học trung đại có loại truyện viết bằng chữ Hán và loại truyện viết bằng chữ Nôm (chia theo hình thức văn tự).

– Trong văn học hiện đại, theo quy mô văn bản và dung lượng hiện thực, người ta phân ra truyện ngắn, truyện vừa và truyện dài (tiểu thuyết).

+ Truyện ngắn thường ít nhân vật, sự kiện, nó hướng tới một vài mảnh nhỏ của cuộc sống, có thế kể về cả cuộc đời hoặc một đoạn đời,… Nhưng trong phạm vi hẹp vẫn có thể đặt ra những vấn đề lớn lao, thể hiện những tư tướng nhân sinh sâu sắc. (Truyện ngắn là thể tự sự cỡ nhỏ, có cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, lời kể. Truyện ngắn được phép hư cấu tưởng tượng, khác với bản tin hay phóng sự điều tra. Truyện ngắn thường là một “lát cắt” của cuộc đời, một “mảnh nhỏ” của tâm hồn nhân vật).

+ Không có sự phân biệt rạch ròi giữa truyện vừa và truyện dài (tiểu thuyết). Tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn. Có nhiều loại tiểu thuyết: Tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết sử thi ghi lại sự tích anh hùng – nhưng nhiều nhất là tiểu thuyết về những số phận cá nhân trong cuộc đời thường: Một cuộc sống không thi vị hoá với mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn, từ cao cả đến thấp hèn ti tiện. Nhân vật thường “nếm trải” bao nhiêu dằn vặt khổ đau của cuộc đời. Với khả năng phán ánh đời sống một cách toàn vẹn, sinh động, đổng thời đi sâu khám phá số phận cá nhân, sử dụng linh hoạt hư cấu, điển hình hoá, tổng hợp thủ pháp của các thể loại văn học, nghệ thuật khác, mang tính đa dạng về màu sắc thấm mĩ, tiểu thuyết được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ” (Cô-gi-nốp).

* Yêu cầu khi đọc – hiểu truyện:

– Đọc truyện cần biết hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để lấy cơ sở cảm nhận đúng nội dung truyện.

– Hiểu cốt truyện, diễn biến của tình tiết chính

– Nắm được tính cách của nhân vật từ đó hiểu tư tưởng, đặc điểm nghệ thuật của truyện


Luyện tập

Câu 1 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến.

Trả lời:

a. Nghệ thuật tả cảnh, tả tình.

– Về nghệ thuật tả cảnh, trước hết là việc chọn điểm nhìn: từ “ao thu” tới “tầng mây” rồi trở lại “ao thu” – như vậy trung tâm của sự miêu tả là ao thu. Tác giả đặc tả cận cảnh những gì quan sát được trên mặt ao mà gợi được cái thần thái của mùa thu nơi làng quê: se lạnh, trong trẻo và đặc biệt yên tĩnh. Lại có sự mở rộng của không gian với chiều cao đến vô tận của trời thu và dùng cái “động” để gợi cái tĩnh mịch, yên ả của làng quê.

– Về nghệ thuật tả tình, đáng chú ý là bút pháp tả cảnh ngụ tình: qua cảnh thu, người ta thấy sự quan sát tinh tế, tình yêu kín đáo mà thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, với quê hương đất nước, tâm trạng ưu thời mẫn thế.

b. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

Câu cá mùa thu là một minh chứng sinh động về sức biếu đạt của ngôn từ tiếng Việt. Ngôn ngữ thơ trong Câu cá mùa thu giản dị, trong sáng đến mức kì lạ, có khả năng biểu đạt một cách xuất sắc những biểu hiện rất tinh tế của cảnh vật cũng như những uẩn khúc thầm kín rất khó giãi bày của tâm trạng.

Câu cá mùa thu thành công nhiều mặt về nghệ thuật trong đó độc đáo nhất là cách gieo vần. Vần “eo” là một vần khó luyến láy, khó vận, thế nhưng nó lại được Nguyền Khuyến sử dụng một cách rất thần tình. Vần “eo” hợp ớ tất cả các câu bắt buộc (câu 1, 2, 4, 6 và câu 8). Nó góp phần diễn tả rất rõ cái cảm giác sắc, nhọn, cảm giác về một không gian thu nhỏ hẹp dần và khép kín lại, tạo nên sự hài hoà rất mực với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhân vật trữ tình.

Cùng với cách gieo vần độc đáo, bài thơ còn rất thành công trong nghệ thuật lấy động để tả tĩnh. Để gợi ấn tượng sâu đậm về cái yên ắng, cái tĩnh lặng của tâm trạng, tác giả xen vào một điệu “vèo” của lá và bâng khuâng đưa vào một âm thanh như có như không của tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”.

Cái hay của việc sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ còn được thể hiện ớ việc sử dụng các tính từ: trong veo, biếc, xanh ngắt, lơ lửng và các cụm động từ: gợn tí, khẽ dưa để làm nổi bật cảnh thu thanh sơ, dịu nhẹ mà thấm đậm hồn thu xứ Việt.


Câu 2 (trang 136 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Nhận xét vể cốt truyện, nhân vật, lời kể trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Trả lời:

– Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, Thạch Lam cũng thể hiện một tài năng viết truyện ngắn bậc thầy.

– Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện. Nó giống như một bài thơ. Toàn bộ câu chuyện chỉ kể vể tâm trạng thao thức của Liên và An, mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm đi ngang qua.

– Trong truyện ngắn này, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng nhân vật rất sâu sắc và tinh tế.

– Thạch Lam cũng sử dụng rất thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản (giữa một bên là ánh sáng tù mù, nhạt nhoà của ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí và bên kia là ánh sáng cực mạnh như xuyên thủng màn đêm của đoàn tàu…), qua đó nhấn mạnh, làm nổi bật khung cảnh nghèo nàn, vắng lặng của phố huyện nhỏ.

Truyện còn đặc sắc ở lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ của Thạch Lam. Ân hiện kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh và ngôn từ là một tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người và tạo vật.

phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Một số thể loại văn học: Thơ, truyện dành cho các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.

Top 5 Bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô (Ngữ Văn 10) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn 10, với bài học Thơ Hai-cư của Ba-sô, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.

Bài soạn tham khảo số 1

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ 1:

Nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là To-ky-o ngày nay):

– Mười mùa sương xa quên, mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E- đô

– Mười mùa sương gợi sự thương nhớ của người xa quê

– Tình yêu quê hương đất nước hòa quyện với nhau

Bài thơ 2:

Kyoto nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666- 1672), ông chuyển đến Ê-đô

– Hai mươi năm sau trở lại Kyoto nghe tiếng chim đỗ quyền hót cho Ba-sô cảm hứng sáng tác bài thơ

– Bài thơ gợi sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, chim báo mùa, gợi lên kỉ niệm tuổi trẻ

– Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về thời xa xăm

→ Thơ của Ba-sô mang lại những ấn tượng đầy lãng mạn, gợi lên nỗi nhớ, hoài cảm


Câu 2 (Trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ 3:

Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay Ba- sô rưng rưng dòng lệ chảy

+ Lòng thương cảm, xót xa, trống trải khi mẹ không còn

+ Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục

→ Tình mẫu tử khiến người đọc cảm động

Bài thơ 4:

Bài thơ trong hoàn cảnh đặc biệt: Ba sô kể chuyện từng đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú, tiếng kêu ấy gợi lên tiếng khóc của em bé bỏ rơi trong rừng

– Bài thơ gợi nhắc lại những năm tháng đau thương của nước Nhật: những năm mất mùa, đói kém, có những nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng

– Âm thanh tiếng vượn gợi nhớ tới những tiếng khóc, nỗi buồn đau của con người.

– Gió mùa thu cũng gợi lên nhiều nỗi đau thương, sự mơ hồ, mờ ảo của bài thơ, điều đó gợi ra sự đồng cảm của người đọc


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi đi du hành ngang qua rừng thấy kỉ nhỏ run lên trong cơn mưa mùa đông

– Nhà thơ mong muốn có chủ khỉ thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh

→ Bài thơ là tình yêu thương, yêu thương sâu sắc nhà thơ đối với kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 ( trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

– Bài thơ miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở.

Tác giả liên tưởng cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng

– Hình ảnh đẹp đẽ chứa đựng triết lí sâu sắc : sự tương giao mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới tác động qua lại lẫn nhau, không thể tồn tại độc lập

Về bài 7:

– Sự im lặng huyền diệu, trong cảnh u tịch có tiếng ve ngâm như thấm sâu vào đá

– Một liên tưởng độc đáo, không hề thậm xưng bởi cảnh u huyền đó là có thực và con người chìm vào thế giới suy tưởng của bản thân.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Khát vọng sống, khát vọng được lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8

– Trước cái chết, Ba- sô không hề bi lụy

+ Cuộc đời Ba-sô đã lang thang, phiêu bạt mọi nơi

+ Khi sắp từ giã cõi đời ông vẫn là người mang tâm hồn lãng du

+ Gợi tâm hồn Ba-sô lang thang trên những cánh đồng hoang vu.

→ Bài thơ giống như tâm nguyện của tác giả muốn được phiêu du


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Quý ngữ và cảm thức thẩm mĩ về cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền

– Qúy ngữ chính là “cánh hoa đào” gợi lên:

+ Mùa xuân tươi đẹp

+ Cảm thức thẩm mĩ đơn sơ của bài thơ hai- cư này chính là triết lí sâu sắc rút ra được bức tranh mùa xuân tươi đẹp

– Bài thơ 7 quý ngữ “tiếng ve ngâm”: âm thanh vang vọng mùa hè, cảm thức thẩm mĩ nằm trong sự u huyền, tịch mịch nhưng cũng gợi sự thẩm thấu vào kẽ lá

– Quý ngữ bài 8: “những cái đồng hoang vu”, những cánh đồng hiện lên giấc mơ tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như gợi lên mùa thu hiu quạnh, cảm thức ẩn sâu trong sự vắng lặng đó.

Bài soạn tham khảo số 2

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Bài 1: Ê-đô là đất khách. Vậy mà, trong giây phút chia xa, Ê-đô trở nên thân thiết, gần gũi, sâu nặng như chính quê hương mình.

Bài 2: Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng kêu của chim đỗ quyên. Tiếng kêu nghe khắc khoải gợi lại kỉ niệm một thời trẻ tuổi. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm


Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Bài 3: Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ: là giọt lệ như sương, hay mái tóc bạc của mẹ như sương, hay cuộc đời như giọt sương: ngắn ngủi, vô thường.

=>Tình mẫu tử xúc động, thiêng liêng.

Bài 4 :

– Nghe tiếng Vượn hú, Ba – sô liên tưởng đến tiếng khóc của trẻ bị bỏ rơi trong rừng.

– Tiếng Vượn là thật hay tiếng trẻ em khóc là thật.

– Trong gió mùa thu, hay tiếng gió mùa thu đang than khóc cho nỗi đau buồn của con người=> Hình ảnh trong thơ thật mơ hồ, mờ ảo.


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Bài thơ thể hiện lòng từ bi, nhân ái với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp cũng là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ của tác giả.


Câu 4 (trang 157sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Cảnh tượng: Cánh hoa đào làm mặt hồ gợn sóng -> đẹp giản dị mà nên thơ.

– Triết lí sâu sắc: Sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ (trời, hoa, nước) =>Triết lí của Thiền Tông.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Khát vọng sống ngay lúc đang bệnh, sống để tiếp tục cuộc du hành lang thang, phiêu bồng, lãng du => tinh thần lạc quan.


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Quý ngữ trong các bài thơ:

+ Bài 6: Hoa đào (chỉ mùa xuân)

+ Bài 7: Tiếng ve (chỉ mùa hè)

+ Bài 8: Cánh đồng hoang vu (chỉ mùa đông).

– Cảm thức thẩm mĩ:

+ Hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé, bình dị, tầm thường.

+ Đơn sơ, vắng lặng: cánh hoa đào mỏng manh rơi làm mặt hồ gợn sóng

+ U huyền: âm thanh của tiếng ve ngân tưởng như thấm sâu vào đá, một linh hồn sắp lìa khỏi thế gian vẫn muốn tiếp tục lang thang trên cánh đồng hoang vu, bất tận.

=> Hòa nhập với thiên nhiên để tìm vẻ đẹp thuần khiết, nhẹ nhàng của nó và giải thoát tâm linh mình

=> Đậm chất thiền

Bài soạn tham khảo số 3

Câu 1 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm:

– Về bài 1: Ba-sô quê ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô ở được mười năm mới về thăm quê. Ở Ê-đô, Ba-sô rất nhớ quê, nhưng về quê rồi rồi Ba-sô lại thấy nhớ Ê-đô. Có lẽ ông đã coi Ê-đô như quê hương mình, muốn gắn bó với mảnh đất ấy như nơi mình đã sinh ra.

– Về bài 2: Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên ở bài thơ này. Đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm. Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.


Câu 2 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi:

– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử. Ông đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”. Dòng nước mắt của nỗi xót xa, đau đớn, tình yêu thương đối với người mẹ đã khuất. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.

– Bài 4: Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ. Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc. Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người. Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương khôn nguôn.


Câu 3 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ qua bài 5:

Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện lòng từ bi với những sinh vật tội nghiệp và tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng được thể hiện qua:

– Bài 6: miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở. Tác giả liên tưởng hàng ngàn cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng. Chính cảnh tượng đẹp đẽ này lại ẩn chứa một triết lí vô cùng sâu sắc: sự tương giao của mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới này đều tác động qua lại lẫn nhau, không có vật thể nào tồn tại độc lập.

– Bài 7: Trong cái không gian im lăng, có chút gì đấy trầm buồn thì tiếng ve hiện lên. Không râm ran, nó rền rĩ để rồi thấm vào đá. Khung cảnh u tịch, vắng lặng mang chút buồn


Câu 5 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô:

Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô không hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.

Câu 6 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): “Quý ngữ” và cảm thức thẩm mĩ về cái Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền trong các bài 6,7,8:

– Bài 6: quý ngữ là “cánh hoa anh đào”. Hình ảnh này gợi lên mùa xuân. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.

– Bài 7: quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Bài 8: “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.

Bài soạn tham khảo số 4

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài 1: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay)

+ Đã mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E-đô, rất nhớ quê cũ nhưng có một lần trở về quê cha đất tổ ông lại không thể nào quên được Ê-đô.

+Ngoảnh lại Ê- đô đã là cố hương, tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.

– Bài 2:

+ Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên , đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm.

+ Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.


Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử.

+ Nhà thơ đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”.

+ Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,…

+ Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.

– Bài 4:

+ Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa: vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ.

+ Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc.

+ Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người.

+ Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương, xót xa


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cái lạnh.

⇒ Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Ở bài 6 chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa.

+ Đây là thời kì chuyển giao mùa.

+ Cái nhỏ bé ,đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ.

+ Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.

– Bài 7 ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè.

+ Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh.

+ Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi.

+ Câu thơ thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài thơ 8 là bài thơ từ thế của Ba- sô.

– Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi.

– Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình.

– Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy: được lang thang trên những cánh đồng hoang vu


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài thơ số 6, quý ngữ là “cánh hoa đào”.

⇒ Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp

– Bài thơ số 7 quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”.

⇒ Cảm thức thẩm mĩ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Bài thơ số 8 quý ngữ nằm ở “những cánh đồng hoang vu”

⇒ Cảm thức thẩm mĩ của bài ẩn sâu trong cái vắng lặng của những cánh đồng hoang vu

Bài soạn tham khảo số 5

Câu 1 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố E-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện như thế nào trong bài một và hai?

Lời giải chi tiết:

– Bài một: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quê, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê -đô. Ê – đô đã trở thành quê hương thứ hai của tác giả. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.

– Bài hai: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Câu thơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.

Câu 2 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tình cảm đổi với mẹ và em bé bỏ rơi thể hiện như thế nào trong ba bài 3, 4?

Lời giải chi tiết:

– Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.

– Bài 4: Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng.

Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa.

Những câu chuyện như thế in đậm vào tâm khảm nhà thơ. Vì thế, nghe tiếng vượn hú mà Ba-Sô lại liên tưởng đến tiếng người. Tiếng vượn hay chính là tiếng trẻ con khóc thật. Hay trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người? Gió mùa thu tái tê hay lòng thi nhân tái tê hay lòng thi nhân tái tê khi nghe thấy những âm thanh gợi lên nhiều nỗi đau thương đó? Cái mơ hồ, mờ ảo của bài thơ nằm ở đây, nó chờ câu trả lời từ sự đồng vọng trong lòng người đọc.

Câu 3 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Qua bài 5, anh (chị) cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?

Lời giải chi tiết:

– Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.

Câu 4 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ được thể hiện như thế nào ở bài sáu, bảy?

Lời giải chi tiết:

– Ở bài sáu chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa.

Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.

– Đến bài bảy ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy của nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.

Câu 5 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện như thế nào trong bài 8?

Lời giải chi tiết:

– Khát vọng sống, khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8.

– Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô khoogn hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.

Câu 6 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tìm quý ngữ và cảm thức vê cái vắng lặng, đơn sơ, u huyên trong các bài thơ sáu, bảy, tám?

Lời giải chi tiết:

– Trong bài thơ số 6, quý ngữ của bài chính là “cánh hoa đào”. Đó là hình ảnh gợi nên mùa xuân tươi đẹp. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.

– Ở bài thơ số 7 quý ngữ của bài nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Quý ngữ của bài thơ số 8 lại nằm ở “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.

phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.

Top 6 Bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ Văn 10) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn 10, với bài học Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.

Bài soạn tham khảo số 1

Bố cục

– 6 câu đầu: cuộc sống và lẽ sống “nhàn”của tác giả

– 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về cuộc đời


Câu 1 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Nhịp điệu của câu thơ gợi lên sự ung dung, thong thả:

Một mai/ một cuốc,/một cần câu (2/2/3)

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào (4/3)

– Tâm trạng ung dung tự tại trong những công việc lao động hàng ngày

– Cuộc sống nghèo, thanh nhã, đạm bạc cho thấy nhà thơ có nhu cầu sống khiêm tốn, bình dị.


Câu 2 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Sử dụng nghệ thuật đối: dại >< khôn, vắng vẻ >< lao xao, ta >< người

– Quan điểm sống của tác giả, có chút mỉa mai, ngạo nghễ

+ Tác giả tự nhận mình “ngu” dại, đây là cái ngu dại của bậc đại trí (đại trí như ngu), thực chất là “khôn”

+ Ông khiêm tốn, không khoe khoang đây là cái thức của người trí nhân

– Vắng vẻ: không phải xa lãnh cuộc đời mà là được tìm nơi thoải mái, sống hòa nhập với thiên nhiên, xa chốn quan trường để giữ nhân cách thanh cao

– Chốn lao xao: ý nói chốn quan trường tuy quyền quý, cao sang xong phải đối chọi, bon chen

→ Nghệ thuật đối lập khẳng định triết lý sống của tác giả, ông mượn cách nói đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình- xa lánh vinh hoa phú quý để sống an yên, tự tại


Câu 3 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Cảnh vật, khung cảnh bình dị, đạm bạc mà thanh cao hòa nhập với đời sống thiên nhiên

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Nhịp thơ: 1/3/1/2 gợi tả khung cảnh sinh hoạt của tác giả trong từng mùa, cách sống nhàn là hòa với tự nhiên

+ Mỗi mùa một thức: thu – trúc, đông – giá, xuân – hồ sen, hạ – ao

+ Mọi sinh hoạt đều gắn liền với cuộc sống ở quê chất phác, đạm bạc mà thanh cao

+ Tác giả thấy hứng thú, vui vẻ khi hòa nhịp với thiên nhiên

→ Sự thanh thản, ung dung trong cuộc sống nhàn ấy tỏa sáng nhân cách của bậc trí nhân

– Cảnh thú cảnh sống nhàn ẩn dật mang triết lí của nho sĩ: trong lúc loạn lạc, người có nhân cách thanh cao là người xa lánh cuộc bon chen tầm thường để tìm đến nơi yên tĩnh

Sự vui thú sống hòa mình với thiên nhiên, vũ trụ và giữ được nhân cách thanh cao, trong sạch.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Điển tích vua Thuần Vu, thể hiện quan điểm sống mang tính triết lý của tác giả- bậc trí giả uyên thâm, từng ra vào chốn quan trường hiểm ác.

– Tác giả muốn giữ sự thanh cao, trong sạch trong tâm hồn: xem phú quý tựa chêm bao, phù phiếm…

– Sự suy thịnh thuộc về quy luật của vũ trụ, triều đại, đất nước, vì vậy nhà Nho chân chính đều tự ý thức được sự cao quý của bản thân, vì vật cần giữ tâm hồn thanh sạch, không bị thói đời đua chen làm hoen ố.

– Hai câu cuối cho thấy tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là kẻ sĩ thanh cao, liêm khiết

Câu 5 (trang 130 sgk ngữ văn 10 tập 1)

Quan niệm sống Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) không phải rũ bỏ thế sự để nhàn tản, không phải sự nhàn tản của bản thân mà phó mặc dân chúng

+ Ông sống hòa hợp với tự nhiên, thuận tự nhiên, rời bỏ danh lợi để giữ cốt cách thanh cao

+ Ông vẫn lo cho vận nước sức dân, nhà thơ tìm đến “say” nhưng để “tỉnh” nhận ra phú quý chỉ là phù du, phù phiếm

+ Ông luôn bộc trực, không thờ ơ trước tình cảnh của dân chúng (ông dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần)

→ Quan niệm sống nhàn của ông chứa đựng yếu tố tích cực khác với lối sống “độc thiện kì thân”


Luyện tập

Bài 1 (Trang 130 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1549 -1585), chứng kiến cảnh sống ngang trái, bất công trong triều đại phong kiến Việt Nam.

– Ông là người ngay thẳng nên từng dâng sớ chém đầu những tên nịnh thần, vua không nghe nên ông cáo quan về quê với triết lý: Nhàn một ngày là tiên một ngày.

– Tư tưởng, triết lý sống của ông là tư tưởng của đạo nho, ứng xử trong thời loạn, sống chan hòa với thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bình Khiêm: thanh cao, trong sạch

Nhàn là chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo quan niệm của ông: sống tự nhiên, không màng danh lợi, đó cũng là triết lý nhân sinh độc đáo của nahf thơ.

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn: giản dị, đạm bạc mà thanh cao, trong sạch

+ Vui thú với lao động, nguyên sơ, chất phác

+ Không ganh tị với đời, với người, vẫn ung dung, ngạo nghễ

– Những hình ảnh dân dã, đời thường trong lối sinh hoạt của tác giả:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

+ Cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thanh tao trong cách ăn uống, sinh hoạt

+ Niềm vui, sự tự tại của tác giả thú vị vô cùng

– Hai câu thơ thực, thấy rõ tâm trạng, lối sống “nhàn” của tác giả:

+ Nghệ thuật đối lập: ta >< người, khôn >< dại, vắng vẻ >< lao xao

+ Suy nghĩ của bậc đại trí, tránh xa chốn quan trường thị phi

+ Ý thơ ngược với câu chữ, liên tưởng hóm hỉnh, sâu cay

– Hai câu kết: tâm thế ung dung tự tại, xem thường phú quý

+ Sử dụng điển tích vua Nghiêu Thuấn để thể hiện nhãn quan tỏ tường của nhà thơ. Phú quý chỉ là phù du, hư ảo như giấc chiêm bao.

→ Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, quan niệm sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách, xem thường danh lợi.

Bài soạn tham khảo số 2

I. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất:

+ Số từ “một” được lặp lại ba lần: tư thế sẵn sàng lao động.

+ Danh từ: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

=> Hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– Nhịp điệu hai câu thơ đầu:

+ Câu 1 nhịp thơ ngắt 2/2/3

+ Câu 2 nhịp thơ ngắt: 4/3

=> Sáng tạo hơn so với thơ đường luật. Nhịp thơ cho thấy sự khoan thai, tự tại của chủ thể trữ tình.

– Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Nơi “vắng vẻ: là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái tâm hồn.

– Chốn “lao xao” là chốn đô hội, cửa quyền, nơi con người bon chen danh lợi.

– Quan điểm của tác giả về dại – khôn:

+ Chữ “dại” tác giả tự vận vào mình hóa ra là “không dại” vì thời thế khi những kẻ lộng quyền xấu xa hoành hành thì việc rút lui khỏi chốn quan quyền là điều đúng đắn.

+ Chữ “khôn” tác giả dùng cho “người ta” lại là “không khôn”: xã hội lọan lạc, rối ren con sẽ đánh mất nhân phẩm, một mực bon chen, giành giật để đạt danh vọng, trở thành những kẻ xấu như bao kẻ xấu kia.

=> Tác giả tự nhận mình dại, cho người khôn.

=> Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

– Nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4:

+ Khôn >< dại

+ Nơi vắng vẻ >< chốn lao xao

=> Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

=> Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh khiêm xuất phát từ trí tuệ uyên thâm, từ nhân cách cao quý.


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6:

+ Các sản vật: Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá =>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Khung cảnh sinh hoạt: xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao. Sự hòa quyện, gắn bó giữa con người và thiên nhiên.

– Giá trị nghệ thuật:

+ Hình ảnh dung dị, mộc mạc, chân tình.

+ Ngắt nhịp: 1/3/1/2 => nhấn mạnh các mùa trong năm, mùa nào thức nấy.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu nằm dưới gốc cây hòe để thức tỉnh, nhận ra chân lý cuộc sống: Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

=> Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.

– Tác giả khẳng định cái tồn tại vĩnh hằng là thiên nhiên và nhân cách con người. Phủ nhận danh lợi, vật chất đều là hư vô. => Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.


Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: không màng phú quý. Ông xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên cây cỏ. Đó là lối sống không vướng bận, không bon chen.

=> Quan niệm sống tích cực vì trong hoàn cảnh rối ren, nhiều bon chen, phụ bạc tác giả muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình.


II. Luyện tập

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn:

Gợi ý:

a. Mở bài: giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và tác phẩm Nhàn.

b. Thân bài:

– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

– Phân tích bài thơ:

1. Hai dòng thơ đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.

– Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

– Điệp từ: một (3 lần) => tư thế sẵn sàng lao động => hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi => Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

– Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị

2. Hai dòng thơ thực: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.

+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .

+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.

– Tự nhận mình dại, cho người khôn =>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gắn bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch. => Bộc lộ thái độ, phương châm sống của mình pha chút mỉa mai người khác.

=> Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

3. Hai dòng thơ luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá => Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao => thú vui tao nhã, thanh bần.

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao.

4. Hai dòng thơ cuối: chân lý về cuộc sống.

– Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

– Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.=> Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.

=> Bài học về quan niệm sống, lẽ sống: Con người nên sống thanh thản, yêu thương nhau, trân trọng và gìn giữ vẻ đẹp bình dị, nhân cách thanh cao đồng thời phê phán lối sống xa xỉ, chạy theo vật chất, danh lợi cá nhân.

c. Kết bài: Bài thơ thể hiện được quan niệm “nhàn” của nhà thơ và tình yêu thiên nhiên tha thiết.

Bài soạn tham khảo số 3

Hướng dẫn soạn bài

Bố cục

– 6 câu đầu: cuộc sống và lẽ sống “nhàn”của tác giả

– 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về cuộc đời

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có một số điểm đáng chú ý:

+ Số từ “một… một… một…” cho thấy tác giả chủ động với công việc

+ Nhịp thơ 2/2/3 tạo sự thảnh thơi, nhàn nhã

+ Chữ “ai” ở câu thơ thứ hai để nói với người: dù cho người ta có “vui thú nào” thì ông vẫn vui vẻ với cuộc sống thôn dã

– Hai câu thơ ấy cho ta thấy cuộc sống nhàn nhã ở nơi thôn dã của tác giả. Ông vui vẻ, hài lòng với đời sống “tự cung tự cấp”, đồng thời hai câu thơ cũng cho thấy sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang tàng vẫn cứ thuần hậu, nguyên thủy


Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách hiểu về “nơi văng vẻ” và “chốn lao xao”:

+ “nơi vắng vẻ”: là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người; là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.

+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ; nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt

– Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”: tác giả tự nhận mình là người “dại” , chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nhường người “khôn” đến “chốn lao xao”. Ông đã trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

– Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý:

+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ

+ Sinh hoạt: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác

+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.

– Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đạm bạc mà thanh cao. Sự đạm bạc ở những thức ăn cây nhà lá vườn, tự mình làm ra, là công sức của chính mình. Cuộc sống tự nhiên mùa nào thức ấy, không hề nặng nề, ảm đạm mà trái lại nó thanh cao, bình dị.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Hai câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với cái nhìn thông tuệ của mình, ông tìm đến “say” để “tỉnh”. Hình ảnh một ông già ngồi một mình bên gốc cây uống rượu hiện lên với vẻ thoải mái nhưng “lạc lõng”. Nhiều năm trong chốn quan trường kia để ông nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Đây là cái nhìn của một nhân cách lớn, một trí tuệ lớn.


Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp với tự nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao. Với ông, sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống nhàn tản của bản thân mà sống nhàn là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên. Cuộc sống như vậy sẽ vất vả nhưng nó đem đến cho ông sự thoải mái trong tâm hồn, giữ được sự thanh sạch trong đời mình.

Luyện tập

Vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Nguyễn Bình Khiêm là người có học vấn uyên thâm, là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. “Bạch Vân quốc âm thi tập” một tập thơ tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm và “Nhàn” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập thơ này. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp trong cuộc sống và tâm hồn của nhà thơ.

Với những ngôn từ giản dị, tác giả viết:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Hai câu thơ đầu được mở ra với những dụng cụ lao động quen thuộc của người dân, làm hiện lên hình ảnh một ông lão nông dân với cuộc sống thảnh thơi của mình. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “nước giếng đào, cơm cày ruộng”. câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một… một… một… Tất cả điều đó làm hiện lên một cuộc sống thôn quê nhàn nhã, dù cho ai đang vui với bất kì thú vui nào, ta vẫn mặc đó, ta vui với thú vui giản dị của ta.

Hai câu thơ sau được nối tiếp với những món ăn dân dã theo mùa, những hoạt động thể hiện lối sống nhàn, hòa mình với cuộc sống bình dị:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường. Thu với măng trúc, đông với giá – những món ăn quen thuộc, không chút cầu kì cho thấy một cuộc sống giản dị vô cùng. Những sinh hoạt trong cuộc sống cũng thể hiện lối sống thanh sạch ấy: tắm ở hồ sen và tắm ao. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như chẳng còn chút gợn gì về một vị quan lớn của triều đình. Đây là một cuộc sống thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Không chỉ đẹp trong cuộc sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách của bản thân khi đưa ra những quan niệm sống của mình:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn” của “ta” và “người” thật khác lạ. Ta là kẻ “dại” nên tìm nơi thôn quê dân giã để về, người “khôn” người vào với trốn quan. Sau những năm tháng làm quan trong triều, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu ra những góc khuất của trốn này. Và Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Phải là một người từng trải mới có thể nhận ra cái dại, cái khôn ở đời. Điều này khiến người đọc ngẫm ra ai mới là kẻ “dại”, ai mới là người “khôn”.

Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ cuối là nét vẽ cuối cùng trong bức tranh về cuộc sống nhàn, ở đó nhân vật đang ngồi dưới gốc cây uống rượu để ngẫm về sự đời. Hóa ra, trong cuộc sống nhàn kia lại có biết bao băn khoăn, trăn trở, chứa đựng những nỗi niềm riêng. Đó là khát khao được đem sức của mình ra để phục vụ việc triều chính nhưng đành bất lực trước thế sự trước mắt. Đến đây, ta ngẫm ra một sự thật rằng phú quý, giàu sang chỉ như giấc mơ mà ai ai cũng muốn được với tới. Và chỉ có những người đã thoát ra khỏi trốn quan trường kia mới biết cuộc sống dân giã mới đáng quý thế nào.

Bài thơ không chỉ phác họa một bức tranh bốn mùa với những thức ăn, hoạt động dân giã mà ở đây nó còn thể hiện chân dung của con người hòa mình trong cuộc sống thôn quê, chất phác với những nét đẹp trong cuộc sống và nhân cách, tâm hồn.

Bài soạn tham khảo số 4

Bố cục

– Phần 1( hai câu đầu): cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.

– Phần 2 ( hai câu tiếp): quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– Phần 3 (hai câu tiếp): đồ ăn thức uống nơi thôn dã.

– Phần 4 (còn lại): rút ra chân lý về cuộc sống.

Nội dung bài học

– Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữa cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi


Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Trong câu đầu, nhà thơ dùng một số’ từ “mỗi” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ nông ngư cho thấy sự chủ động với công việc

– Nhịp điệu (2/2/3) và (4/3) trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung

– Hai câu thơ ấy cho ta thấy

+ cuộc sống nhàn nhã ở nơi thôn dã của tác giả.

+ tâm trạng vui vẻ, hài lòng với đời sống tự cung tự cấp cùng sự ngông ngạo trước thói đời của tác giả


Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Cách hiểu:

+ “nơi vắng vẻ”: là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.

+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ, nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt

– Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”:

+ tác giả tự nhận mình là người “dại” , chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nhường người “khôn” đến “chốn lao xao”

+ tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, tác giả là người từng trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

– Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống, để khẳng định triết lí sống của tác giả


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý:

+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ

+ Sinh hoạt đời thường: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác

+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.

– Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đạm bạc mà thanh cao

+ đạm bạc ở những thức ăn cây nhà lá vườn, tự mình làm ra

+ cuộc sống tự nhiên mùa nào thức ấy bình dị mà thanh cao


Câu 4 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Hai câu cuối của bài thơ thể hiện quan niệm sống mang tính triết lí của tác giả: sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời bon chen để giữ cho tâm hồn cốt cách được trong sạch

– Qua đó cho thấy tâm hồn, nhân cách kẻ sĩ thanh cao, trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm


Câu 5 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp vời tự nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao.

– Sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống của bản thân mà là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên.

– Cuộc sống như vậy tuy giản dị nhưng cho ông sự thoải mái, thanh sạch trong tâm hồn,


LUYỆN TẬP

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên thật giản dị, đạm bạc nhưng thanh cao, trong sạch.

– Triết lí sống của ông là tư tưởng nhân sinh của đạo nho, ứng xử trong thời loạn: sống chan hòa với thiên nhiên, giữ cho tâm hồn luôn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhân cách của một nhà nho ẩn sĩ: cao cả, trong sạch, uyên thâm

Bài soạn tham khảo số 5

Câu 1 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Cách dùng số từ, danh từ trong câu thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu. Có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?

Lời giải chi tiết:

– Trong câu đầu, nhà thơ dùng một số’ từ “mỗi” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ nông ngư: “Một mai, một cuốc, một cần câu”.

– Nhịp điệu trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung:

Một mai, /một cuốc, / một cần câu (2/2/3)

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào (4/3)

– Hai câu thơ thể hiện quan niệm về cuộc sống nhàn. Đó là sống ung dung trong những việc hàng ngày (lao động, vui chơi); cuộc sống nghèo, thanh đạm, nhàn nhã, và chan hoà cùng thiên nhiên. Ba chữ “một” trong câu thơ để thấy nhu cầu cuộc sống của tác giả chẳng có gì cao sang thật khiêm tốn, bình dị.

Câu 2 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Anh (chị) hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lốn xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu 3 và 4?

Lời giải chi tiết:

– Hai tiếng “ta dại, người khôn” khẳng định phương châm sống của tác giả, pha chút mỉa mai với người khác. Ta dại có nghĩa là ta ngu dại. Đây là cái ngu dại của bậc đại trí. Người xưa có câu “Đại trí như ngu” nghĩa là người có trí tuệ lớn thường không khoe khoang, bề ngoài xem rất vụng về, dại dột. Cho nên khi nói “ta dại” cũng là thể hiện nhà thơ rất kiêu ngạo với với cuộc đòi.

+ Tìm nơi “vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái, hoà nhập với thiên nhiên, lánh xa chốn quan trường, lợi lộc để tìm chốn thanh cao.

+ “Chốn lao xao” là chốn vụ lợi, chạy theo vinh hoa, lợi ích vật chất, giành giật hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho cách sống nhàn nhã là xa lánh không quan tâm tới danh lợi.

– Đây là cách nói của đời thường, chưa phải quan niệm của tác giả. Tác giả mượn lời nói của đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình mặc người đời cho là khôn hay dại. Nho sĩ thời loạn vẫn tìm về nơi yên tĩnh để ở ẩn.

– Đối lập giữa “nơi vắng vẻ với chốn lao xao”, tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật; xa lánh chốn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa của mỗi vế.

Câu 3 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu 5 – 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ này cho thây cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu này?

Lời giải chi tiết:

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hoà nhập cùng cỏ cây hoa lá.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ?

Nhịp thơ của hai câu là 1/3/1/2. Nhịp một nhấn mạnh vào các mùa trong năm, ăn, tắm đều thích thú, mùa nào thức ấy. Cách sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên.

– Măng, trúc, giá, hồ sen, ao tất cả đều gần gũi với cuộc sống quê mùa chất phác, sinh hoạt rất đạm bạc mà thanh cao. Cho dù sinh hoạt ấy còn khổ cực, còn thiếu thốn nhưng đó là thú nhàn, là cuộc sống hoà nhịp với tự nhiên của con người. Từ trong cuộc sông nhàn ấy là toả sáng nhân cách.

Cái thú cảnh sông nhàn ẩn dật mang tính triết lí của các Nho sĩ là ở chỗ: trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh cuộc bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hoà mình với thiên nhiên, vũ trụ và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch.

Câu 4 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Với điển tích được vận dụng trong hai câu cuối, anh (chị) cảm nhận như thế nào về nhân cách của Nguyến Bỉnh Khiêm?

Lời giải chi tiết:

– Với điển tích Thuần Vu, ta thấy hai câu cuối của bài thơ thể hiện quan niệm sống mang tính triết lí của tác giả: sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời bon chen để giữ cho tâm hồn cốt cách được trong sạch: với “phú quý” (sự giàu sang) nhà nho chỉ thấy “tựa chiêm bao” (như trong giấc mộng) nghĩa là có mà cũng như không, rất phù phiếm, không có gì quan trọng…

– Đây là triết lí của đạo Nho: sự thịnh hay suy là quy luật của vũ trụ, đất nước, triều đại có lúc hưng, lúc vong. Nhà nho là người “hiểu được ý Trời” nên khi nào ra làm quan, khi nào về ở ẩn, tất thảy đều tuân theo “mệnh Trời” (với tư cách là hình ảnh của quy luật tự nhiên và xã hội). Trong cả hai trường hợp, nhà nho chân chính đều tự coi mình là cao quý, họ phải giữ cho tâm hồn, cốt cách trong sạch, không bị thói đòi làm hoen ố.

=> Hai câu cuối cho thấy tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ là một kẻ sĩ thanh cao và trong sạch.

Câu 5 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Quan niệm sống nhàn của Nguyển Bỉnh Khiêm là gì?

Lời giải chi tiết:

– Quan niệm nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là tìm đến sự nhà nhã để chẳng phải vất vả, cực nhọc. Nhàn cũng không phải để thỏa thú nhàn tản của bản thân, thây kệ cuộc đời, không bận tâm đến xã hội.

– Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên; nhàn là xa rời phương danh lợi, quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.

– Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn thân mà không nhàn tâm. Nhàn mà vẫn lo âu việc nước, việc đời. Nhà thơ tìm đến “say” nhưng là để tỉnh: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

=> Quan niệm sống nhàn của ông chứa đựng nhiều yếu tố tích cực khác với lối sống “độc thiện kì thân” (tốt cho riêng mình”.

Luyện tập

Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn.

Lời giải chi tiết:

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1549 -1585), chứng kiến cảnh sống ngang trái, bất công trong triều đại phong kiến Việt Nam.

– Ông là người ngay thẳng nên từng dâng sớ chém đầu những tên nịnh thần, vua không nghe nên ông cáo quan về quê với triết lý: Nhàn một ngày là tiên một ngày.

– Tư tưởng, triết lý sống của ông là tư tưởng của đạo nho, ứng xử trong thời loạn, sống chan hòa với thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bình Khiêm: thanh cao, trong sạch

Nhàn là chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo quan niệm của ông: sống tự nhiên, không màng danh lợi, đó cũng là triết lý nhân sinh độc đáo của nahf thơ.

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn: giản dị, đạm bạc mà thanh cao, trong sạch

+ Vui thú với lao động, nguyên sơ, chất phác

+ Không ganh tị với đời, với người, vẫn ung dung, ngạo nghễ

– Những hình ảnh dân dã, đời thường trong lối sinh hoạt của tác giả:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

+ Cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thanh tao trong cách ăn uống, sinh hoạt

+ Niềm vui, sự tự tại của tác giả thú vị vô cùng

– Hai câu thơ thực, thấy rõ tâm trạng, lối sống “nhàn” của tác giả:

+ Nghệ thuật đối lập: ta >< người, khôn >< dại, vắng vẻ >< lao xao

+ Suy nghĩ của bậc đại trí, tránh xa chốn quan trường thị phi

+ Ý thơ ngược với câu chữ, liên tưởng hóm hỉnh, sâu cay

– Hai câu kết: tâm thế ung dung tự tại, xem thường phú quý

+ Sử dụng điển tích vua Nghiêu Thuấn để thể hiện nhãn quan tỏ tường của nhà thơ. Phú quý chỉ là phù du, hư ảo như giấc chiêm bao.

=> Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, quan niệm sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách, xem thường danh lợi.

Bài soạn tham khảo số 6

Trả lời câu 1 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Cách dùng số từ (tính đếm rành rọt một…một…một) và danh từ (mai, cuốc, cần câu) trong câu 1 cho thấy nhà thơ đã chuẩn bị sẵn sàng, chu đáo mọi dụng cụ lao động cần thiết để vui với thú thanh nhàn của mình.

– Nhịp điệu của hai câu thơ đầu đều là 2/2/3 gợi tâm thế nhẹ nhàng, thong thả của một con người ung dung, tự tại với cuộc sống của mình.

=> Hai câu thơ gợi cuộc sống thuần hậu, đơn sơ giữa thôn quê như một lão nông tri điền cùng tâm trạng vui vẻ, thư thái của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trả lời câu 2 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi bình yên của tâm hồn, đó là nơi thôn quê dân dã, không có sự bon chen, cầu cạnh, lừa lọc. Đối lập với nơi vắng vẻ là chốn lao xao, đó là nơi phồn hoa đô hội đầy rẫy cảnh sát phạt, luồn lọt, nịnh hót để giành lợi về mình.

– Qua cách nói ngược, nói đùa của tác giả, ta hiểu theo nhà thơ, dại là tranh giành, đấu đá, uốn mình để tranh giành danh lợi, khôn là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống thảnh thơi cùng thiên nhiên.

– Nghệ thuật đối cùng cách nói ngược trong hai câu 3,4 giúp biểu đạt quan niệm về dại, khôn một cách thú vị, ấn tượng. Nhà thơ như đứng trên mọi thói đời danh lợi để bày tỏ cái nhìn tỉnh táo của mình.

Trả lời câu 3 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Các sản vật dân dã theo mùa như măng trúc, giá và khung cảnh sinh hoạt bình dị xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao cho thấy cuộc sống thuần hậu mà thanh cao, giản dị, hòa hợp với tự nhiên.

– Hai câu thơ 5,6 sử dụng nghệ thuật đối cùng các hình ảnh bình dị, dân dã đem lại bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt nơi thôn quê với đủ mùi vị, hương sắc.

Trả lời câu 4 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Hai câu thơ cuối sử dụng điển tích về giấc chiêm bao của Thuần Vu Phần.

– Qua việc sử dụng điển tích này, nhà thơ bộc lộ cái nhìn thông tuệ, xem phú quý công danh chỉ là giấc chiêm bao

=> Nhân cách thanh cao, trong sáng, bản lĩnh hơn đời hơn người.

Trả lời câu 5 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, để sống hòa hợp với tự nhiên.

– Đây là quan niệm sống tích cực bởi nó hướng con người tới lối sống thiện lành, thông tuệ, vượt lên danh lợi tầm thường.


Luyện tập

Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm

– Giới thiệu tác phẩm Nhàn

– Dẫn dắt vấn đề

Thân bài:

– Hoàn cảnh sáng tác

1. Hai câu đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.

– Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

– Điệp từ: một (3 lần)=> tư thế sẵn sàng lao động

=> hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi.

=> Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

– Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị.

2. Hai câu thực: quan niệm về sống “nhàn” của tác giả

– “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.

+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .

+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.

– Tự nhận mình dại, cho người khôn =>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gán bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch.

=>Bộc lộ thái độ, phương châm sống của mình pha chút mỉa mai người khác.

=>Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

3. Hai câu luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá=>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần.

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao.

4. Hai câu kết: chân lý về cuộc sống.

– Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

– Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.

=> Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.

=> Bài học về quan niệm sống, lẽ sống: Con người nên sống thanh thản, yêu thương nhau, trân trọng và gìn giữ vẻ đẹp bình dị, nhân cách thanh cao đồng thời phê phán lối sống xa xỉ, chạy theo vật chất, danh lợi cá nhân.

Kết bài:

– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.

Top 6 Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ lớp 11 hay nhất

Bài thơ “Chiều xuân” của tác giả Anh Thơ trích trong tập “Bức tranh quê” in năm 1941 là bức họa xinh đẹp về cảnh mùa xuân xứ Bắc đồng thời là tình yêu quê hương đất nước nồng nàn. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết sau.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 1

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh ra tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

– Anh Thơ có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp sống nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bà là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại.

– Tác phẩm chính: Bức tranh quê ( thơ – 1941), Kể chuyện Vũ Lăng ( truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986), Tuyển tập Anh Thơ (1986).

2. Tác phẩm

Bài Chiều xuân được rút ra từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

Bố cục: 3 phần:

– Phần 1 (khổ 1): Chiều xuân trên bến vắng

– Phần 2 (khổ 2): Chiều xuân trên đường đê

– Phần 3 (khổ 3): Chiều xuân trong đồng lúa

II. Hướng dẫn đọc thêm

Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Bức tranh quê chiều xuân hiện lên:

– Khổ 1: Bức tranh quê vào mùa xuân tĩnh lặng, êm đềm, thơ mộng, buồn phảng phất dịu dàng trong cơn mưa xuân dịu êm với các hình cảnh: con đò biếng lười, dòng sông trôi, quán tranh im lìm, hoa xoan tím rụng.

– Khổ 2: Bức tranh sinh động nhẹ nhàng: đàn trâu gặm cỏ, những cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có sự tươi mát, thơ mộng, đầy ảo giác qua sự phát hiện mới mẻ và đầy kì thú của nhà thơ.

– Khổ 3: cảnh êm đềm, nhẹ nhàng. Đặc biệt đoạn thơ có sự xuất hiện của con người làm cho không gian hoạt động hơn, cảnh bớt vắng vẻ. Bài thơ có được cái ấm áp của cảnh đời thường:

+ Cánh đồng lúa xanh.

+ Lũ cò con chốc chốc bay.

+ Giật mình cô gái yếm thắm

→ Thủ pháp dùng cái động để nói cái tĩnh.

=> Ba khổ thơ khắc họa cảnh chiều xuân nơi đồng quê xứ Bắc đẹp nên thơ, thi vị, phảng phất cái buồn dìu dịu.

Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Không khí đồng quê yên lặng, nhịp sống vô cùng bình yên:

– Từ ngữ giàu giá trị tạo hình gợi cảm: êm, biếng lười, vắng lặng, vu vơ, rập rờn, thong thả, chốc chốc.

– Danh từ chỉ sự vật: mưa, đò, quán, hoa xoan, trâu bò, cò con.

Câu 3 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

– Những từ láy được sử dụng trong bài thơ: êm êm, im lìm, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

– Tác dụng:

+ Các từ láy này đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ (trừ từ láy tơi bời).

+ Diễn tả trạng thái thụ động hoặc trạng thái đều đều của chủ thể.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 2

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (khổ 1): cảnh ngày xuân trên bến vắng

– Phần 2 ( khổ 2): ngày xuân trên con đường đê

– Phần 3 (khổ 3): Cảnh xuân trong ruộng lúa

Câu 1 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

“Chiều xuân” qua ngòi bút của Anh Thơ hiện lên qua tranh: buổi chiều tà, cảnh xuân ở đồng quê miền Bắc nước ta

– Bài thơ thể hiện sự quan sát tinh tế, bao quát cảnh vật

– Bức tranh buổi chiều yên bình, êm ả, có phần vắng lặng

→ Nắm được linh hồn cảnh vật

– Buổi chiều xuân đặc trưng ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay

– Mưa gọi mầm non thức dậy

+ Cảnh đầu tiên được tác giả chú ý là cảnh bến đò

+ Con đò dường như cũng hòa với sự êm ả của buổi chiều khi con đò “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

+ Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”

– Cảnh được mở rộng, cao, xa hơn

– Nêu bật đặc trưng của mùa xuân miền Bắc: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, cánh bướm rập rờn,…

Khổ thứ hai hình ảnh độc đáo, đẹp, nhưng đượm buồn bởi cảnh vật chìm vào tĩnh lặng

– Ba khổ thơ là thơ tả cảnh, tập hợp thành bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh thanh vắng, yên tĩnh

Câu 2 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Bài thơ vừa tả cảnh, vừa gợi được nhịp sống, không khí ở nông thôn nước ta thời trước, sự yên bình:

+ Con đò nằm biếng lười, quán vắng, cánh bướm rập rờn, đàn trâu thong thả có dáng khoan thai

+ Hai câu thơ cuối có hình ảnh con người xuất hiện

– Khoảnh khắc lao động của người thiếu nữ đi vào thơ

+ Cô thôn nữ chăm chỉ trong buổi chiều tĩnh lặng.

+ Câu thơ tả động nhưng để nói về cái tĩnh

+ Cái tĩnh để nhằm nhấn mạnh vào nhịp sống yên bình của vùng quê còn nguyên sơ

Câu 3 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Thi sĩ dùng nhiều từ láy để dựng cảnh, gợi ra tinh thần của cảnh:

+ Mưa êm đềm, quán tranh đứng im lìm

+ Hoa xoan rụng tơi bời

+ Đàn sáo mổ vu vơ

+ Mấy cánh bướm rập rờn

+ Những trâu bò thong thả

– Sử dụng các từ láy có tính chất, sắc thái giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả…

+ Diễn tả trạng thái thụ động hoặc đều đều của chủ thể.

+ Từ láy làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân,cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 3

Câu 1 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Bức tranh làng quê mộc mạc, êm dịu, thanh bình với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, thơ mộng: mưa bụi, con đò, dòng sông, quán tranh, hoa xoan, con đê, đàn sáo, trâu bò, đồng lúa…

– Bức tranh tĩnh lặng, thanh nhã, tươi tắn, đượm buồn:

+ Các đối tượng được miêu tả trong trạng thái nhẹ nhàng, khoan thai: mưa đổ bụi êm êm, đàn sáo… vu vơ, cánh bướm rập rờn, trâu bò thong thả.

+ Không khí tĩnh lặng, bâng khuâng: quán đứng im lìm, đồng lúa ướt lặng, trâu bò thong thả cúi ăn mưa,…

+ Màu sắc tươi tắn, giàu sức sống: màu tím hoa xoan, màu đen của đàn sáo, màu rực rỡ của cánh bướm, màu xanh rờn của đồng lúa, màu thắm đỏ của chiếc yếm.

+ Bức tranh có nhiều điểm nhấn độc đáo: mưa đổ bụi, trâu bò cúi ăn mưa; cô nàng yếm thắm đang lao động chợt giật mình bởi đàn cò con.

=> Sự độc đáo của bức tranh nằm ở việc tác giả thâu tóm rất thành công linh hồn của làng quê Bắc Bộ ngày xuân với những nét đẹp đặc trưng không thể nhầm lẫn.


Câu 2 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:

+ Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.

+ Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…

+ Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khi đàn cò bụt bay ra.

– Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:

+ Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.

+ Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.


Câu 3 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Thống kê các từ láy: êm êm, im lìm, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

– Tác dụng của các từ láy:

+ Đặc điểm: hầu hết các từ láy trên đều mang vần bằng và đều diễn tả đặc điểm giảm nhẹ của tính chất và hoạt động (trừ từ láy tơi bời).

+ Tác dụng:

> Diễn tả tinh tế và chính xác trạng thái của các đối tượng được miêu tả (mưa, quán tranh, hoa xoan, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò), đó là trạng thái nhẹ nhàng, đều đều, yên ắng rất hài hòa, êm dịu.

> Đem lại hiệu quả gợi hình, gợi cảm, gợi không khí bâng khuâng và nhịp điệu khoan thai, êm ả của cuộc sống yên bình nơi làng quê Bắc Bộ.


Bố cục: 3 phần

– Khổ 1: Bức tranh chiều xuân trên bến vắng.

– Khổ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.

– Khổ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.

Nội dung chính

– Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ.

– Tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 4

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Anh Thơ đi học từ năm lên bảy nhưng nghỉ học sớm (12 tuổi). Những năm tháng tuổi thơ, nhà thơ gắn bó với đồng ruộng quê hương. Là người ham thích văn chương từ nhỏ, lại lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ ca như là một con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và cũng là để khẳng định giá trị của người phụ nữ xưa.

Anh Thơ từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp rồi từng làm uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II).

2. Sáng tác của Anh Thơ gần gũi với cảnh thôn quê Việt Nam. Đó thường là những bức tranh quê xinh xắn, giản dị mà mê hồn. Hoài Thanh từng nhận xét về Anh Thơ: “Mỗi lần Anh Thơ chịu đi ra ngoài lối tù túng đó để nhìn cảnh vật một cách sâu sắc hơn, lời thơ bỗng trở nên rộng rãi không ngờ và ta thấy khoan khoái biết bao. Sau câu thơ ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân” (Thi nhân Việt Nam).

Bài thơ Chiều xuân được rút ra từ tập Bức tranh quê (1941), tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 5

Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Anh Thơ (1921- 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

– Tuổi thơ, Anh Thơ gắn bó với đồng ruộng quê hương.

– Vốn ham thích văn học từ nhỏ, phần nào chịu ảnh hưởng của gia đình bên ngoại (ông ngoại là cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu), lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ ca như một con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong xã hội đương thời.

– Từ năm 1937, Anh Thơ đã có thơ đăng báo Đông phương, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ. Nhà thơ được tặng giải Khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939. Anh Thơ tham gia kháng chiến chống Pháp, từng là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II).

– Anh Thơ có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp sống nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bà là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại, Anh Thơ được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2007).

– Tác phẩm chính: Bức tranh quê (thơ – 1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986), Tuyển tập Anh Thơ (1986).

2. Tác phẩm

– Bài thơ Chiều xuân được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

– Nội dung chính: Ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân xứ Bắc qua đó bày tỏ tình yêu quê hương của tác giả.

– Bố cục bài thơ chia làm 3 phần

+ Phần 1 (khổ 1): Cảnh ngày xuân trên bến vắng

+ Phần 2 (khổ 2): Ngày xuân trên con đường đê

+ Phần 3 (khổ 3): Cảnh xuân trong ruộng lúa


Gợi ý trả lời

Câu 1 – Trang 52 SGK

Bức tranh “chiều xuân” qua ngòi bút Anh Thơ hiện lên như thế nào? Hãy chỉ ra nét riêng của bức tranh đó.

Trả lời:

Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều – tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, mặc dù thế vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.

Buổi chiều xuân rất đặc trưng trước hết chính là ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay. Mưa gọi những mầm non thức dậy. Cảnh đầu tiên lọt vào tầm quan sát của tác giả là cảnh bến đò. Nhưng như đã nói, bức tranh không được chụp vào lúc đông vui nhộn nhịp, nên như hoà vào cái yên ả của buổi chiều xuân kia, con đò cũng “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”. Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh ấy là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”.

Cảnh từ gần được mở rộng thêm, cao và xa hơn. Nhưng vẫn là những nét đặc trưng của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, những cánh bướm rập rờn,… Khổ thứ hai có một hình ảnh thơ thật độc đáo và xuất sắc:

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa

Ba khổ thơ gần như chỉ là những câu thơ tả cảnh. Có thể nói cả bài thơ hợp thành một bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh vắng quá, yên tĩnh quá.


Câu 2 – Trang 52 SGK

Anh (chị) có cảm nhận gì về không khí và nhịp sống thôn quê trong bài thơ? Không khí và nhịp sống ấy được gợi tả bằng những từ ngữ, chi tiết và bằng thủ pháp nghệ thuật nào ?

Trả lời:

Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả,… tất cả đều có dáng khoan thai. Phải chờ đợi đến hai câu cuối của bài thơ, người đọc mới thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng con người sao cũng thụ động quá:

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Câu thơ chụp được đúng cái thời khắc lao động của người thiếu nữ. Một cô thôn nữ chăm chỉ trong một buổi chiều quê tĩnh lặng. Câu thơ tả động nhưng thực ra là để nói cái tĩnh. Và nói cái tĩnh tất nhiên cũng lại để tiếp tục nhấn mạnh vào cái nhịp sống rất bình yên của một vùng quê mà dường như tất cả vẫn còn rất nguyên sơ vậy.


Câu 3 – Trang 52 SGK

Hãy thống kê những từ láy trong bài thơ và phân tích nét đặc sắc của những từ láy đó.

Trả lời:

Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mổ vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,… Trong các từ láy đã nêu, trừ từ rơ/bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,… và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như của nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 6

I. Tác giả
1. Tiểu sử – Cuộc đời
– Anh Thơ (1921 – 2005).
– Tên khai sinh là Vương Kiều Ân, bút hiệu Tuyết Anh .
– Quê: tỉnh Hải Dương, trong một gia đình viên chức nhỏ, xuất thân Nho học.
– Nhà thơ chưa học hết bậc tiểu học nhưng chịu khó đọc sách ham văn chương.
– Sống trong không khí gia đình buồn tẻ nặng nền nếp phong kiến, bà tìm đến thơ ca tự giải thoát và khẳng định mình như nhiều thanh niên thời đó.
-Tháng Tám 1945 hăng hái tham gia cách mạng kháng chiến và xây dựng đất nước bằng thơ ca, là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam

2. Sự nghiệp sáng tác
a. Tác phẩm chính
– Tiểu thuyết “Răng đen”, thơ “Bức tranh quê”.
– Sau cách mạng tháng Tám: Kể chuyện Vũ Lăng, Theo cánh chim câu, Đảo ngọc, Hoa dứa trắng, Quê chồng.
b. Phong cách nghệ thuật
– Thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc: bờ tre, con đò, bến sống, với những nét vẽ chân thực, tinh tế thấm đượm một chút tình quê đằm thắm pha chút bâng khuâng buồn của thơ mới.

II. Tác phẩm
1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời
– Được rút từ tập “Bức tranh quê”, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

2. Bố cục: 3 phần
– Khổ 1: Bức tranh chiều xuân trên bến vắng.
– Khổ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.
– Khổ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.

3. Giá trị nội dung
– Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ.
– Tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

4. Giá trị nghệ thuật
– Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy.
– Thủ pháp lấy cái động để nói cái tĩnh.

Một số nhận định về tác giả, tác phẩm
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”.

III. Trả lời câu hỏi

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go lớp 11 hay nhất

Bài thơ số 28 trích trong tập Người làm vườn (các bài trong tập thơ này không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự) – một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chinh phục độc giả nhiều nước. Bài thơ này ông làm khi người vợ yêu dấu Mri-na-li-ni-đê-vi qua đời (1902). Bài thơ thể hiện quan niệm về một tình yêu chân chính. Quan niệm đó được thể hiện như thế nào, mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn hay nhất mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 1

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

R. Ta – go (1861 – 1941) là nhà văn nhà văn hóa lớn của Ấn Độ – có những cống hiến quan trọng cho văn hóa Ấn Độ, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại vì độc lập, hòa bình và hữu nghị.

Ta – go để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng thành công xuất sắc: 52 tập thơ 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch, 63 tập tiểu luận triết học, khoảng 2000 bài ca, hàng nghìn bức họa… Trong đó tập Thơ Dâng đã đem đến cho ông vinh dự của người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô – ben về văn học vào năm 1913.

2. Tác phẩm Người làm vườn

Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta – go, tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí của Ta – go, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.

Các bài thơ Người làm vườn không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự. Bài số 28 là một trong những bài thơ hay nhất của Ta – go, có mặt trong nhiều tuyển tập thơ tình thế giới.

Bố cục: 3 phần:

+ Phần 1 (từ đầu đến “biết gì tất cả về anh“): Tình yêu là sự hiểu biết trong tâm hồn

+ Phần 2 (tiếp đến “biên giới của nó đâu“): Tình yêu là sự hiến dâng và đón nhận

+ Phần 3 ( Còn lại): Những nghịch lí diễn tả sự đa dạng của tình yêu

II. Hướng dẫn đọc thêm

Câu 1 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

– Hình ảnh so sánh tượng trưng:

+ Mắt em – trăng: thế giới nội tâm phong phú, trong sáng.

+ Tâm tưởng của anh – biển cả: thế giới bí ẩn, bao la.

→ Trăng và biển là biểu tượng thiên nhiên sóng đôi, thể hiện khao khát hòa chung tâm tưởng của đôi tình nhân được đẩy lên tới đỉnh điểm.

=> Hình ảnh trong sáng, tiêu biểu cho quan niệm về con người của Ta – go và người dân Ấn Độ.

Câu 2 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

* Lối cấu trúc giả định A không chỉ là B mà (lại) là C trong:

+ Đời anh chỉ là viên ngọc.

+ Đời anh chỉ là đóa hoa.

=> Hiện thực hóa cuộc đời thành những sự vật cụ thể, tượng trưng cho sự quý giá (ngọc) và thanh cao (hoa). Cuộc đời của thi nhân ngầm chứa sự quý giá và thanh cao ấy. Qua đó thể hiện sự hi sinh của chàng trai:

+ Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.

+ Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.

=> Nhấn mạnh khát vọng tận hiến nồng nhiệt của chàng trai.

* Lối cấu trúc giả định A không chỉ là B mà (lại) là C trong:

+ Trái tim (cụ thể) – phút giây lạc thú (trừu tượng) – nở thành nụ cười nhẹ nhõm.

+ Trái tim (cụ thể) – khổ đau (trừu tượng) – tan thành lệ trong, phản chiếu nỗi niềm u uẩn.

=> Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải để người mình yêu thấu suốt trái tim được dễ dàng hơn.

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú với khổ đau với tình yêu nhà thơ muốn thể hiện triết lí về cuộc đời, về trái tim:

– Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng.

– Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của những tâm trạng phức tạp, thậm chí đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.

Câu 3 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Để bày tỏ khát khao của mình, chàng trai bày tỏ hết lòng mình không giấu điều gì trước mắt người yêu nhưng lại rơi vào nghịch lí: chính vì thế mà người yêu “không biết gì tất cả về anh…”

Cách nói đấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ nắm bắt được.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 2

I. Tác giả

1. Tiểu sử – Cuộc đời
– Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941)
– Ta-go sinh tại Kalculta trong một gia đình thuộc đẳng cấp Brahman – đẳng cấp cao nhất trong xã hội Ấn Độ (Brahman – Kshastriya – Vaisya – Soudra – Pariah). Cha của Tagore là một điền chủ giàu có đồng thời là một nhà cải cách tôn giáo, có nhiều đóng góp cho xã hội Ấn Độ.
– Là một nhà thơ, nhà văn, đồng thời là một nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng góp cho dân tộc Ấn Độ và nhân loại.
– Ông để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc.

2. Sự nghiệp văn học

a. Các tác phẩm chính
– Ông để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào ông cũng thành công suất sắc:
+ 52 tập thơ.
+ 12 bộ tiểu thuyết.
+ 42 vở kịch.
+ Hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn ca khúc, hàng nghìn bức hoạ…
– Năm 1913, Ta-go là người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học với tập “Thơ Dâng” (gồm 103 bài, sáng tác từ 1890-1912 và ông tự dịch ra tiếng Anh).
b. Phong cách nghệ thuật
– Ta-go đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết.
– Thơ Ta-go cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình – triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Ta-go.

II. Tác phẩm
1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời
* Xuất xứ:
– Bài thơ số 28 trích trong tập Người làm vườn (các bài trong tập thơ này không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự).
* Tập thơ “Người làm vườn”
– Là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chinh phục độc giả nhiều nước.
– Gồm 85 bài thơ, sáng tác bằng tiếng Ben-gan, sau tác giả tự dịch sang tiếng Anh và xuất bản năm 1914.
– Tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.
* Hoàn cảnh ra đời
– Bài thơ này ông làm khi người vợ yêu dấu Mri-na-li-ni-đê-vi qua đời (1902).
2. Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến…không biết gì tất cả về anh): Khát vọng hòa hợp trong tình yêu.
+ Phần 2 (Tiếp đến…em có biết gì về biên giới của nó đâu): Khát vọng dâng hiến trong tình yêu.
+ Phần 3 (Còn lại): Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu.
3. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện quan niệm về một tình yêu chân chính.
+ Tình yêu cần sự thấu hiểu, cần đến từ hai phía.
+ Tình yêu ẩn chứa nhiều bí ẩn, là một thế giới thiêng liêng, vô hạn.
+ Tình yêu là cuộc sống, hướng con người đến cái thiện, cái đẹp trong tâm.
4. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ sử dụng hình tượng so sánh độc đáo, diễn tả được những khao khát đẹp trong tình yêu.
– Tác giả dùng cấu trúc so sánh – ẩn dụ trùng điệp, cấu trúc sóng đôi một cách sáng tạo, đưa ra được những triết lí về tình yêu.

III. Một số nhận định về tác giả tác phẩm
1. “Ta-go đã sáng tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Đó là một thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca của ông. Chúng ta có thể bước đầu nhận diện phong cách thơ của Ta-go qua một số nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật của ông về cuộc sống, con người, về ngôn ngữ thơ, về tính trữ tình kết hợp với triết lí, chất hiện thực hòa quyện yếu tố lãng mạn”.
(Theo Lê Nguyên Cẩn, Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường)
2. “Tình yêu trong thơ Ta-go không có cái dung tục tầm thường, không phải thứ tình yêu rầu rĩ, rên xiết, cũng không phải thứ tình yêu quá cao siêu, quá lí tưởng. Ta-go tìm sự hòa hợp giữa hai tâm hồn, tìm tự do trong tình yêu”.
(Theo G.S Lưu Đức Trung, Văn học Ấn Độ)


IV. Trả lời câu hỏi

Câu 1 (Trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện khao khát trong tình yêu

+ Đôi mắt dưới nhãn quan của nhà thơ trở nên kì diệu, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu

+ Đôi mắt cũng chứa băn khoăn, u buồn vì khát khao trên vô vọng

+ Tất cả sự cố gắng “nhìn sâu vào tâm tưởng anh” đều trở nên vô vọng khi đáy sâu tâm hồn (trái tim, cảm xúc) không dễ nắm bắt, thấu tỏ

→ Khát vọng thấu hiểu trong tình yêu

Câu 2 (trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

– Cấu trúc giả định rồi phủ định, tới kết luận được lặp đi lặp lại nhằm thể hiện triết lí của Tago về trái tim, tình yêu

+ Gỉa thiết đời anh quý giá, đẹp đẽ như hoa ngọc, anh sẵn lòng dâng tặng em

– Tago muốn thể hiện sự vẹn toàn bộ cho người yêu

– Nhưng trái tim, tâm hồn là thế giới bí ẩn, thăm thẳm không thể dâng trọn vẹn một lần

– Trái tim là sự phức hợp của tình yêu, nỗi vui sướng, khổ đau là vô biên

→ Tago muốn người đọc hiểu rằng trái tim tình yêu không đơn giản. Khát khao lạc thú cũng như nỗi đau khổ, buồn bã trong tình yêu là vô bờ, những người yêu nhau phải hiểu để cùng tận hưởng, chịu đựng vượt qua

Câu 3 (trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Điều quý giá nhất cuộc đời một chàng trai là trái tim, thế giới bí ẩn, vô biên, vương quốc mà cô gái là nữ hoàng nhưng cũng không thể biết hết biên giới

– Đây chính là khoảng cách không bao giờ phá nổi, đỉnh cao không bao giờ chinh phục của tình yêu

– Đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người

– Bài thơ có kết cấu tầng bậc, lớp lang:

+ Diễn tả sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em nhưng em không thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh

+ Sự phức tạp của trái tim khi yêu

– Sự đối lập giữa khao khát giãi bày, dâng hiến, chan hòa với tâm hồn người yêu, sự bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim

→ Tình yêu vẫn là niềm khao khát của muôn người, và muôn đời

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số

Câu 1 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Hình tượng so sánh trong câu thơ mở đầu:

Như
Đôi mắt em
muốn nhìn vào
tâm tưởng của anh
Trăng kia
muốn vào sâu
biển cả
thể hiện niềm khao khát gì trong tình yêu?

Lời giải chi tiết:

– Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

– Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cá về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.


Câu 2 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Lối cấu trúc đưa ra những giả định (nếu A chỉ là B) rồi phủ định (nhưng A lại là C) để đi đến kết luận được sử dụng trùng điệp trong bài nhằm mục đích gì?

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú, khổ đau với tình yêu, Ta-go muốn nói gì về cuộc đời, về trái tim?

Lời giải chi tiết:

– Cấu trúc giả định rồi phủ định, tới kết luận được lặp đi lặp lại nhằm thể hiện triết lí của Tago về trái tim, tình yêu: giả thiết đời anh quý giá, đẹp đẽ như hoa ngọc, anh sẵn lòng dâng tặng em

– Tago muốn thể hiện sự vẹn toàn bộ cho người yêu

– Nhưng trái tim, tâm hồn là thế giới bí ẩn, thăm thẳm không thể dâng trọn vẹn một lần

– Trái tim là sự phức hợp của tình yêu, nỗi vui sương, khổ đau là vô biên

=> Tago muốn người đọc hiểu rằng trái tim tình yêu không đơn giản. Khát khao lạc thú cũng như nỗi đau khổ, buồn bã trong tình yêu là vô bờ, những người yêu nhau phải hiểu để cùng tận hưởng, chịu đựng vượt qua


Câu 3 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Cách nói nghịch lí không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh

mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Hãy ghi lại những câu có cách nói nghịch lí như vậy. Cách nói ấy thể hiện điều kì diệu gì trong tình yêu?

Lời giải chi tiết:

* Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đỉnh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.


Bố cục

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (từ đầu đến “biết gì tất cả về anh“): Tình yêu là sự hiểu biết trong tâm hồn

– Phần 2 (tiếp đến “biên giới của nó đâu“): Tình yêu là sự hiến dâng và đón nhận

– Phần 3 (còn lại): Những nghịch lí diễn tả sự đa dạng của tình yêu

Nội dung chính

Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có một tình yêu trọn vẹn thì con người phải biết khám phá, hòa hợp và tin yêu.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 4

Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà văn, nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Suốt đời mình, ông đã phấn đấu không mệt mỏi và có những cống hiến quan trọng cho sự nghiệp phục hưng văn hoá Ấn Độ, giải phóng Ấn Độ khỏi ách thực dân ; góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại và độc lập, hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Năm 1961, UNESCO đã kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông.

– Ta-go để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng thành công xuất sắc : 52 tập thơ, 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch, 63 tập tiểu luận triết học, khoảng 2000 bài ca, hàng nghìn bức hoạ,… Trong đó, tập Thơ Dâng đã đem đến cho ông vinh dự của người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học vào năm 1913.

– Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go. Tác phẩm gồm 85 bài thơ, được Ta-go viết bằng tiếng Ben-gan, sau tự dịch sang tiếng Anh và xuất bản năm 1914. Tên tác phẩm gợi hình tượng nhà thơ nguyện làm người chăm sóc vườn hoa cuộc đời. Với Ta-go, vườn đời thật tươi đẹp, sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên; và thi nhân chính là người hát ca, người vun xới những bông hoa tình yêu ấy. Người làm vườn rất tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí của Ta-go, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tình thân nhân loại. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, chinh phục độc giả nhiều nước, phương Đông cũng như phương Tây.

– Các bài trong tập thơ Người làm vườn không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự.

2. Tác phẩm

– Bài thơ số 28 là một trong những bài thơ hay nhất của Ta-go, có mặt trong nhiều tuyển tập thơ tình thế giới.

– Nội dung: Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có tình yêu trọn vẹn chỉ có một cách là luôn khám phá cái bí ẩn, cái sâu xa của tình yêu.

– Nghệ thuật:

+ Kiểu cấu trúc sóng đôi, thơ giàu chất trí tuệ

+ Sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ sinh động, giàu ý nghĩa.


Gợi ý trả lời các câu hỏi

Câu 1 – Trang 62 SGK

Hình tượng so sánh trong câu thơ mở đầu:

Như
Đôi mắt em
muốn nhìn vào
tâm tưởng của anh
Trăng kia
muốn vào sâu
biển cả
thể hiện niềm khao khát gì trong tình yêu?

Trả lời:

Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.

Câu 2 – Trang 62 SGK

Lối cấu trúc đưa ra những giả định (nếu A chỉ là B) rồi phủ định (nhưng A lại là C) để đi đến kết luận:

được sử dụng trùng điệp trong bài nhằm mục đích gì?

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú, khổ đau với tình yêu, Ta-go muốn nói gì về cuộc đời, về trái tim?

Trả lời:

Những câu thơ tiếp theo, Ta-go đưa ra liên tiếp những giả định. Nếu cuộc đời anh là một đoá hoa, một viên ngọc, anh sẽ hái nó, sẽ xâu nó thành một chuỗi dâng tặng cho em. Nhưng cuộc đời anh đâu phải thế. Bởi “đời anh là một trái tim”. Nếu trái tim anh “chỉ là một phút giây lạc thú”, thì em cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm; nếu trái tim anh “chỉ là đau khổ” thì người yêu cũng dễ thông cảm bằng hàng lệ trong. Nhưng đâu chỉ có thế. Chàng trai biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: “trái tim anh lại là tình yêu”. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, đau khổ dễ chia sẻ, cảm thông mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung sướng – vừa khổ đau, vừa thiếu thốn – vừa giàu sang, mà tất cả lại đều vô biên, trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được.

Bài thơ là hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh: Đôi mắt em muốn nhìn… như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đoá hoa (những cái đẹp đẽ nhất, quý giá nhất), em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái bí ẩn vô biên của trái tim anh)… Hệ thống những hình ảnh so sánh, tượng trưng này làm cho tình yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những màu sắc huyền diệu. Bài thơ gợi niềm say mê chính là vì thế.

Bài thơ rất giàu chất triết lí. Đưa ra những lập luận, những giả thiết rồi lại phản bác, Ta-go muốn khẳng định: Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để khẳng định sự bí ẩn, sâu xa của tâm hồn và cũng đồng thời nhấn mạnh những quy luật muôn đời của tình yêu. Với tình yêu, Ta-go khẳng định: Tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và luôn là một cuộc khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là khát khao vĩnh cửu của con người.

Câu 3 – Trang 62 SGK

Cách nói nghịch lí không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh

mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Hãy ghi lại những câu có cách nói nghịch lí như vậy. Cách nói ấy thể hiện điều kì diệu gì trong tình yêu?

Trả lời:

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đỉnh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tổn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hòa hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.

Ghi nhớ

Bài thơ số 28 khẳng định mối quan hệ huyền diệu, bí ẩn giữa tình yêu và đời sống con người. Qua đó, tác giả nêu lên quan niệm rất tinh tế về tình yêu: Đó là sự hiểu biết và hòa điệu giữa hai người, luôn hàm chứa nhiều nghịch lí và bí mật, đòi hỏi phải luôn khám phá nhưng chẳng bao giờ hiểu được một cách trọn vẹn.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 5

KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Nội dung:

Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có tình yêu trọn vẹn chỉ có cách là luôn khám phá cái bí ẩn, cái sâu xa của tình yêu.

Nghệ thuật:

Ta – go đã vận dụng bút pháp hướng nội, thực hiện lối cấu trúc theo tầng bậc: từ thấp đến cao, hoặc từ ngoài vào trong. Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm kết hợp với thủ pháp so sánh, tượng trưng, ẩn dụ làm rõ thêm chất suy tư triết lý trong bài thơ. Giọng điệu bóng bẩy, trữ tình nhưng đồng thời cũng đầy chất triết lý.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1: SGK – 62:

Hình ảnh so sánh trong câu mở đầu thể hiện niềm khát khao hòa hợp, hiểu biết nhau trong tình yêu. Đôi mắt như ánh sáng lung linh diệu huyền muốn rọi sáng tận đáy sâu trái tim người yêu. Khát khao thấu hiểu người mình yêu là chính đáng nhưng vô vọng bởi chiều sâu tâm tưởng anh là vô cùng như chiều sâu của biển cả.

Câu 2: SGK – 62:

Lối cấu trúc giả định rồi phủ định để đi đến kết luận nhằm thể hiện triết lý của Tago về tình yêu. Từ những tương đồng khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú và tình yêu, Tago muốn nói:

Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.

Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.

Nghĩa là Tago muốn dâng trọn vẹn cho người yêu nếu có thể được. Nhưng nhà thơ lại thừa nhận “đời anh là trái tim, nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó”. Nó là thế giới bí ẩn, và vô biên.

Lối cấu trúc giả định về trái tim tình yêu không hề đơn giản.

Trái tim là hình ảnh cụ thể – phút giây lạc thú là trừu tượng lại nở thành nụ cười nhẹ nhõm.

Trái tim – hình ảnh cụ thể đối lập với khổ đau hình ảnh trừu tượng – tan thành lệ và phản chiếu nỗi niềm u uẩn.

Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải để người mình yêu thấu suốt trái tim được dễ dàng hơn.

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú với khổ đau với tình yêu nhà thơ muốn thể hiện triết lí về cuộc đời, về trái tim:

Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng.Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của những tâm trạng phức tạp, thậm chí đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.

Câu 3: SGK – 62

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Để bày tỏ khát khao của mình, chàng trai bày tỏ hết lòng mình không giấu điều gì trước mắt người yêu nhưng lại rơi vào nghịch lí: chính vì thế mà người yêu “không biết gì tất cả về anh…”

Cách nói đấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ nắm bắt được.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ, nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Ta-go đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ và thế giới một di sản lớn lao: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết,… đặc biệt là tập Thơ Dâng – tập thơ được Giải Nô-ben văn học năm 1913.

Cống hiến vì đại nhất của Ta-go là ở chỗ ông đã phát huy được truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ, kết hợp với tinh hoa văn hoá phương Tây.

2. Sáng tác của Ta-go ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người với con người một cách chân thành, mở rộng với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ân Độ. Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhân đạo phương Tây, như đòi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do, đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.

Theo Ta-go, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng “tôn giáo Con Người”. Tầng lớp nhân dân lao động cùng khổ cũng được Ta-go quan tâm.

Mặc dù nội dung nhân đạo của Ta-go có màu sắc duy tâm, huyền bí nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là tình yêu đất nước, yêu con người, yêu sự sống.

3. Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go. Tên tác phẩm gợi hình tượng nhà thơ nguyện làm người chăm sóc vườn hoa cuộc đời. Với Ta-go, vườn đời thật tươi đẹp, được sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Và thi nhân chính là người hát ca, người vun xới cho những bông hoa tình yêu ấy. Người làm vườn tiêu biểu cho phong cách thơ Ta-go – một giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.

Bài thơ số 28 được in trong tập Người làm vườn, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khảng định: tình yêu là sự đồng điệu, hoà hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính vì vậy, việc tìm tới sự đồng điệu chan hoà vào thế giới tâm hồn của người yêu luôn là những khao khát không bao giờ vươn tới nổi. Điều đó tạo nên vẻ đẹp và sự hấp dẫn muôn đời của tình yêu.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.


Câu 2. Những câu thơ tiếp theo, Ta-go đưa ra liên tiếp những giả định. Nếu cuộc đời anh là một đoá hoa, một viên ngọc, anh sẽ hái nó, sẽ xâu nó thành một chuỗi dâng tặng cho em. Nhưng cuộc đời anh đâu phải thế. Bởi “đời anh là một trái tim”. Nếu trái tim anh “chỉ là một phút giây lạc thú”, thì em cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm; nếu trái tim anh “chỉ là đau khổ” thì người yêu cũng dễ thông cảm bằng hàng lệ trong. Nhưng đâu chỉ có thế. Chàng trai biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: “trái tim anh lại là tình yêu”. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, đau khổ dễ chia sẻ, cảm thông mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung sướng – vừa khổ đau, vừa thiếu thốn – vừa giàu sang, mà tất cả lại đều vô biên, trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được.

Bài thơ là hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh: đôi mắt em muốn nhìn… như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đoá hoa (những cái đẹp đẽ nhất, quý giá nhất), em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái bí ẩn vô biên của trái tim anh)… Hệ thống những hình ảnh so sánh, tượng trưng này làm cho tình yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những màu sắc huyền diệu. Bài thơ gợi niềm say mê chính là vì thế.

Bài thơ rất giàu chất triết lí. Đưa ra những lập luận, những giả thiết rồi lại phản bác, Ta-go muốn khẳng định: sự vật của đời sống không chi được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để khẳng định sự bí ẩn, sâu xa của tâm hồn và cũng đồng thời nhấn mạnh những quy luật muôn đời của tình yêu.

Với tình yêu, Ta-go khẳng định: tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và luôn là một cuộc khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là khát khao vĩnh cửu của con người.


Câu 3. Cách nói nghịch lí

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đinh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.