Top 7 Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” của Ba-sô hay nhất

Ba-sô (1644-1694) tên thật là Masuo Bashô (Tùng Vĩ Ba Tiêu) là một nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật Bản. Hai-cư là một thể thơ truyền thống độc đáo của Nhật Bản (thi quốc), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu nổi bật. Những bài thơ Hai-cư của Ba-sô đã thức dậy nỗi nhớ da diết trong lòng những người xa quê hướng về xứ sở, phản ánh tâm hồn người Nhật – tâm hồn ưa thích hòa nhập với thiên nhiên. Vì vậy nội dung các tác phẩm thường hướng đên một phong cảnh, một vài sự vật cụ thể, một tứ thơ, một cảm xúc, một suy tư… của người viết. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích Thơ Hai-cư của Ba-sô mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 1

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.

Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bỡi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên…

Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô…. Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng.

Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.

Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ – con người, vô hạn – hữu hạn, không gian – thời gian, hữu hình – vô hình, có – không, đen – trắng, tĩnh – động, tối – sáng, nhất thời – vĩnh hằng… Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.

Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và “ngộ” ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương.

Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.

Một lần ngang qua cách rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc

gió mùa thu tái tê.

Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người( hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ.

Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghiã tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan. Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.

Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đôí lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người… Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữu sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc. Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.

Trên cành khô

cánh quạ đậu

đêm thu.

Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màng đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la…

Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây…Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình

Chim đỗ quyên hót

ở kinh đô

mà nhớ kinh đô.

Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.

Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Dó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ.

Nhà thơ Chiyô viết

A! Hoa Asagaô

dây gàu vương hoa bên giếng

đành xin nước nhà bên.

Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bỡi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.

Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào – mùa xuân, tiếng ve – mùa hè… còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông… Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư “nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên”. Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, “là con mắt” để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, nguời đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôn nay và mai sau…

Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là một viên ngọc quý ở xứ sở “mặt trời mọc” với công chúng yêu thơ.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 2

Hai-cư là thể loại thơ ca truyền thống Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật 17 âm tiết đó được viết thành một hàng, khi phiên âm La tinh nó mới được ngắt thanh ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Cá biệt có những bài có 19 âm tiết.

Ma-su-ô Ba-sô (1644 – 1694), nhà thơ bậc thầy về thơ Hai-cư của Nhật. Ông xuất thân trong một gia đình thuộc dòng dõi võ sĩ đạo Sa-mu-rai của xứ I-ga. Hai-cư là thể loại thơ ca truyền thống Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật 17 âm tiết đó được viết thành một hàng, khi phiên âm La tinh nó mới được ngắt thanh ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Cá biệt có những bài có 19 âm tiết.

Ba dòng (đoạn) thơ Hai cư có chức năng khác nhau: Dòng thứ nhất dùng để giới thiệu; Dòng thứ hai tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng thứ ba; Dòng thứ ba: Kết lại tứ thơ, nhưng thường không bao giờ rõ ràng và đủ ý mà phải mở ra những suy tư cảm xúc cho người đọc. Trong mỗi bài thơ đều phải có quý ngữ (từ chỉ mùa). Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của cảm xúc. Thơ Hai-cư bao giờ cũng có nội dung liên quan đến thiên nhiên và đưa ra những triết lí về thiên nhiên

Bài 1: là nỗi cảm về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quên, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sống ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê-đô. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.

Bài 2: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xắm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Giữthơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.

Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh “làn xương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.

Bài 4: Người đọc bắt gặp nỗi buồn nhân thế. Bố mẹ đẻ ra con không nuôi được vì nghèo đói mà mang bỏ trong rừng sâu. Sự thực ấy đi vào thơ gợi lên biết bao nỗi buồn tê tái. Tiếng vượn hú không phải rùng rợn mà “não nề” cả gan ruột, không còn nỗi buồn mà là nỗi đau nhân thế. Tiếng trẻ “than khóc” vì bị bỏ rơi không phải vì cha mẹ nó độc ác mà vì cực chẳng đã, không nuôi nổi. Nỗi buồn ấy gửi vào gió mua thu tái tê. Nỗi buồn ấy đã nâng bổng giá trị thơ Ba-sô tới đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo. Điều đáng nói trong cái buồn ấy có nỗi đau đời, càng đau hơn vì “đau đời có cứu được đời đâu”.

Bài 5: Vẻ đẹp về khát vọng trong tâm hồn nhà thơ. Mưa giăng, một chú khỉ con thầm ước (khát vọng) có một chiếc áo tơi để che mưa. Mượn mưa để nói về một hiện thực nào đó trong cuộc đời (đói khổ, rét mướt chẳng hạn). Chú khỉ con ấy là một sinh mạng một con người, một kiếp người và là con người chung trong cuộc đời. Chú khỉ mong hay nhân vật trữ tình mong mỏi làm thế nào để khỏi đói rét, khỏi khổ. Vẻ đẹp tâm hồn ấy lấp lánh giá trị nhân đạo thiết thực.

Bài 6: Chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi-oa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa. Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-oa nổi sóng.

Bài 7: Ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy củạ nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-oa và tiếngve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.

Bài 8: Bản chất Ba-sô rất thích đi lãng du (đi nhiều nơi trên đất nước). Con người đã đến lúc này (bài thơ này tác giả sáng tác trước khi mất) còn có khát vọng gì nữa khi gần đất xa trời rồi. Không! Ba-sô vẫn có khát vọng sống để đi tiếp cuộc du hành. Khát vọng sống không phải để hưởng thụ mà thực hiện sở thích của mình, du hành trên đất nước. Lạc quan biết bao!

Bài thơ không chỉ nói lên tình yêu của nhà thơ với cuộc sống mà còn là sứ mệnh của thi nhân. Yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, Ba-sô sẽ còn mãi làm thơ về cuộc đời này ngay cả khi mộng hồn đã rời sang thế giới bên kia.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 3

1. Năm 20 tuổi, Ba-sô rời quê hương lên Ki-ô-tô, kinh đô Nhật Bản thời ấy, để học văn học cổ điển, thơ hai-cư và Thiền tông. Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng cảm hứng thơ ca, nhà thơ đã đi chu du khắp đất nước và sáng tác. Với tấm lòng luôn tha thiết với cuộc sống và tâm hồn nhạy cảm, sống ở đâu nhà thơ cũng có những tình cảm gắn bó với mảnh đất ấy. Và như nhà thơ Chế Lan Viên đã tổng kết :

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn

Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

(Tiếng hát con tàu)

Nhà thơ Ba-sô sau hơn mười năm sống, học tập và lao động ở Ê-đô đã trở lại thăm quê. Và giây phút tạm biệt kinh đô Ê-đô để về thăm quê nhà thơ đã có những xúc động rất chân thành. Giây phút ấy được ghi lại ở hai bài hai-cư xinh xắn, đầy trăn trở và suy tư:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Vẫn là tứ thơ của bài Độ Tang Càn của Giả Đảo nhưng bài thơ của Ba-sô hàm súc hơn. Hai dòng đầu đề cập đến hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên rất rõ : bước đi và ngoảnh lại. Về thăm quê sau nhiều năm xa cách, ai cũng đầy tâm trạng. Nhưng thông thường, người ta chỉ hướng đến nơi sẽ đến, nhất là nơi ấy lại là quê hương sau bao ngày xa cách.

Nhân vật trữ tình ở đây cũng vậy. Niềm mong ước được trở về quê hương đã thể hiện ở dòng thơ đầu tiên. Khi cất bước thăm quê, Ê-đô vẫn là đất khách. Trên đất khách nên nhớ và khao khát về thăm quê. Nhưng khi đã cất bước ra đi thì lại “ngoảnh lại”. Và “đất khách” thành “cố hương”. Ê-đô lại trở thành quê hương, lại gắn bó máu thịt với người ra đi.

Bài thơ đã thể hiện tấm lòng tha thiết với quê hương, đất nước của nhà thơ. Đồng thời nó cũng đã ghi lại được phút giây rất đỗi thiêng liêng trong mỗi con người. Người ta chỉ có thể nhận ra sự quý giá của một cái gì đó khi đã sắp mất đi. Con người chỉ thấy mình gắn bó với mảnh đất ấy khi mình phải cất bước ra đi, phải rời xa nó. Với thể loại hai-cư, Ba-sô đã thể hiện thành công và chính xác một trong rất nhiều những trạng thái tình cảm của con người. Từ “đất khách” mở đầu, từ “cố hương” kết thúc, vẫn chỉ một đối tượng, đã diễn tả và ghi lại được phút giây bừng ngộ chân lí của nhân vật trữ tình.

2. Tình cảm với quê hương đất nước, với những mảnh đất đã từng gắn bó còn được thể hiện ở bài thơ thứ hai:

Chim đỗ quyên hót

ở Kinh đô

mà nhớ Kinh đô.

Bài thơ được viết khi tác giả trở lại Ki-ô-tô sau nhiều năm phiêu bạt. Đây là cuộc gặp gỡ của những cố nhân. Một cuộc gặp gỡ đầy tâm trạng. “Cảm thức thẩm mĩ của hai-cư, nhất là hai-cư của Ba-sô có những nét rất riêng, rất cao và tinh tế… Hai-cư chỉ gợi chứ không tả”. Tứ thơ đơn giản nhưng sâu sắc. Âm thanh của tiếng chim đỗ quyên hót đã gợi tả sự tĩnh lặng của không gian. Hai-cư vốn đề cao cái vắng lặng, đơn sơ, hiu hắt, u huyền… bởi đó là không khí dễ gợi và dễ cảm nhận tâm trạng nhất. Dùng âm thanh để gợi tả sự tĩnh lặng là bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi ca cổ điển phương Đông. Kinh đô vốn là chốn phồn hoa đô hội, vậy mà lại nghe được âm thanh của tiếng đỗ quyên hót.

Không viết nhiều, chỉ một thứ âm thanh gợi một nỗi nhớ nhưng gợi mở bao nhiêu ý nghĩa. Đứng giữa kinh đô mà nhớ kinh đô. Đây là kinh đô ở hai thời điểm khác nhau. Một kinh đô đồng hiện : kinh đô của quá khứ và kinh đô của hiện tại. Nỗi nhớ ở đây là “niềm tiếc nuối” của nhà thơ. Gặp lại kinh đô hoang tàn của hiện tại, nhớ kinh đô xưa tươi đẹp. Cũng có thể hiểu rằng, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với đất nước mà hiện thân của đất nước là kinh đô. Tình cảm tha thiết ấy trào dâng trong lòng khi con người ngược thời gian trở về với miền mong nhớ.

3. Tình cảm giữa con người đối với con người là dòng chảy bất tận của thi ca – trong đó tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, chân thành và bản năng nhất. Tình cảm thật của nhân vật trữ tình – tác giả đối với mẹ thật sâu nặng và được thể hiện thật xúc động. Một hình ảnh choán ngợp cả bài thơ – hình ảnh người con khóc mẹ. Đây là hoàn cảnh thật của chính nhà thơ, trở về nhà khi mẹ đã qua đời và hình ảnh của mẹ chỉ còn lại là một nắm tóc bạc. Mang trong lòng nỗi đau mất mẹ, cầm trên tay di vật của mẹ, đây là hình ảnh người con:

Lệ trào nóng hổi

tan trên tay tóc mẹ

làn sương thu.

Nước mắt đớn đau chảy vào hoài niệm. Không ghi nhiều, chỉ một nét gợi mơ hồ và mờ ảo, bài thơ đã truyền tải được tình cảm yêu thương vô bờ của người con đối với mẹ.

4. Tình yêu tha thiết của nhà thơ với con người, với vạn vật là một trong những mạch nguồn cảm hứng dồi dào của Ba-sô. Bài thơ này thể hiện tấm lòng nhân ái sâu sắc của ông:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

gió mùa thu tái tê.

Tiếng hú của con vượn như xoáy vào nỗi niềm trắc ẩn. Nghe tiếng vượn hú, Ba-sô lại liên tưởng đến tiếng trẻ con. Ba câu thơ, hai cảnh ngộ (hồi ức và hiện tại) đan quyện và cộng hưởng. Dường như tiếng vượn kêu não nề trong gió cũng khiến lòng người tái tê. Thơ hai-cư là loại thơ kiệm lời, vì thế nhà thơ phải biết lựa chọn những hình ảnh và âm thanh gợi cảm nhất, hàm súc nhất. Bài thơ ngắn nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc, chứa đầy giá trị nhân sinh.

Bài thơ viết về cảnh ngộ thật thương tâm, cảnh ngộ của những đứa trẻ mồ côi bị cha mẹ bỏ rơi giữa dòng đời. Và nhà thơ đã lựa chọn một thứ âm thanh thật đặc biệt, thứ âm thanh não nề và thương tâm. Ý thơ lạ và độc đáo.

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

Âm thanh thứ nhất gợi không khí hoang vu, nặng nề. Âm thanh thứ hai gợi bao điều trắc ẩn. Tiếng trẻ tha thiết rên rỉ trong cô đơn, trong cảnh ngộ không nơi nương tựa. Bài thơ khắc hoạ một hình ảnh vô cùng xúc động, làm đau đớn trái tim người đọc. Âm thanh của tiếng vượn hú đã thê lương nhưng “tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc” còn thê lương, thảm thiết hơn nhiều. Nó khiến người đọc rơi nước mắt.

Bao trùm cả bài thơ là âm thanh và không khí u trầm, buồn đau. Khí trời mùa thu tái tê càng làm cho bài thơ thêm phần ảm đạm. Bài thơ thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người bất hạnh. Liệu ai có thể cầm lòng trước tiếng than khóc như thế ? Bài thơ đã phần nào tái hiện một mảng hiện thực nước Nhật thời Ba-sô. Không nói nhiều mà gợi rất sâu, gợi những tình cảm sâu thẳm nhất nơi đáy sâu tâm hồn con người là đặc điểm của thơ hai-cư. Và đây là bài thơ tiêu biểu.

5. Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang rét co ro. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ. Chú khỉ đã được nhân hoá để nói về suy nghĩ và ước mơ của con người về một cuộc sống hạnh phúc. Chỉ dùng một chi tiết thật nhỏ nhưng nhà thơ đã nói được một vấn đề thật lớn, đó là khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài thơ đã khái quát hoá một vấn đề rất lớn và rất phổ biến của nhân sinh, đó là khao khát, là ước mơ. Con người luôn khao khát và ước mơ về một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc hơn. Những ước mơ rất đỗi giản dị, như chú khỉ ước có được chiếc áo tơi trong cơn mưa đông. Chỉ một hình ảnh, một biện pháp tu từ nhân hoá mà nhà thơ đã nói lên điều mà bao nhiêu người đều muốn nói, đó là ước muốn có một cuộc sống bình ổn, hạnh phúc. Giữa những phút giây bề bộn của cuộc sống, con người luôn hướng đến những điều tốt đẹp hơn. Và điều đó khiến cho xã hội loài người ngày càng phát triển.

6. Bài thơ này miêu tả cảnh mùa xuân. Quanh hồ Bi-oa có trồng rất nhiều hoa anh đào. Mỗi khi gió thổi, cánh hoa anh đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng xuống mặt hồ làm cho mặt hồ gợn sóng. Cảnh tượng ấy thể hiện sự tương giao của các vật trong vũ trụ. Triết lí sâu xa nhưng lại được thể hiện bằng những hình tượng giản dị, nhẹ nhàng. Đó chính là cảm thức thẩm mĩ của bài thơ.

Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Chỉ với ba dòng thơ ngắn nhưng bài thơ đã tạo nên một bức hoạ thật sinh động. Vạn vật giao hoà, cánh hoa và sóng nước được kết hợp với nhau thật nhẹ nhàng và tinh tế. Hoa đẹp, hồ nên thơ. Những cánh hoa mỏng manh hoà hợp với những con sóng gợn nhẹ trên mặt hồ. Một bức tranh thật thanh thoát. Triết lí nhân sinh của bài thơ nằm trong sự hoà hợp ấy. Mọi sự vật trong thế giới này đều có một mối tương giao với nhau. Với ngôn từ giàu hình ảnh, nhà thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc sự hoà hợp rất triết học của tự nhiên.

7. Bài thơ ra đời trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Tiếng ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá. Liên hệ đó độc đáo, kì lạ mà không hề khoa trương. Ngôn từ của bài thơ đậm đà chất hai-cư. Ngay dòng thơ mở đầu đã là cái không khí rất thâm trầm, rất phương Đông:

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Chỉ một câu với nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, nhà thơ đã nói lên được sự tương giao màu nhiệm giữa thiên thiên với thiên nhiên. Và trên hết, để có được điều đó phải có sự tương giao màu nhiệm giữa tâm hồn nhà thơ và vũ trụ nhân sinh. “Vắng lặng u trầm” là nhóm tính từ chỉ trạng thái của “tiếng ve ngâm thấm sâu vào đá”. Đảo trật tự cú pháp của câu thơ là một biện pháp nghệ thuật quan trọng của bài thơ. Thơ hai-cư đề cao tính chất hàm súc của ngôn từ. Vì thế các nhà thơ thường chú ý tạo nên những hình ảnh có sức gợi lớn.

Ở bài thơ này, chỉ cần một âm thanh của tiếng ve ngâm, tác giả đã gợi nên khung cảnh mùa hè. Nhưng đây là mùa hè được cảm nhận bằng những giác quan của một con người thâm trầm. Người ngắm cảnh như nghiêng mình trước buổi chiều yên ắng để lắng nghe, để chiêm nghiệm, để hoà hợp tâm hồn mình cùng những biến thái, những chuyển động rất tinh vi của tự nhiên. Vốn ưa cái thâm trầm, các nhà thơ hai-cư thường tạo nên chất thâm trầm cho thơ của mình. Thâm trầm vốn là bản chất của vũ trụ. Rất nhẹ nhàng nhưng có một sức tác động mạnh mẽ, mọi vật tồn tại trong thế giới này đều lặng lẽ hoà hợp với nhau, tạo nên sự bền vững cho thế giới.

8. Bài thơ này viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của Ba-sô. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận.

Nằm bệnh giữa cuộc lãng du

mộng hồn còn phiêu bạt

những cánh đồng hoang vu.

Cuộc đời Ba-sô là cuộc đời lang thang phiêu bồng, lãng du. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Và ta lại như thấy hồn Ba-sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu. Vẫn tha thiết, ước mong được đi đến mọi miền của quê hương để được ngắm nhìn, được tìm hiểu và chiêm nghiệm cuộc đời. Thế nhưng bệnh tật đã buộc nhà thơ phải ở một chỗ. Thân xác phải ở một nơi nhưng tâm hồn vẫn phiêu bồng với những ước mơ thật lớn. Khát vọng được sống luôn đốt cháy tâm can và tấm lòng yêu đời, tha thiết sống của thi nhân đã được thể hiện trọn vẹn, nồng nàn trong một câu thơ đầy trăn trở, khao khát.

Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người và đó là giá trị nhân sinh trong thơ của Ba-sô. Thơ hai-cư của Ba-sô súc tích, giàu hình ảnh nên tạo được những ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Chỉ một hình ảnh đơn giản của cuộc sống nhưng chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, thơ hai-cư đòi hỏi người đọc phải đến với nó không chỉ bằng trái tim, khối óc mà bằng cả trí tưởng tượng và cả trực giác của người biết cảm thụ nghệ thuật.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 4

Ba-sô là một danh sĩ lỗi lạc thời kỳ Ê-đô của Nhật Bản. Những tác phẩm của ông để lại nhiều giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông là sự dung hợp và hài hoà giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Những bài thơ Hai cư tiêu biểu cho hồn thơ ấy của ông.

“Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương”

Sau hơn mười năm ròng xa cách quê nhà, sống ở vùng đất Ê-đô bận rộn với cuộc sống thường ngày, ông trở về quê hương trong niềm vui của người con bao năm xa quê nhưng vẫn đong đầy tình cảm với vùng đất thương mến – nơi đã cùng ông gắn bó suốt một khoảng thời gian. Với Ba-sô giờ đây, Ê-đô như quê hương thứ hai của mình vậy, vẫn khôn nguôi nỗi nhớ da diết về cõi “cố hương”.

Phải chăng, nhà thơ đang muốn nhắn nhủ mỗi người nên trân trọng những gì gần gũi gắn bó quanh ta, những nơi ta đi và ta đến đều để lại những dấu ấn và kỉ niệm khó phai nên được trân trọng như một điều đẹp đẽ nhất. Bài thơ tuy ngắn gọn mà đong đầy những cảm xúc chân thành, bình dị, xinh xắn mà quá đỗi đáng quý, đáng yêu.

Qua bài thơ thứ hai, tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước càng được tác giả thể hiện rõ với những dòng cảm xúc thấm đẫm:

“Chim đỗ quyên hót

ở Kinh đô

mà nhớ Kinh đô.”

Sau bao năm bôn ba, phiêu bạt nơi xứ người, đứng trên mảnh đất kinh đô nơi quê nhà, tác giả nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà dâng lên nỗi nhớ. Tiếng đỗ quyên hót giữa không gian rộng lớn kinh đô gợi nên vẻ vắng lặng, u tịch, không gian tĩnh lặng đượm buồn khiến lòng người thổn thức. Đứng trên đất kinh đô mà hồn lại nhớ kinh đô, thời điểm hiện tại nhớ về quá khứ nhớ về những tháng ngày kinh đô tươi đẹp, nhân dân được phồn vinh, ấm no, thịnh vượng. Kinh đô giờ đây hoang tàn chẳng còn vẻ huy hoàng xưa cũ.

Niềm tiếc nuối quá khứ cho thấy được tình yêu quê hương thiết tha của nhà thơ trước thực tại nhiều đau thương. Tiếp đến, tình mẫu tử được cất lên thật nghẹn ngào quá tiếng thơ:

“Lệ trào nóng hổi

tan trên tay tóc mẹ

làn sương thu.”

Tình cảm mẹ con luôn thiêng liêng và cao quý nhất. Trở về khi mẹ đã mất chỉ còn lại nắm tóc bạc trên bàn tay mà lòng đớn đau, uất nghẹn, niềm tiếc hận khôn nguôi. Dòng lệ nóng hổi buông trên làn tóc mẹ là tiếng lòng thổn thức tâm can nơi đáy hồn con. Làn sương thu mỏng manh cũng mang màu buồn của nỗi tuyệt vọng khôn nguôi khi đứa con mất đi mẹ mãi mãi.

“Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

gió mùa thu tái tê.”

Qua bài thơ thứ 5, ta thấy được ở nhà thơ một tấm lòng nhân ái. Tiếng vượn hú trong rừng xa não nề, thê lương khiến người thi sĩ liên tưởng đến niềm đau của những đứa trẻ thơ. Chúng bị bỏ rơi giữa cuộc đời, thiếu đi tình thương của người thân, thiếu đi trái tim nhân ái của nhân loại, chúng trở nên cô độc giữa cuộc đời chính mình. Gió thu về khiến nỗi đau ấy càng tê tái, càng buồn, càng xót xa hơn. Ta như cảm nhận được hình ảnh đầy thương cảm của những đứa trẻ mồ côi trong tiếng khóc đau thương giữa dòng đời nghiệt ngã. Những kiếp người bất hạnh ấy, sao không thể không thương tâm, động lòng cho được?

“Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.”

Những vần thơ chứa chan niềm yêu thiên nhiên, vạn vật. Xót xa trước cảnh chú khỉ con run lạnh giữa cái lạnh, cái ướt của cơn mưa mùa đông, nhà thơ đã viết nên vần thơ bày tỏ cảm xúc ấy. Đó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người lao động nghèo khổ trong xã hội xưa kia. Họ làm lụng vất vả, sống cũng chẳng hề dư dả, cái nghèo cái đói vẫn cứ đeo bám lấy họ. Lời thơ chính là tiếng nói thương cảm và gửi gắm niềm ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống hạnh phúc, vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống của con người.

“Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.”

Khung cảnh mùa xuân nơi hồ Bi-oa thật ấn tượng và xinh đẹp. Giữa khoảng không bốn bề cánh hoa đào hồng phai rơi lả tả. Mỗi đợt gió nhẹ thổi qua, cành đào rơi theo chiều gió, chạm vào dòng nước, sóng gợn lăn tăn, khung cảnh thật nhẹ nhàng, bình yên. Vạn vật dường như có sự tương giao, hoà hợp tạo nên bức tranh sinh động, thanh thoát lạ thường.

“Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.”

Vẻ tĩnh mịch vắng lặng của không gian được gợi lên qua vẻ u trầm của đá, có tiếng ve ngân – thứ âm thanh thân thuộc của mùa hè nhưng tiếng ve ấy không đủ để giúp bức tranh trở nên sống động hơn. Tiếng ve thấm sâu vào đá, âm thanh giao hoà với vạn vật tạo nên ý vị sâu sắc. Qua cái nhìn tinh tế cùng cách cảm nhận độc đáo, bài thơ tựa như nốt nhạc độc đáo của mùa hè dành riêng cho đời sống. Giữa tâm hồn nhà thơ có sự giao cảm với thiên nhiên để cảm nhận, chiêm nghiệm và tâm tình, đó chính là trong cảnh có hồn, trong tâm có cảnh.

Những bài thơ Hai-cư tuy ngắn với số lượng âm tiết ít nhưng luôn mang lại cho người đọc những cảm xúc và ấn tượng vô cùng lớn. Đặc biệt là đối với thi sĩ Ba sô người cầm bút tài năng đã viết nên những tuyệt phẩm vô cùng giá trị, để lại cho thế hệ mai sau những vần thơ ý vị, giàu có về tư tưởng. Đọc thơ Hai cư, ta như được đắm mình vào trong thế giới thiên nhiên, trong trường liên tưởng với những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Cùng với tác giả, người đọc trở thành những người đồng sáng tạo lý thú và hữu ích.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 5

Thơ hai cư là thể loại thơ truyền thống Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới chỉ có mười bảy âm tiết. Trong tiếng Nhật, mười bảy âm tiết đó được viết thành một hàng, khi phiên âm La tinh, nó mới được ngắt thành ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Cá biệt có những bài có mười chín âm tiết. Thơ Hai cư thường phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm trạng con người trước thiên nhiên. Thường dùng từ có tác dụng tượng trưng và gợi cảm giác về các mùa trong năm. Nhờ sự cách tân của Ba sô mà thơ hai cư xưa kia nặng tính trào lộng, hài hước giờ đây đậm chất lãng mạn, trữ tình. Cũng từ đó Ba sô trở thành bậc thầy của thơ hai cư. Sau này nhiều môn đồ của ông tiếp nối, trong đó có: yô-sa Bu sôn, cô-ba-ya-si Ít su.

Tác giả Ma-su-ô Ba-sô xuất thân trong gia đình võ sư đạo samurai thành phố U-ê-nô. Là một người thích ngoạn cảnh, thăm bạn bè, thích thơ văn, hội họa từ nhỏ. Có công lớn trong việc cách tân nội dung, hình thức thơ hai cư. Thơ của ông đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lặng và u buồn. Xứng đáng là bậc thầy về hai cư lỗi lạc, nổi tiếng của Nhật Bản. Các bài thơ hai cư của Ba-sô vốn không có nhan đề, người đọc gọi tên bài thơ bằng những hình ảnh ấn tượng trong bài, như bài thơ này quen gọi là con quạ:

“Trên cành khô

Chim quạ đậu

Chiều thu”.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi năm tuổi. Tác giả sử dụng quý ngữ chỉ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng không có chồi non. Hình ảnh “con quạ” gợi sự tang thương và u ám. Cảnh chiều thu thật đơn sơ và sâu lắng, cô tịch đến tàn úa. Hình ảnh “con quạ” gợi ra hình ảnh con quạ nhỏ bé, ngoài ý nghĩa tả thực đã trở thành hình ảnh giàu tính tượng trương. Biểu tượng của sự cô đơn, cô độc giữa đất trời rộng lớn. Bài thơ chỉ qua vài nét phác họa đơn sơ, hình ảnh động. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh lạ kì cho độc giả, tác động mạnh mẽ đến người đọc. Tác giả đã sử dụng bút pháp chấm phá gợi hơn là tả, vẽ ra một bức tranh thủy mạc đơn sơ mà sâu thẳm.

Không còn là bức tranh thủy mạc đơn sơ nữa, tất cả những âm thanh của tiếng chuông như kéo người đọc đến một không gian khác:

“Hoa đào

Như áng mây sa

Chuông đề U-ê-nô vang vọng

hay đền A-sa-cư-sa”.

Sử dụng quý ngữ hoa anh đào chỉ mùa xuân của Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như tâm hồn người Nhật. Hàng năm, hoa anh đào nở, người Nhật thường cầu xuân. Hoa anh đào gợi cảm nhận như một đám mây đang trôi, nó không được nhận ra từng bông mà chỉ có cảm nhận tầng tầng lớp lớp những bông hoa hòa lẫn vào nhau, tôn tạo cho nhau tạo nên một vừng hồng. Trong không gian ấy, văng vẳng một thứ âm thanh quen thuộc cũng là sự gợi nhớ đến địa danh U-ê-nô và A-sa-cư-sa.

Nếu không có tiếng chuông thì phong cảnh ấy trơ nên thật khô cứng, chưa phải là một không gian sống động. Thi nhân cũng không xác định được rõ tiếng chuông đến từ nơi nào gợi ra một cảm xúc mơ hồ, tâm trạng cô đơn và trống vắng thể hiện nỗi niềm thầm kín. Cảnh tượng đó cảm giác được thưởng ngoạn cái đẹp, hòa tan với tâm trạng cô đơn.

“Cây chuối trong gió thu

Tiếng mưa rơi tí tách vào chậu

Ta nghe tiếng đêm”

Cây chuối là một loại chuối của Nhật Bản, tượng trưng cho sự trong sáng và tính nhạy cảm. Âm thanh: tiếng gió, tiếng mưa gợi không gian yên tĩnh và thanh vắng. Tiếng đêm không chỉ là âm thanh của tự nhiên mà còn là tiếng lòng của thi nhân trong đêm. Tác giả cảm nhận bằng thính giác, tâm hồn nhạy cảm giàu liên tưởng và tưởng tượng.

Tác giả Yô-sa-bu-sôn sống trong một gia đình giàu có nhưng có tính tự lập. Là gương mặt lớn của thơ hai cư, nối tiếp và phát huy tinh hoa của thơ Ba-sô có phong cách riêng, danh họa là người yêu mùa xuân, viết nhiều về mùa xuân và được mệnh danh là “thi sĩ của mùa xuân”:

“Gần xa đâu đây

Nghe tiếng thác chảy

Lá non tràn đầy”.

“Thác” là biểu tượng cho sức mạnh của mùa xuân, là biểu hiện của sự sống, bởi thác luôn có sự vận động liên tục, biểu hiện cho một thế giới mà các yếu tố thay đổi không ngừng. Tiếng thác chảy có quan hệ với lá non, như đang gọi mùa xuân, thúc giục mùa xuân đâm chồi nảy nở. Tiếng thác chảy thể hiện sức sống. Luôn đặt niềm tin của con người có quan hệ với cây cỏ, thích thiên nhiên, chan hòa với thiên nhiên. Thể hiện tình yêu thiên nhiên tươi tắn, sinh động, giàu sức sống. Cảm thức thẩm mĩ của ông thiên về Karumi (trong trẻo, nhẹ nhàng) và mềm mại trữ tình.

“Dưới mưa xuân lất phất

Áo tơi và ô

Cùng đi”.

Tác giả sử dụng quý ngữ mưa xuân, thơ Bu-sôn hay viết về mùa xuân, một thứ mưa xuân nhẹ nhàng và tươi tốt. Đây là khoảng thời gian sự vật bung tỏa ra một nguồn sinh khí mới, một phông nền mờ ảo, xa xăm gợi sự thích thú nơi độc giả. Hình ảnh “áo tơi” và “ô” tượng trưng cho sự hiện diện của con người (tả cảnh mùa xuân rất đỗi trữ tình). Con người hòa trong mưa xuân, mùa xuân của tình yêu và tuổi trẻ.

Hai hình ảnh không thật xúc động nhưng gợi mùa xuân vừa thực lại vừa ảo, mùa xuân với cuộc sống của con người. Cảm giác như nhà thơ cũng hòa vào cái vui chung đó, tạo nên mùa xuân thật tươi thắm, sống động và gần gũi với con người. Bài thơ rất ngắn nhưng lại chứa đựng bao nhiêu ý vị riêng: vừa là vẻ đẹp của tự nhiên, hình ảnh con người rộn ràng và cũng là cái nhìn tinh tế của thi nhân.

“Hoa xuân nở tràn

Bên lầu du nữ

mua sắm đai lưng”

Ở Nhật Bản, mùa xuân về thì hoa anh đào nở. Tác giả miêu tả cảnh thiên nhiên, cảnh ở câu hai và câu ba là cô gái đi sắm đai lưng để trang điểm cho mình (vì trong áo kimono, chiếc đai lưng là cái quan trọng, tùy theo từng mùa, đai lưng có hình tượng trưng cho mùa). Hình ảnh cô gái đang xuân đi mua sắm tô thêm vẻ đẹp của mùa xuân. Con người và thiên nhiên như tô điểm cho mùa xuân thêm giàu đẹp và tràn đầy sức sống.

Dù là nhà thơ nào nhưng cũng có những đóng góp cho thơ hai cư truyền thống của Nhật Bản, mỗi bài hai cư của Ba sô cũng thấm nhuần cảm xúc sa-bi tức là nỗi cô đơn huyền diệu của thiên nhiên, niềm cô đơn vô ngã và tịch mịch, vắng vẻ của muôn đời. Đó cũng là niềm cô đơn trước vũ trụ. Yêu đời, yêu cái đẹp, Ba sô sẽ còn mãi làm thơ về cuộc đời này ngay cả khi mộng hồn đã rời sang thế giới bên kia. Thật đậm chất thơ, chất thi vị và lãng mạn. Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người và đó là giá trị nhân sinh trong thơ của Ba-sô.

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 6

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.

Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bởi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên…

Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô…. Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng.

Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.

Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ – con người, vô hạn – hữu hạn, không gian – thời gian, hữu hình – vô hình, có – không, đen – trắng, tĩnh – động, tối – sáng, nhất thời – vĩnh hằng… Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.

Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và “ngộ” ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương.

Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn. Một lần ngang qua cánh rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc

gió mùa thu tái tê.

Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người (hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo.

Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghiã tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan. Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.

Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đối lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người… Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữu sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc. Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.

Trên cành khô

cánh quạ đậu

đêm thu.

Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màn đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la…

Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như: thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây… Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình:

Chim đỗ quyên hót

ở kinh đô

mà nhớ kinh đô.

Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.

Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Đó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ. Nhà thơ Chiyô viết:

A! Hoa Asagaô

dây gàu vương hoa bên giếng

đành xin nước nhà bên.

Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bởi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.

Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào – mùa xuân, tiếng ve – mùa hè… còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông… Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư “nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên”. Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, “là con mắt” để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, người đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôm nay và mai sau…

Bài văn phân tích tác phẩm “Thơ Hai-cư” số 7

Ba sô là một danh sĩ lỗi lạc thời kỳ Edo của Nhật Bản. Những tác phẩm của ông để lại nhiều giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông là sự dung hợp và hài hoà giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Những bài thơ Hai cư tiêu biểu cho hồn thơ ấy của ông.

” Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.”

Sau hơn mười năm ròng xa cách quê nhà, sống ở vùng đất Edo bận rộn với cuộc sống thường ngày, ông trở về quê hương trong niềm vui của người con bao năm xa quê nhưng vẫn đong đầy tình cảm với vùng đất thương mến – nơi đã cùng ông gắn bó suốt một khoảng thời gian. Với Ba sô giờ đây, Edo như quê hương thứ hai của mình vậy, vẫn khôn nguôi nỗi nhớ da diết về cõi “cố hương”. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nhắn nhủ mỗi người nên trân trọng những gì gần gũi gắn bó quanh ta, những nơi ta đi và ta đến đều để lại những dấu ấn và kỉ niệm khó phai nên được trân trọng như một điều đẹp đẽ nhất. Bài thơ tuy ngắn gọn mà đong đầy những cảm xúc chân thành, bình dị, xinh xắn mà quá đỗi đáng quý, đáng yêu.

Qua bài thơ thứ hai, tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước càng được tác giả thể hiện rõ với những dòng cảm xúc thấm đẫm:

“Chim đỗ quyên hót

ở Kinh đô

mà nhớ Kinh đô.”

Sau bao năm bôn ba, phiêu bạt nơi xứ người, đứng trên mảnh đất kinh đô nơi quê nhà, tác giả nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà dâng lên nỗi nhớ. Tiếng đỗ quyên hót giữa không gian rộng lớn kinh đô gợi nên vẻ vắng lặng, u tịch, không gian tĩnh lặng đượm buồn khiến lòng người thổn thức. Đứng trên đất kinh đô mà hồn lại nhớ kinh đô, thời điểm hiện tại nhớ về quá khứ nhớ về những tháng ngày kinh đô tươi đẹp, nhân dân được phồn vinh, ấm no, thịnh vượng. Kinh đô giờ đây hoang tàn chẳng còn vẻ huy hoàng xưa cũ. Niềm tiếc nuối quá khứ cho thấy được tình yêu quê hương thiết tha của nhà thơ trước thực tại nhiều đau thương. Tiếp đến, tình mẫu tử được cất lên thật nghẹn ngào quá tiếng thơ:

” Lệ trào nóng hổi

tan trên tay tóc mẹ

làn sương thu.”

Tình cảm mẹ con luôn thiêng liêng và cao quý nhất. Trở về khi mẹ đã mất chỉ còn lại nắm tóc bạc trên bàn tay mà lòng đớn đau, uất nghẹn, niềm tiếc hận khôn nguôi. Dòng lệ nóng hổi buông trên làn tóc mẹ là tiếng lòng thổn thức tâm can nơi đáy hồn con. Làn sương thu mỏng manh cũng mang màu buồn của nỗi tuyệt vọng khôn nguôi khi đứa con mất đi mẹ mãi mãi.

“Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

gió mùa thu tái tê.”

Qua bài thơ thứ 5, ta thấy được ở nhà thơ một tấm lòng nhân ái. Tiếng vượn hú trong rừng xa não nề, thê lương khiến người thi sĩ liên tưởng đến niềm đau của những đứa trẻ thơ. Chúng bị bỏ rơi giữa cuộc đời, thiếu đi tình thương của người thân, thiếu đi trái tim nhân ái của nhân loại, chúng trở nên cô độc giữa cuộc đời chính mình. Gió thu về khiến nỗi đau ấy càng tê tái, càng buồn, càng xót xa hơn. Ta như cảm nhận được hình ảnh đầy thương cảm của những đứa trẻ mồ côi trong tiếng khóc đau thương giữa dòng đời nghiệt ngã. Những kiếp người bất hạnh ấy, sao không thể không thương tâm, động lòng cho được?

“Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.”

Những vần thơ chứa chan niềm yêu thiên nhiên, vạn vật. Xót xa trước cảnh chú khỉ con run lạnh giữa cái lạnh, cái ướt của cơn mưa mùa đông, nhà thơ đã viết nên vần thơ bày tỏ cảm xúc ấy. Đó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người lao động nghèo khổ trong xã hội xưa kia. Họ làm lụng vất vả, sống cũng chẳng hề dư dả, cái nghèo cái đói vẫn cứ đeo bám lấy họ. Lời thơ chính là tiếng nói thương cảm và gửi gắm niềm ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống hạnh phúc, vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống của con người.

“Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.”

Khung cảnh mùa xuân nơi hồ Bi-oa thật ấn tượng và xinh đẹp. Giữa khoảng không bốn bề cánh hoa đào hồng phai rơi lả tả. Mỗi đợt gió nhẹ thổi qua, cành đào rơi theo chiều gió, chạm vào dòng nước, sóng gợn lăn tăn, khung cảnh thật nhẹ nhàng, bình yên. Vạn vật dường như có sự tương giao, hoà hợp tạo nên bức tranh sinh động, thanh thoát lạ thường.

“Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm.”

Vẻ tĩnh mịch vắng lặng của không gian được gợi lên qua vẻ u trầm của đá, có tiếng ve ngân – thứ âm thanh thân thuộc của mùa hè nhưng tiếng ve ấy không đủ để giúp bức tranh trở nên sống động hơn. Tiếng ve thấm sâu vào đá, âm thanh giao hoà với vạn vật tạo nên ý vị sâu sắc. Qua cái nhìn tinh tế cùng cách cảm nhận độc đáo, bài thơ tựa như nốt nhạc độc đáo của mùa hè dành riêng cho đời sống. Giữa tâm hồn nhà thơ có sự giao cảm với thiên nhiên để cảm nhận, chiêm nghiệm và tâm tình, đó chính là trong cảnh có hồn, trong tâm có cảnh.

Những bài thơ Hai cư tùy ngắn với số lượng âm tiết ít nhưng luôn mang lại cho người đọc những cảm xúc và ấn tượng vô cùng lớn. Đặc biệt là đối với thi sĩ Ba sô người cầm bút tài năng đã viết nên những tuyệt phẩm vô cùng giá trị, để lại cho thế hệ mai sau những vần thơ ý vị, giàu có về tư tưởng. Đọc thơ Hai cư, ta như được đắm mình vào trong thế giới thiên nhiên, trong trường liên tưởng với những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Cùng với tác giả, người đọc trở thành những người đồng sáng tạo lý thú và hữu ích.

Hi vọng bài viết cung cấp cho bạn thêm nhiều kiến thức về thể thơ truyền thống của Nhật Bản đồng thời làm tư liệu để bạn chuẩn bị cho bài văn của mình. Chúc các bạn học tốt!

Top 5 Bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô (Ngữ Văn 10) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn 10, với bài học Thơ Hai-cư của Ba-sô, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.

Bài soạn tham khảo số 1

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ 1:

Nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là To-ky-o ngày nay):

– Mười mùa sương xa quên, mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E- đô

– Mười mùa sương gợi sự thương nhớ của người xa quê

– Tình yêu quê hương đất nước hòa quyện với nhau

Bài thơ 2:

Kyoto nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666- 1672), ông chuyển đến Ê-đô

– Hai mươi năm sau trở lại Kyoto nghe tiếng chim đỗ quyền hót cho Ba-sô cảm hứng sáng tác bài thơ

– Bài thơ gợi sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, chim báo mùa, gợi lên kỉ niệm tuổi trẻ

– Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về thời xa xăm

→ Thơ của Ba-sô mang lại những ấn tượng đầy lãng mạn, gợi lên nỗi nhớ, hoài cảm


Câu 2 (Trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ 3:

Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay Ba- sô rưng rưng dòng lệ chảy

+ Lòng thương cảm, xót xa, trống trải khi mẹ không còn

+ Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục

→ Tình mẫu tử khiến người đọc cảm động

Bài thơ 4:

Bài thơ trong hoàn cảnh đặc biệt: Ba sô kể chuyện từng đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú, tiếng kêu ấy gợi lên tiếng khóc của em bé bỏ rơi trong rừng

– Bài thơ gợi nhắc lại những năm tháng đau thương của nước Nhật: những năm mất mùa, đói kém, có những nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng

– Âm thanh tiếng vượn gợi nhớ tới những tiếng khóc, nỗi buồn đau của con người.

– Gió mùa thu cũng gợi lên nhiều nỗi đau thương, sự mơ hồ, mờ ảo của bài thơ, điều đó gợi ra sự đồng cảm của người đọc


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi đi du hành ngang qua rừng thấy kỉ nhỏ run lên trong cơn mưa mùa đông

– Nhà thơ mong muốn có chủ khỉ thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh

→ Bài thơ là tình yêu thương, yêu thương sâu sắc nhà thơ đối với kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 ( trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

– Bài thơ miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở.

Tác giả liên tưởng cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng

– Hình ảnh đẹp đẽ chứa đựng triết lí sâu sắc : sự tương giao mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới tác động qua lại lẫn nhau, không thể tồn tại độc lập

Về bài 7:

– Sự im lặng huyền diệu, trong cảnh u tịch có tiếng ve ngâm như thấm sâu vào đá

– Một liên tưởng độc đáo, không hề thậm xưng bởi cảnh u huyền đó là có thực và con người chìm vào thế giới suy tưởng của bản thân.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Khát vọng sống, khát vọng được lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8

– Trước cái chết, Ba- sô không hề bi lụy

+ Cuộc đời Ba-sô đã lang thang, phiêu bạt mọi nơi

+ Khi sắp từ giã cõi đời ông vẫn là người mang tâm hồn lãng du

+ Gợi tâm hồn Ba-sô lang thang trên những cánh đồng hoang vu.

→ Bài thơ giống như tâm nguyện của tác giả muốn được phiêu du


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Quý ngữ và cảm thức thẩm mĩ về cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền

– Qúy ngữ chính là “cánh hoa đào” gợi lên:

+ Mùa xuân tươi đẹp

+ Cảm thức thẩm mĩ đơn sơ của bài thơ hai- cư này chính là triết lí sâu sắc rút ra được bức tranh mùa xuân tươi đẹp

– Bài thơ 7 quý ngữ “tiếng ve ngâm”: âm thanh vang vọng mùa hè, cảm thức thẩm mĩ nằm trong sự u huyền, tịch mịch nhưng cũng gợi sự thẩm thấu vào kẽ lá

– Quý ngữ bài 8: “những cái đồng hoang vu”, những cánh đồng hiện lên giấc mơ tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như gợi lên mùa thu hiu quạnh, cảm thức ẩn sâu trong sự vắng lặng đó.

Bài soạn tham khảo số 2

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Bài 1: Ê-đô là đất khách. Vậy mà, trong giây phút chia xa, Ê-đô trở nên thân thiết, gần gũi, sâu nặng như chính quê hương mình.

Bài 2: Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng kêu của chim đỗ quyên. Tiếng kêu nghe khắc khoải gợi lại kỉ niệm một thời trẻ tuổi. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm


Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Bài 3: Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ: là giọt lệ như sương, hay mái tóc bạc của mẹ như sương, hay cuộc đời như giọt sương: ngắn ngủi, vô thường.

=>Tình mẫu tử xúc động, thiêng liêng.

Bài 4 :

– Nghe tiếng Vượn hú, Ba – sô liên tưởng đến tiếng khóc của trẻ bị bỏ rơi trong rừng.

– Tiếng Vượn là thật hay tiếng trẻ em khóc là thật.

– Trong gió mùa thu, hay tiếng gió mùa thu đang than khóc cho nỗi đau buồn của con người=> Hình ảnh trong thơ thật mơ hồ, mờ ảo.


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Bài thơ thể hiện lòng từ bi, nhân ái với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp cũng là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ của tác giả.


Câu 4 (trang 157sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Cảnh tượng: Cánh hoa đào làm mặt hồ gợn sóng -> đẹp giản dị mà nên thơ.

– Triết lí sâu sắc: Sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ (trời, hoa, nước) =>Triết lí của Thiền Tông.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Khát vọng sống ngay lúc đang bệnh, sống để tiếp tục cuộc du hành lang thang, phiêu bồng, lãng du => tinh thần lạc quan.


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Quý ngữ trong các bài thơ:

+ Bài 6: Hoa đào (chỉ mùa xuân)

+ Bài 7: Tiếng ve (chỉ mùa hè)

+ Bài 8: Cánh đồng hoang vu (chỉ mùa đông).

– Cảm thức thẩm mĩ:

+ Hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé, bình dị, tầm thường.

+ Đơn sơ, vắng lặng: cánh hoa đào mỏng manh rơi làm mặt hồ gợn sóng

+ U huyền: âm thanh của tiếng ve ngân tưởng như thấm sâu vào đá, một linh hồn sắp lìa khỏi thế gian vẫn muốn tiếp tục lang thang trên cánh đồng hoang vu, bất tận.

=> Hòa nhập với thiên nhiên để tìm vẻ đẹp thuần khiết, nhẹ nhàng của nó và giải thoát tâm linh mình

=> Đậm chất thiền

Bài soạn tham khảo số 3

Câu 1 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm:

– Về bài 1: Ba-sô quê ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô ở được mười năm mới về thăm quê. Ở Ê-đô, Ba-sô rất nhớ quê, nhưng về quê rồi rồi Ba-sô lại thấy nhớ Ê-đô. Có lẽ ông đã coi Ê-đô như quê hương mình, muốn gắn bó với mảnh đất ấy như nơi mình đã sinh ra.

– Về bài 2: Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên ở bài thơ này. Đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm. Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.


Câu 2 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi:

– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử. Ông đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”. Dòng nước mắt của nỗi xót xa, đau đớn, tình yêu thương đối với người mẹ đã khuất. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.

– Bài 4: Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ. Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc. Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người. Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương khôn nguôn.


Câu 3 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ qua bài 5:

Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện lòng từ bi với những sinh vật tội nghiệp và tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng được thể hiện qua:

– Bài 6: miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở. Tác giả liên tưởng hàng ngàn cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng. Chính cảnh tượng đẹp đẽ này lại ẩn chứa một triết lí vô cùng sâu sắc: sự tương giao của mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới này đều tác động qua lại lẫn nhau, không có vật thể nào tồn tại độc lập.

– Bài 7: Trong cái không gian im lăng, có chút gì đấy trầm buồn thì tiếng ve hiện lên. Không râm ran, nó rền rĩ để rồi thấm vào đá. Khung cảnh u tịch, vắng lặng mang chút buồn


Câu 5 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô:

Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô không hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.

Câu 6 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): “Quý ngữ” và cảm thức thẩm mĩ về cái Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền trong các bài 6,7,8:

– Bài 6: quý ngữ là “cánh hoa anh đào”. Hình ảnh này gợi lên mùa xuân. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.

– Bài 7: quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Bài 8: “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.

Bài soạn tham khảo số 4

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài 1: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay)

+ Đã mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E-đô, rất nhớ quê cũ nhưng có một lần trở về quê cha đất tổ ông lại không thể nào quên được Ê-đô.

+Ngoảnh lại Ê- đô đã là cố hương, tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.

– Bài 2:

+ Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên , đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm.

+ Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.


Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử.

+ Nhà thơ đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”.

+ Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,…

+ Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.

– Bài 4:

+ Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa: vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ.

+ Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc.

+ Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người.

+ Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương, xót xa


Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cái lạnh.

⇒ Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.


Câu 4 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Ở bài 6 chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa.

+ Đây là thời kì chuyển giao mùa.

+ Cái nhỏ bé ,đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ.

+ Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.

– Bài 7 ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè.

+ Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh.

+ Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi.

+ Câu thơ thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.


Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài thơ 8 là bài thơ từ thế của Ba- sô.

– Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi.

– Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình.

– Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy: được lang thang trên những cánh đồng hoang vu


Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Bài thơ số 6, quý ngữ là “cánh hoa đào”.

⇒ Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp

– Bài thơ số 7 quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”.

⇒ Cảm thức thẩm mĩ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Bài thơ số 8 quý ngữ nằm ở “những cánh đồng hoang vu”

⇒ Cảm thức thẩm mĩ của bài ẩn sâu trong cái vắng lặng của những cánh đồng hoang vu

Bài soạn tham khảo số 5

Câu 1 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố E-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện như thế nào trong bài một và hai?

Lời giải chi tiết:

– Bài một: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quê, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê -đô. Ê – đô đã trở thành quê hương thứ hai của tác giả. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.

– Bài hai: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Câu thơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.

Câu 2 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tình cảm đổi với mẹ và em bé bỏ rơi thể hiện như thế nào trong ba bài 3, 4?

Lời giải chi tiết:

– Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.

– Bài 4: Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng.

Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa.

Những câu chuyện như thế in đậm vào tâm khảm nhà thơ. Vì thế, nghe tiếng vượn hú mà Ba-Sô lại liên tưởng đến tiếng người. Tiếng vượn hay chính là tiếng trẻ con khóc thật. Hay trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người? Gió mùa thu tái tê hay lòng thi nhân tái tê hay lòng thi nhân tái tê khi nghe thấy những âm thanh gợi lên nhiều nỗi đau thương đó? Cái mơ hồ, mờ ảo của bài thơ nằm ở đây, nó chờ câu trả lời từ sự đồng vọng trong lòng người đọc.

Câu 3 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Qua bài 5, anh (chị) cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?

Lời giải chi tiết:

– Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.

Câu 4 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ được thể hiện như thế nào ở bài sáu, bảy?

Lời giải chi tiết:

– Ở bài sáu chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa.

Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.

– Đến bài bảy ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy của nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.

Câu 5 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện như thế nào trong bài 8?

Lời giải chi tiết:

– Khát vọng sống, khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8.

– Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô khoogn hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.

Câu 6 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Tìm quý ngữ và cảm thức vê cái vắng lặng, đơn sơ, u huyên trong các bài thơ sáu, bảy, tám?

Lời giải chi tiết:

– Trong bài thơ số 6, quý ngữ của bài chính là “cánh hoa đào”. Đó là hình ảnh gợi nên mùa xuân tươi đẹp. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.

– Ở bài thơ số 7 quý ngữ của bài nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.

– Quý ngữ của bài thơ số 8 lại nằm ở “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.

phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.

Top 6 Bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ Văn 10) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn 10, với bài học Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.

Bài soạn tham khảo số 1

Bố cục

– 6 câu đầu: cuộc sống và lẽ sống “nhàn”của tác giả

– 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về cuộc đời


Câu 1 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Nhịp điệu của câu thơ gợi lên sự ung dung, thong thả:

Một mai/ một cuốc,/một cần câu (2/2/3)

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào (4/3)

– Tâm trạng ung dung tự tại trong những công việc lao động hàng ngày

– Cuộc sống nghèo, thanh nhã, đạm bạc cho thấy nhà thơ có nhu cầu sống khiêm tốn, bình dị.


Câu 2 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Sử dụng nghệ thuật đối: dại >< khôn, vắng vẻ >< lao xao, ta >< người

– Quan điểm sống của tác giả, có chút mỉa mai, ngạo nghễ

+ Tác giả tự nhận mình “ngu” dại, đây là cái ngu dại của bậc đại trí (đại trí như ngu), thực chất là “khôn”

+ Ông khiêm tốn, không khoe khoang đây là cái thức của người trí nhân

– Vắng vẻ: không phải xa lãnh cuộc đời mà là được tìm nơi thoải mái, sống hòa nhập với thiên nhiên, xa chốn quan trường để giữ nhân cách thanh cao

– Chốn lao xao: ý nói chốn quan trường tuy quyền quý, cao sang xong phải đối chọi, bon chen

→ Nghệ thuật đối lập khẳng định triết lý sống của tác giả, ông mượn cách nói đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình- xa lánh vinh hoa phú quý để sống an yên, tự tại


Câu 3 (Trang 129 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Cảnh vật, khung cảnh bình dị, đạm bạc mà thanh cao hòa nhập với đời sống thiên nhiên

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Nhịp thơ: 1/3/1/2 gợi tả khung cảnh sinh hoạt của tác giả trong từng mùa, cách sống nhàn là hòa với tự nhiên

+ Mỗi mùa một thức: thu – trúc, đông – giá, xuân – hồ sen, hạ – ao

+ Mọi sinh hoạt đều gắn liền với cuộc sống ở quê chất phác, đạm bạc mà thanh cao

+ Tác giả thấy hứng thú, vui vẻ khi hòa nhịp với thiên nhiên

→ Sự thanh thản, ung dung trong cuộc sống nhàn ấy tỏa sáng nhân cách của bậc trí nhân

– Cảnh thú cảnh sống nhàn ẩn dật mang triết lí của nho sĩ: trong lúc loạn lạc, người có nhân cách thanh cao là người xa lánh cuộc bon chen tầm thường để tìm đến nơi yên tĩnh

Sự vui thú sống hòa mình với thiên nhiên, vũ trụ và giữ được nhân cách thanh cao, trong sạch.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Điển tích vua Thuần Vu, thể hiện quan điểm sống mang tính triết lý của tác giả- bậc trí giả uyên thâm, từng ra vào chốn quan trường hiểm ác.

– Tác giả muốn giữ sự thanh cao, trong sạch trong tâm hồn: xem phú quý tựa chêm bao, phù phiếm…

– Sự suy thịnh thuộc về quy luật của vũ trụ, triều đại, đất nước, vì vậy nhà Nho chân chính đều tự ý thức được sự cao quý của bản thân, vì vật cần giữ tâm hồn thanh sạch, không bị thói đời đua chen làm hoen ố.

– Hai câu cuối cho thấy tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là kẻ sĩ thanh cao, liêm khiết

Câu 5 (trang 130 sgk ngữ văn 10 tập 1)

Quan niệm sống Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) không phải rũ bỏ thế sự để nhàn tản, không phải sự nhàn tản của bản thân mà phó mặc dân chúng

+ Ông sống hòa hợp với tự nhiên, thuận tự nhiên, rời bỏ danh lợi để giữ cốt cách thanh cao

+ Ông vẫn lo cho vận nước sức dân, nhà thơ tìm đến “say” nhưng để “tỉnh” nhận ra phú quý chỉ là phù du, phù phiếm

+ Ông luôn bộc trực, không thờ ơ trước tình cảnh của dân chúng (ông dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần)

→ Quan niệm sống nhàn của ông chứa đựng yếu tố tích cực khác với lối sống “độc thiện kì thân”


Luyện tập

Bài 1 (Trang 130 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1549 -1585), chứng kiến cảnh sống ngang trái, bất công trong triều đại phong kiến Việt Nam.

– Ông là người ngay thẳng nên từng dâng sớ chém đầu những tên nịnh thần, vua không nghe nên ông cáo quan về quê với triết lý: Nhàn một ngày là tiên một ngày.

– Tư tưởng, triết lý sống của ông là tư tưởng của đạo nho, ứng xử trong thời loạn, sống chan hòa với thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bình Khiêm: thanh cao, trong sạch

Nhàn là chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo quan niệm của ông: sống tự nhiên, không màng danh lợi, đó cũng là triết lý nhân sinh độc đáo của nahf thơ.

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn: giản dị, đạm bạc mà thanh cao, trong sạch

+ Vui thú với lao động, nguyên sơ, chất phác

+ Không ganh tị với đời, với người, vẫn ung dung, ngạo nghễ

– Những hình ảnh dân dã, đời thường trong lối sinh hoạt của tác giả:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

+ Cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thanh tao trong cách ăn uống, sinh hoạt

+ Niềm vui, sự tự tại của tác giả thú vị vô cùng

– Hai câu thơ thực, thấy rõ tâm trạng, lối sống “nhàn” của tác giả:

+ Nghệ thuật đối lập: ta >< người, khôn >< dại, vắng vẻ >< lao xao

+ Suy nghĩ của bậc đại trí, tránh xa chốn quan trường thị phi

+ Ý thơ ngược với câu chữ, liên tưởng hóm hỉnh, sâu cay

– Hai câu kết: tâm thế ung dung tự tại, xem thường phú quý

+ Sử dụng điển tích vua Nghiêu Thuấn để thể hiện nhãn quan tỏ tường của nhà thơ. Phú quý chỉ là phù du, hư ảo như giấc chiêm bao.

→ Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, quan niệm sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách, xem thường danh lợi.

Bài soạn tham khảo số 2

I. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất:

+ Số từ “một” được lặp lại ba lần: tư thế sẵn sàng lao động.

+ Danh từ: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

=> Hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– Nhịp điệu hai câu thơ đầu:

+ Câu 1 nhịp thơ ngắt 2/2/3

+ Câu 2 nhịp thơ ngắt: 4/3

=> Sáng tạo hơn so với thơ đường luật. Nhịp thơ cho thấy sự khoan thai, tự tại của chủ thể trữ tình.

– Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Nơi “vắng vẻ: là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái tâm hồn.

– Chốn “lao xao” là chốn đô hội, cửa quyền, nơi con người bon chen danh lợi.

– Quan điểm của tác giả về dại – khôn:

+ Chữ “dại” tác giả tự vận vào mình hóa ra là “không dại” vì thời thế khi những kẻ lộng quyền xấu xa hoành hành thì việc rút lui khỏi chốn quan quyền là điều đúng đắn.

+ Chữ “khôn” tác giả dùng cho “người ta” lại là “không khôn”: xã hội lọan lạc, rối ren con sẽ đánh mất nhân phẩm, một mực bon chen, giành giật để đạt danh vọng, trở thành những kẻ xấu như bao kẻ xấu kia.

=> Tác giả tự nhận mình dại, cho người khôn.

=> Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

– Nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4:

+ Khôn >< dại

+ Nơi vắng vẻ >< chốn lao xao

=> Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

=> Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh khiêm xuất phát từ trí tuệ uyên thâm, từ nhân cách cao quý.


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6:

+ Các sản vật: Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá =>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Khung cảnh sinh hoạt: xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao. Sự hòa quyện, gắn bó giữa con người và thiên nhiên.

– Giá trị nghệ thuật:

+ Hình ảnh dung dị, mộc mạc, chân tình.

+ Ngắt nhịp: 1/3/1/2 => nhấn mạnh các mùa trong năm, mùa nào thức nấy.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu nằm dưới gốc cây hòe để thức tỉnh, nhận ra chân lý cuộc sống: Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

=> Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.

– Tác giả khẳng định cái tồn tại vĩnh hằng là thiên nhiên và nhân cách con người. Phủ nhận danh lợi, vật chất đều là hư vô. => Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.


Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: không màng phú quý. Ông xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên cây cỏ. Đó là lối sống không vướng bận, không bon chen.

=> Quan niệm sống tích cực vì trong hoàn cảnh rối ren, nhiều bon chen, phụ bạc tác giả muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình.


II. Luyện tập

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn:

Gợi ý:

a. Mở bài: giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và tác phẩm Nhàn.

b. Thân bài:

– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

– Phân tích bài thơ:

1. Hai dòng thơ đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.

– Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

– Điệp từ: một (3 lần) => tư thế sẵn sàng lao động => hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi => Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

– Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị

2. Hai dòng thơ thực: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.

+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .

+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.

– Tự nhận mình dại, cho người khôn =>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gắn bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch. => Bộc lộ thái độ, phương châm sống của mình pha chút mỉa mai người khác.

=> Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

3. Hai dòng thơ luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá => Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao => thú vui tao nhã, thanh bần.

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao.

4. Hai dòng thơ cuối: chân lý về cuộc sống.

– Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

– Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.=> Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.

=> Bài học về quan niệm sống, lẽ sống: Con người nên sống thanh thản, yêu thương nhau, trân trọng và gìn giữ vẻ đẹp bình dị, nhân cách thanh cao đồng thời phê phán lối sống xa xỉ, chạy theo vật chất, danh lợi cá nhân.

c. Kết bài: Bài thơ thể hiện được quan niệm “nhàn” của nhà thơ và tình yêu thiên nhiên tha thiết.

Bài soạn tham khảo số 3

Hướng dẫn soạn bài

Bố cục

– 6 câu đầu: cuộc sống và lẽ sống “nhàn”của tác giả

– 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về cuộc đời

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có một số điểm đáng chú ý:

+ Số từ “một… một… một…” cho thấy tác giả chủ động với công việc

+ Nhịp thơ 2/2/3 tạo sự thảnh thơi, nhàn nhã

+ Chữ “ai” ở câu thơ thứ hai để nói với người: dù cho người ta có “vui thú nào” thì ông vẫn vui vẻ với cuộc sống thôn dã

– Hai câu thơ ấy cho ta thấy cuộc sống nhàn nhã ở nơi thôn dã của tác giả. Ông vui vẻ, hài lòng với đời sống “tự cung tự cấp”, đồng thời hai câu thơ cũng cho thấy sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang tàng vẫn cứ thuần hậu, nguyên thủy


Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách hiểu về “nơi văng vẻ” và “chốn lao xao”:

+ “nơi vắng vẻ”: là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người; là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.

+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ; nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt

– Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”: tác giả tự nhận mình là người “dại” , chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nhường người “khôn” đến “chốn lao xao”. Ông đã trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

– Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý:

+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ

+ Sinh hoạt: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác

+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.

– Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đạm bạc mà thanh cao. Sự đạm bạc ở những thức ăn cây nhà lá vườn, tự mình làm ra, là công sức của chính mình. Cuộc sống tự nhiên mùa nào thức ấy, không hề nặng nề, ảm đạm mà trái lại nó thanh cao, bình dị.


Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Hai câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với cái nhìn thông tuệ của mình, ông tìm đến “say” để “tỉnh”. Hình ảnh một ông già ngồi một mình bên gốc cây uống rượu hiện lên với vẻ thoải mái nhưng “lạc lõng”. Nhiều năm trong chốn quan trường kia để ông nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Đây là cái nhìn của một nhân cách lớn, một trí tuệ lớn.


Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp với tự nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao. Với ông, sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống nhàn tản của bản thân mà sống nhàn là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên. Cuộc sống như vậy sẽ vất vả nhưng nó đem đến cho ông sự thoải mái trong tâm hồn, giữ được sự thanh sạch trong đời mình.

Luyện tập

Vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Nguyễn Bình Khiêm là người có học vấn uyên thâm, là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. “Bạch Vân quốc âm thi tập” một tập thơ tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm và “Nhàn” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập thơ này. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp trong cuộc sống và tâm hồn của nhà thơ.

Với những ngôn từ giản dị, tác giả viết:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Hai câu thơ đầu được mở ra với những dụng cụ lao động quen thuộc của người dân, làm hiện lên hình ảnh một ông lão nông dân với cuộc sống thảnh thơi của mình. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “nước giếng đào, cơm cày ruộng”. câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một… một… một… Tất cả điều đó làm hiện lên một cuộc sống thôn quê nhàn nhã, dù cho ai đang vui với bất kì thú vui nào, ta vẫn mặc đó, ta vui với thú vui giản dị của ta.

Hai câu thơ sau được nối tiếp với những món ăn dân dã theo mùa, những hoạt động thể hiện lối sống nhàn, hòa mình với cuộc sống bình dị:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường. Thu với măng trúc, đông với giá – những món ăn quen thuộc, không chút cầu kì cho thấy một cuộc sống giản dị vô cùng. Những sinh hoạt trong cuộc sống cũng thể hiện lối sống thanh sạch ấy: tắm ở hồ sen và tắm ao. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như chẳng còn chút gợn gì về một vị quan lớn của triều đình. Đây là một cuộc sống thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Không chỉ đẹp trong cuộc sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách của bản thân khi đưa ra những quan niệm sống của mình:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn” của “ta” và “người” thật khác lạ. Ta là kẻ “dại” nên tìm nơi thôn quê dân giã để về, người “khôn” người vào với trốn quan. Sau những năm tháng làm quan trong triều, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu ra những góc khuất của trốn này. Và Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Phải là một người từng trải mới có thể nhận ra cái dại, cái khôn ở đời. Điều này khiến người đọc ngẫm ra ai mới là kẻ “dại”, ai mới là người “khôn”.

Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ cuối là nét vẽ cuối cùng trong bức tranh về cuộc sống nhàn, ở đó nhân vật đang ngồi dưới gốc cây uống rượu để ngẫm về sự đời. Hóa ra, trong cuộc sống nhàn kia lại có biết bao băn khoăn, trăn trở, chứa đựng những nỗi niềm riêng. Đó là khát khao được đem sức của mình ra để phục vụ việc triều chính nhưng đành bất lực trước thế sự trước mắt. Đến đây, ta ngẫm ra một sự thật rằng phú quý, giàu sang chỉ như giấc mơ mà ai ai cũng muốn được với tới. Và chỉ có những người đã thoát ra khỏi trốn quan trường kia mới biết cuộc sống dân giã mới đáng quý thế nào.

Bài thơ không chỉ phác họa một bức tranh bốn mùa với những thức ăn, hoạt động dân giã mà ở đây nó còn thể hiện chân dung của con người hòa mình trong cuộc sống thôn quê, chất phác với những nét đẹp trong cuộc sống và nhân cách, tâm hồn.

Bài soạn tham khảo số 4

Bố cục

– Phần 1( hai câu đầu): cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.

– Phần 2 ( hai câu tiếp): quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– Phần 3 (hai câu tiếp): đồ ăn thức uống nơi thôn dã.

– Phần 4 (còn lại): rút ra chân lý về cuộc sống.

Nội dung bài học

– Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữa cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi


Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Trong câu đầu, nhà thơ dùng một số’ từ “mỗi” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ nông ngư cho thấy sự chủ động với công việc

– Nhịp điệu (2/2/3) và (4/3) trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung

– Hai câu thơ ấy cho ta thấy

+ cuộc sống nhàn nhã ở nơi thôn dã của tác giả.

+ tâm trạng vui vẻ, hài lòng với đời sống tự cung tự cấp cùng sự ngông ngạo trước thói đời của tác giả


Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Cách hiểu:

+ “nơi vắng vẻ”: là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.

+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ, nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt

– Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”:

+ tác giả tự nhận mình là người “dại” , chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nhường người “khôn” đến “chốn lao xao”

+ tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, tác giả là người từng trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.

– Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống, để khẳng định triết lí sống của tác giả


Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý:

+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ

+ Sinh hoạt đời thường: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác

+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.

– Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đạm bạc mà thanh cao

+ đạm bạc ở những thức ăn cây nhà lá vườn, tự mình làm ra

+ cuộc sống tự nhiên mùa nào thức ấy bình dị mà thanh cao


Câu 4 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Hai câu cuối của bài thơ thể hiện quan niệm sống mang tính triết lí của tác giả: sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời bon chen để giữ cho tâm hồn cốt cách được trong sạch

– Qua đó cho thấy tâm hồn, nhân cách kẻ sĩ thanh cao, trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm


Câu 5 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):

– Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp vời tự nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao.

– Sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống của bản thân mà là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên.

– Cuộc sống như vậy tuy giản dị nhưng cho ông sự thoải mái, thanh sạch trong tâm hồn,


LUYỆN TẬP

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên thật giản dị, đạm bạc nhưng thanh cao, trong sạch.

– Triết lí sống của ông là tư tưởng nhân sinh của đạo nho, ứng xử trong thời loạn: sống chan hòa với thiên nhiên, giữ cho tâm hồn luôn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhân cách của một nhà nho ẩn sĩ: cao cả, trong sạch, uyên thâm

Bài soạn tham khảo số 5

Câu 1 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Cách dùng số từ, danh từ trong câu thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu. Có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?

Lời giải chi tiết:

– Trong câu đầu, nhà thơ dùng một số’ từ “mỗi” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ nông ngư: “Một mai, một cuốc, một cần câu”.

– Nhịp điệu trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung:

Một mai, /một cuốc, / một cần câu (2/2/3)

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào (4/3)

– Hai câu thơ thể hiện quan niệm về cuộc sống nhàn. Đó là sống ung dung trong những việc hàng ngày (lao động, vui chơi); cuộc sống nghèo, thanh đạm, nhàn nhã, và chan hoà cùng thiên nhiên. Ba chữ “một” trong câu thơ để thấy nhu cầu cuộc sống của tác giả chẳng có gì cao sang thật khiêm tốn, bình dị.

Câu 2 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Anh (chị) hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lốn xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu 3 và 4?

Lời giải chi tiết:

– Hai tiếng “ta dại, người khôn” khẳng định phương châm sống của tác giả, pha chút mỉa mai với người khác. Ta dại có nghĩa là ta ngu dại. Đây là cái ngu dại của bậc đại trí. Người xưa có câu “Đại trí như ngu” nghĩa là người có trí tuệ lớn thường không khoe khoang, bề ngoài xem rất vụng về, dại dột. Cho nên khi nói “ta dại” cũng là thể hiện nhà thơ rất kiêu ngạo với với cuộc đòi.

+ Tìm nơi “vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái, hoà nhập với thiên nhiên, lánh xa chốn quan trường, lợi lộc để tìm chốn thanh cao.

+ “Chốn lao xao” là chốn vụ lợi, chạy theo vinh hoa, lợi ích vật chất, giành giật hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho cách sống nhàn nhã là xa lánh không quan tâm tới danh lợi.

– Đây là cách nói của đời thường, chưa phải quan niệm của tác giả. Tác giả mượn lời nói của đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình mặc người đời cho là khôn hay dại. Nho sĩ thời loạn vẫn tìm về nơi yên tĩnh để ở ẩn.

– Đối lập giữa “nơi vắng vẻ với chốn lao xao”, tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật; xa lánh chốn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa của mỗi vế.

Câu 3 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu 5 – 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ này cho thây cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu này?

Lời giải chi tiết:

– Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hoà nhập cùng cỏ cây hoa lá.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ?

Nhịp thơ của hai câu là 1/3/1/2. Nhịp một nhấn mạnh vào các mùa trong năm, ăn, tắm đều thích thú, mùa nào thức ấy. Cách sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên.

– Măng, trúc, giá, hồ sen, ao tất cả đều gần gũi với cuộc sống quê mùa chất phác, sinh hoạt rất đạm bạc mà thanh cao. Cho dù sinh hoạt ấy còn khổ cực, còn thiếu thốn nhưng đó là thú nhàn, là cuộc sống hoà nhịp với tự nhiên của con người. Từ trong cuộc sông nhàn ấy là toả sáng nhân cách.

Cái thú cảnh sông nhàn ẩn dật mang tính triết lí của các Nho sĩ là ở chỗ: trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh cuộc bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hoà mình với thiên nhiên, vũ trụ và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch.

Câu 4 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Với điển tích được vận dụng trong hai câu cuối, anh (chị) cảm nhận như thế nào về nhân cách của Nguyến Bỉnh Khiêm?

Lời giải chi tiết:

– Với điển tích Thuần Vu, ta thấy hai câu cuối của bài thơ thể hiện quan niệm sống mang tính triết lí của tác giả: sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời bon chen để giữ cho tâm hồn cốt cách được trong sạch: với “phú quý” (sự giàu sang) nhà nho chỉ thấy “tựa chiêm bao” (như trong giấc mộng) nghĩa là có mà cũng như không, rất phù phiếm, không có gì quan trọng…

– Đây là triết lí của đạo Nho: sự thịnh hay suy là quy luật của vũ trụ, đất nước, triều đại có lúc hưng, lúc vong. Nhà nho là người “hiểu được ý Trời” nên khi nào ra làm quan, khi nào về ở ẩn, tất thảy đều tuân theo “mệnh Trời” (với tư cách là hình ảnh của quy luật tự nhiên và xã hội). Trong cả hai trường hợp, nhà nho chân chính đều tự coi mình là cao quý, họ phải giữ cho tâm hồn, cốt cách trong sạch, không bị thói đòi làm hoen ố.

=> Hai câu cuối cho thấy tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ là một kẻ sĩ thanh cao và trong sạch.

Câu 5 (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Quan niệm sống nhàn của Nguyển Bỉnh Khiêm là gì?

Lời giải chi tiết:

– Quan niệm nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là tìm đến sự nhà nhã để chẳng phải vất vả, cực nhọc. Nhàn cũng không phải để thỏa thú nhàn tản của bản thân, thây kệ cuộc đời, không bận tâm đến xã hội.

– Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên; nhàn là xa rời phương danh lợi, quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.

– Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn thân mà không nhàn tâm. Nhàn mà vẫn lo âu việc nước, việc đời. Nhà thơ tìm đến “say” nhưng là để tỉnh: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

=> Quan niệm sống nhàn của ông chứa đựng nhiều yếu tố tích cực khác với lối sống “độc thiện kì thân” (tốt cho riêng mình”.

Luyện tập

Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn.

Lời giải chi tiết:

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1549 -1585), chứng kiến cảnh sống ngang trái, bất công trong triều đại phong kiến Việt Nam.

– Ông là người ngay thẳng nên từng dâng sớ chém đầu những tên nịnh thần, vua không nghe nên ông cáo quan về quê với triết lý: Nhàn một ngày là tiên một ngày.

– Tư tưởng, triết lý sống của ông là tư tưởng của đạo nho, ứng xử trong thời loạn, sống chan hòa với thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh cao.

– Nhân cách của Nguyễn Bình Khiêm: thanh cao, trong sạch

Nhàn là chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo quan niệm của ông: sống tự nhiên, không màng danh lợi, đó cũng là triết lý nhân sinh độc đáo của nahf thơ.

– Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn: giản dị, đạm bạc mà thanh cao, trong sạch

+ Vui thú với lao động, nguyên sơ, chất phác

+ Không ganh tị với đời, với người, vẫn ung dung, ngạo nghễ

– Những hình ảnh dân dã, đời thường trong lối sinh hoạt của tác giả:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

+ Cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thanh tao trong cách ăn uống, sinh hoạt

+ Niềm vui, sự tự tại của tác giả thú vị vô cùng

– Hai câu thơ thực, thấy rõ tâm trạng, lối sống “nhàn” của tác giả:

+ Nghệ thuật đối lập: ta >< người, khôn >< dại, vắng vẻ >< lao xao

+ Suy nghĩ của bậc đại trí, tránh xa chốn quan trường thị phi

+ Ý thơ ngược với câu chữ, liên tưởng hóm hỉnh, sâu cay

– Hai câu kết: tâm thế ung dung tự tại, xem thường phú quý

+ Sử dụng điển tích vua Nghiêu Thuấn để thể hiện nhãn quan tỏ tường của nhà thơ. Phú quý chỉ là phù du, hư ảo như giấc chiêm bao.

=> Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, quan niệm sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách, xem thường danh lợi.

Bài soạn tham khảo số 6

Trả lời câu 1 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Cách dùng số từ (tính đếm rành rọt một…một…một) và danh từ (mai, cuốc, cần câu) trong câu 1 cho thấy nhà thơ đã chuẩn bị sẵn sàng, chu đáo mọi dụng cụ lao động cần thiết để vui với thú thanh nhàn của mình.

– Nhịp điệu của hai câu thơ đầu đều là 2/2/3 gợi tâm thế nhẹ nhàng, thong thả của một con người ung dung, tự tại với cuộc sống của mình.

=> Hai câu thơ gợi cuộc sống thuần hậu, đơn sơ giữa thôn quê như một lão nông tri điền cùng tâm trạng vui vẻ, thư thái của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trả lời câu 2 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi bình yên của tâm hồn, đó là nơi thôn quê dân dã, không có sự bon chen, cầu cạnh, lừa lọc. Đối lập với nơi vắng vẻ là chốn lao xao, đó là nơi phồn hoa đô hội đầy rẫy cảnh sát phạt, luồn lọt, nịnh hót để giành lợi về mình.

– Qua cách nói ngược, nói đùa của tác giả, ta hiểu theo nhà thơ, dại là tranh giành, đấu đá, uốn mình để tranh giành danh lợi, khôn là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống thảnh thơi cùng thiên nhiên.

– Nghệ thuật đối cùng cách nói ngược trong hai câu 3,4 giúp biểu đạt quan niệm về dại, khôn một cách thú vị, ấn tượng. Nhà thơ như đứng trên mọi thói đời danh lợi để bày tỏ cái nhìn tỉnh táo của mình.

Trả lời câu 3 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Các sản vật dân dã theo mùa như măng trúc, giá và khung cảnh sinh hoạt bình dị xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao cho thấy cuộc sống thuần hậu mà thanh cao, giản dị, hòa hợp với tự nhiên.

– Hai câu thơ 5,6 sử dụng nghệ thuật đối cùng các hình ảnh bình dị, dân dã đem lại bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt nơi thôn quê với đủ mùi vị, hương sắc.

Trả lời câu 4 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Hai câu thơ cuối sử dụng điển tích về giấc chiêm bao của Thuần Vu Phần.

– Qua việc sử dụng điển tích này, nhà thơ bộc lộ cái nhìn thông tuệ, xem phú quý công danh chỉ là giấc chiêm bao

=> Nhân cách thanh cao, trong sáng, bản lĩnh hơn đời hơn người.

Trả lời câu 5 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1

– Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, để sống hòa hợp với tự nhiên.

– Đây là quan niệm sống tích cực bởi nó hướng con người tới lối sống thiện lành, thông tuệ, vượt lên danh lợi tầm thường.


Luyện tập

Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)

Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm

– Giới thiệu tác phẩm Nhàn

– Dẫn dắt vấn đề

Thân bài:

– Hoàn cảnh sáng tác

1. Hai câu đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.

– Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.

– Điệp từ: một (3 lần)=> tư thế sẵn sàng lao động

=> hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.

– “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi.

=> Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.

– Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị.

2. Hai câu thực: quan niệm về sống “nhàn” của tác giả

– “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.

+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .

+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.

– Tự nhận mình dại, cho người khôn =>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.

+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gán bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch.

=>Bộc lộ thái độ, phương châm sống của mình pha chút mỉa mai người khác.

=>Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.

3. Hai câu luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá=>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.

– Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần.

=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao.

4. Hai câu kết: chân lý về cuộc sống.

– Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.

– Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.

=> Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.

=> Bài học về quan niệm sống, lẽ sống: Con người nên sống thanh thản, yêu thương nhau, trân trọng và gìn giữ vẻ đẹp bình dị, nhân cách thanh cao đồng thời phê phán lối sống xa xỉ, chạy theo vật chất, danh lợi cá nhân.

Kết bài:

– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.

Top 8 Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận lớp 10 hay nhất

Thiền sư Pháp Thuận (915-990) là một nhà sư thuộc thế hệ thứ mười dòng thiền Nam phương do Thiền sư người Thiên Trúc Tì-ni-đa-lưu-chi đến nước ta năm 580 lập ra. Ông từng giữ công việc cố vấn quan trọng dưới triều Tiền Lê. Tác phẩm của ông hiện còn một bài thơ trả lời Lê Đại Hành hỏi về vận nước. Bài thơ “Quốc tộ” (Vận nước) được viết theo thể ngũ ngôn tuyệt cú Đường luật, cân đối với hình ảnh và hệ thống ngôn ngữ hàm súc biểu hiện lòng yêu nước, khát vọng sống hòa bình và sự quan tâm tới vận nước của tác giả. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 1

Bài Vận nước của thiền sư Pháp Thuận (915 – 990) được coi là tác phẩm xuất hiện sớm nhất trong bộ phận văn học viết dân tộc. Bài thơ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về thời điểm xuất hiện sớm nhất, có tên tuổi tác giả rõ ràng, có hoàn cảnh sáng tác cụ thể, có tinh thần dân tộc và thực sự có ý nghĩa đóng vai trò đặt nền móng cho một thời đại văn học.

Trên thực tế, bài thơ vốn không có tên. Nguyên gốc chỉ là một cách trả lời của thiền sư Pháp Thuận khi được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước bằng bốn câu thơ được chép trong sách Thiền uyển tập anh. Sách này xuất hiện vào thời nhà Trần, nửa đầu thế kỉ XIV. Nhan đề bài thơ Quốc tộ (Vận nước) là do học giả thời nay đặt, căn cứ vào hai chữ mở đầu.

Thiền sư Pháp Thuận vốn họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu, chỉ biết là người học rộng, hiểu rõ thế cuộc đương thời, có tài phò vua giúp nước. Trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, Sư có công bàn định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ pháp sư và uỷ thác cho việc soạn thảo văn thư. Có lần vua sai ông cải trang làm người lái đò đón tiếp sứ nhà Tống là Lí Giác. Tài năng đối đáp của ông khiến sứ Lí Giác cảm phục bèn tặng thơ, trong đó có câu : Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu (Ngoài trời còn có trời soi rạng), ngụ ý nói ngoài trời phương Bắc còn có trời nước Nam nữa.

Đặt trong bối cảnh đất nước vừa trải qua nửa thế kỉ giành lại được quyền tự chủ và độc lập dân tộc, bài thơ của sư Pháp Thuận có ý nghĩa như một lời tuyên ngôn về hoà bình, về kế sách dựng nước lâu dài và có màu sắc chính luận thâm thuý. Ngay từ câu thơ mở đầu đã đề cập, khẳng định và nhấn mạnh được vấn đề Vận nước vốn là mối quan tâm của nhà vua và cũng chính là cội nguồn sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc. Trước hết, hai chữ Quốc tộ có ý nghĩa là vận nước, vận mệnh của đất nước ; đồng thời còn có nghĩa chỉ “đế vị”, ngôi vua. Dưới thời phong kiến, chữ “quốc” (nước) thường được hiểu gắn liền với chữ “đế” (vua), vận nước gắn liền với ngôi vua. Đây cũng là mối quan tâm theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đặc biệt ở những giai đoạn củng cố và phát triển nền độc lập hoặc khi có giặc ngoại xâm, quyền tự chủ bị vi phạm.

Mối quan hệ quốc – đế (nước – vua) này đặc biệt thể hiện rõ trong bài thơ thần Nam quốc sơn hà Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở). Điều quan trọng hơn, vận nước ở đây được đặt trong tương quan với thế nước và hiện tình đất nước là hình ảnh tượng trưng “đằng lạc” (dây mây kết nối). Có thể hiểu nghĩa cả câu thơ gắn với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ mới chiến thắng quân xâm lược Tống năm 981 nên nguy cơ chiến tranh vẫn còn, chưa thật sự ổn định, giống như dây mây kết nối, ràng buộc rất phức tạp. Câu thơ đưa đến sự thức tỉnh, cảm nhận về vận nước, nếu khẻo giữ thì được lâu bền, không khéo giữ thì dẫn đến rối ren, nguy biến, về hình thức, câu thơ thể hiện bằng tiểu đối giữa “vận nước” và “dây mây kết nối”, được nối với nhau bằng ỉiên từ “như”, qua đó tạo nên sự đăng đối và mối liên tưởng, liên hệ giữa Vận nước / như / dây mây kết nối; và ngược lại là hình ảnh dây mây kết nối cũng giống như vận nước vậy. Cách thức đặt tiểu đối so sánh như thế giúp câu thơ trở nên có hình ảnh, sinh động, rõ nghĩa, dễ đi vào tâm trí-người đọc.

Nếu như câu thơ mở đầu thiên về khơi gợi, nêu vấn đề về hiện tình đất nước thì câu thơ tiếp theo “Nam thiên lí thái bình” (Trời Nam mở mang nền thái bình) nhằm xác lập yêu cầu, biện pháp, cách thức giữ nước, thiên về sự khẳng định, mở đường chỉ lối. Riêng chữ lí có nghĩa ỉà lo liệu, điều hành, mở mang chính sự để đất nước được yên bình, chúng dân no đủ. Việc xác định “Trời Nam mở mang nền thái bình” là cách nói thẳng thắn, đầy tinh thần trách nhiệm của nhà sư trước hiện trạng đất nước đang như dây mây kết nối, phức tạp. Đó cũng là sự tiếp nối, hô ứng với nội dung đã được nêu ra từ câu thơ trên. Rõ ràng lòi thơ còn có ý nghĩa rộng lớn, vượt thời gian của một thời để thành bài học cho muôn đời, bởi lẽ triều đại nào cũng rất cần thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, cần sự điều hành, mở mang, vun đắp cho quốc gia được thái bình, thịnh trị. Ở đây, lời thơ dịch cũng đã theo sát được cả phần nội dung, ý nghĩa và vần điệu của nguyên tác :

Vận nước như mây quấn,

Trời Nam mỏ thái bình.

Trong hai câu thơ sau, nhà sư nhấn mạnh phương hướng, xác định thể thức và biện pháp trị nước cho chính nhà vua. Câu thơ “Vô vi cư điện các” (ơ cung điện dùng đường lối “vô vi”) mang sắc thái như một lời khuyến cáo, khuyên bảo, cụ thể hoá được cách thức giữ thái bình cho đất nước. Hai chữ ”vô vi” theo học thuyết Đạo giáo có nghĩa là không làm những việc trái tự nhiên. Theo sách Đạo đức kinh của Lão Tử thì “đạo” vốn là vô vi, thuận theo lẽ tự nhiên, con người không nên can thiệp và đi ngược lại quy luật đời sống. Trong phép trị nước và hoạt động xã hội, bậc vua hiền tài vẫn có thể “vô vi nhi trị”, đặt ra chính sách thuận lòng dân, trông coi bốn phương nhẹ nhàng tưởng như không làm gì cả mà đất nước vẫn yên bình, thịnh trị. Nho giáo cũng đề cao vai trò “Đại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá”, thay trời trị nước của nhà vua. Nếu nhà vua có đức sáng, có phẩm chất tốt đẹp thì trăm họ chúng dân sẽ tự nguyện theo về. Khổng Tử đã nói trong thiên Vi chính, sách Luận ngữ : “Vi chính đĩ đức thí như Bắc Thần cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi” (Thi hành chính sự nhờ vào đức cũng giống như sao Bắc Đẩu đứng yên một chỗ mà các vì sao khác đều châu tuần về).

Một mặt khác, vì Pháp Thuận là một vị thiền sư cho nên cần hiểu hai chữ “vô vi” theo cả nghĩa “vô vi pháp” của nhà Phật nữa mới thật đầy đủ. về thực chất thì đây cũng chỉ là một cách hiểu, một cách hình dung và cách diễn đạt khác về kế sách trị nước thuận theo quy luật tự nhiên mà thôi. Bởi lẽ thuật ngữ “vô vi pháp” có nghĩa là “Pháp xa lìa nhân duyên tạo tác”, hướng con người tới chân như, yên bình, tự tại. Vận dụng vào việc trị nước, tinh thần “vô vi” của nhà Phật đề cao việc thuận theo nhân duyên, từ bi bác ái, dẫn tới giải thoát về nơi an lạc, cuộc sống thanh bình, không tạo tác nên những điều sai trái, gây phiền nhiễu cho dân, đi ngược lại xu thế chung.

Như vậy, theo Pháp Thuận thì nhà vua ở nơi cung điện giữ vai trò người điều hành chính sự cần có biện pháp phù hợp với mục đích trị nước an dân, không làm những việc tàn ngược, trái với lẽ thường. Chỉ có cách điều hành chính sự thuận theo tự nhiên như thế thì nhà vua mới hoà thuận với chúng dân, khéo léo xây dựng đất nước yên bình mà nhàn nhã như là không phải làm gì cả. Đó cũng là yêu cầu cao đối với bậc “vua sáng tôi hiền” và hướng tới mục đích cao cả nhất: “Xứ xứ tức đao binh” (Khắp nơi dứt nạn đao binh). Phần dịch thơ hai câu sau này cũng cho thấy sự liền mạch, hô ứng, tiếp nối nhau giữa hành động và mục đích, biện pháp và kết quả :

Vô vi trên điện các,

Chốn chốn dứt đao binh.

Có thể nói bài thơ Vận nước được viết bằng chữ Hán theo thể ngũ ngôn tuyệt cú Đường luật chỉ có hai mươi chữ, hết sức súc tích, ngắn gọn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tình cảm, ý thức trách nhiệm của sư Pháp Thuận trước nhà vua và hiện tình đất nước. Câu kết của bài thơ “Chốn chốn dứt đao binh” thực chất cũng chính là câu trả lời cho vấn đề “vận nước”, khẳng định cơ sở vững bền của vận nước trước sau cũng phải dựa trên nền tảng hoà bình, ổn định, thống nhất đất nước. Bài thơ mang tính chính luận mà vẫn có sức sống lâu bền chính bởi đã đề cập đến vấn đề lớn lao của cả một dân tộc, khơi gợi hứng thú và mối quan tâm cho mọi người dân nước Việt.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 2

Đỗ Pháp Thuận là nhà thơ đi đầu trong phong trào yêu nước và khát vọng giành độc lập của dân tộc tiêu biểu cho những nguồn cảm hứng đó là bài thơ Quốc Tộ.

Vận nước được tác giả viết ngay sau khi tác giả trả lời kế sách bình thiên hạ với Lê Đại thành sau năm 981. Mở đầu tác giả dùng lối nghệ thuật so sánh: “Quốc tộ như đằng lạc”. “Quốc tộ” là việc nước. Nói đến đất nước là bàn về “việc nước” lúc đó chúng ta thường nghĩ đến những kế sách dựng nước bảo vệ đất nước, nó được những vị hiền tài của đất nước đưa ra những trí tuệ sáng tạo, câu thơ tác giả dung để so sánh làm tăng độ cứng rắn và chất thép trong câu thơ. Việc nước có ý nghĩa khái quát như đối nhân xử thế, đối nội, đối ngoại với các nước láng giềng, chăm sóc muôn dân cho “sâu rễ bền gốc”, củng cố quốc phòng… Ý nghĩa của nó chẳng phải chỉ sự vững bền, sự dài lâu, phát triển thịnh vượng. Tâm trạng của tác giả là tiếng nói của mọi người mọi thời. Yêu nước, mong muốn đất nước luôn sống trong cảnh thái bình:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lí thái bình

(Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình)

Tuyên ngôn của hai câu thơ đầu là mục đích, là khát vọng hòa bình của tác giả đối với vận mệnh của đất nước, tiếp theo tác giả đã nói về quá trình đánh tan giặc ngoại xâm để giành được độc lập cho dân tộc muốn cho đất nước được thịnh vượng, phát triển, thái bình:

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

Đây có lẽ là bài ca hòa bình, muốn đánh đổ giặc ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc, muốn cho dân chúng được an bình, có cuộc sống hòa bình đất nước được tự do không có chiến tranh bi thương tàn phá vì vậy vua quan cần có những giải pháp, và hành động thể hiện trách nhiệm của nhà vua với muôn dân:

“Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh”.

Đây là thái độ sống phù hợp với tự nhiên, không trái với qui luật tự nhiên. Trong bài thơ này tác giả đã sử dụng từ “vô vi” nó còn mang ý nghĩa khuyên con người hành động hợp với lẽ tự nhiên. Trách nhiệm của nhà vua là phải tu nhân tích đức, phải có sức cảm hóa dân mới được nhân dân khâm phục, noi gương làm theo. Câu thơ muốn nói đến trách nhiệm cao cả của nhà vua đối với muôn dân. Đức sáng, tâm trong mới quy tụ được sức dân. Vô vi do vậy là không nhũng nhiễu đời sống nhân dân, tự mình gây hấn… để cho nhân dân yên hưởng thái bình. Nhà vua phải hiểu được dân, ứng xử với dân hợp lí với qui luật tự nhiên ấy chẳng phải là kế sách trị nước lâu dài trong quan hệ nhân quả đó.

Điều mà tác giả muốn thể hiện trong bài thơ này đó là khát vọng giành độc lập dân tộc cho nhân dân. Nếu muốn cho đất nước được tự do dân chúng cần đoàn kết với nhau để chống lại giặc ngoại xâm, muốn cho đất nước được tự do hòa bình, nhân dân sống trong cảnh đất nước thái bình, nhưng để đạt được điều đó vua quan phải là tấm gương sáng đi đầu trong phong trào yêu nước và có những hành động đi đầu cho nhân dân học tập.

Bài thơ đã giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về sự tự do của đất nước, cho ta niềm tin vững chắc vào kế trị nước lấy hòa bình, yên dân làm trọng.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 3

Thiền sư Pháp Thuận tên đầy đủ là Đỗ Pháp Thuận (915 – 990), không rõ quê quán, sống vào thời tiền Lê. Ông được xem là một vị cao tăng đã có đóng góp quan trọng vào công cuộc trị bình thời vua Đinh Tiên Hoàng. Ông cũng là một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam thời trung đại. Bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của ông được xếp vào vị trí khai sáng cho nền văn học viết bằng chữ Hán của dân tộc ta. Đây cũng có thể xem là bài thơ có tên tác giả rõ ràng và sớm nhất của văn học Việt Nam.

Vận nước như mây quấn,

Trời nam mở thái bình.

Vô vi trên điện các,

Chốn chốn dứt đao binh.

Bài thơ Vận nước được sáng tác theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với đặc trưng cơ bản là cô đọng, hàm súc, thường dùng hình tượng tự nhiên để biểu đạt tư tưởng. Theo các tài liệu lịch sử, bài thơ này là lời đáp của Thiền sư Pháp Thuận khi vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước đương thời bởi nhà sư vốn rất được nhà vua tin cậy, tôn kính. Tương truyền khi nhà sư đắc pháp, lời của ông thường ứng với lời sấm, rất được người lãnh đạo quốc gia và nhân dân tin phục.

Vận nước vốn là một khái niệm trừu tượng và biện pháp so sánh trong hai câu thơ đầu đã giúp cho hình tượng được cụ thể, sinh động hơn. Ban đầu bài thơ vốn không được tác giả đặt nhan đề mà chỉ bám vào câu hỏi của nhà vua để trả lời.

Vận nước như mây quấn,

Trời Nam mở thái bình.

Mượn hình ảnh dây mây quấn quýt để miêu tả vận nước vừa dễ hình dung vừa thể hiện được lòng tin, niềm tự hào của tác giả về đất nước. Dây mây vốn dẻo dai, bền chắc và khi đã quấn quýt với nhau thì sẽ càng thêm bền chắc. Trong cái thế quấn quýt ấy còn gợi ra sự vươn cao, vươn xa trong một xu thế không ngừng lớn mạnh. Nếu như câu thơ thứ nhất gợi ra chiều cao thì câu thơ thứ hai gợi ra chiều rộng “Trời Nam mở thái bình”. Câu thơ dịch khá sát nghĩa với nguyên tác nhưng âm hưởng thì không thể gợi ra được cái khoáng đạt, mênh mông của câu thơ nguyên tác “Nam thiên lí thái bình”. Đó có thể là thế mạnh của từ Hán Việt, cụm từ “Nam thiên lí” có cái rộng lớn, mênh mông như tầm vóc giang san gấm vóc. Một câu thơ năm chữ vừa trình bày vừa miêu tả vừa hàm ẩn một niềm tự hào sâu thẳm của nhà thơ về đất nước mình. Cả một dải giang san đang trong cảnh thái bình quả thật là bức tranh đẹp, một vẻ đẹp bình yên mà bao thế hệ người Việt hằng đắp xây và gìn giữ. Sau này ba thế kỉ, thượng tướng Trần Quang Khải cũng hùng hồn tuyên bố:

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.

Đó là tư tưởng của một vị danh tướng vừa bước ra khỏi cuộc chiến chống ngoại xâm còn tư tưởng của một Thiền sư như Pháp Thuận thì lại có điểm rất đặc biệt:

Vô vi trên điện các,

Chốn chốn dứt đao binh.

Trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm vô vi, một khái niệm khá xa lạ với con người hiện đại nhưng rất quen thuộc với con người thời trung đại. “Vô vi” trước hết là khái niệm của Đạo giáo với chủ trương sống tự nhiên hài hòa, không quá ràng buộc bởi các quy luật xã hội. Pháp Thuận là một Thiền sư nên chữ vô vi của ông dùng cũng có thể là vô vi pháp của Phật giáo có nghĩa là từ bi, bác ái, vị tha. Còn với tư cách một người tham gia chính sự thời phong kiến thì vô vi của ông lại thiên về vô vi nhi trị của Nho gia có nghĩa là ung dung, tĩnh tại, không làm gì chỉ lấy đức mà trị dân.

Vậy “vô vi” có thể được xem là nhãn tự của bài thơ và dù hiểu theo góc nhìn tôn giáo nào thì cũng toát lên một tinh thần nhân ái trong đạo trị quốc, bình thiên hạ. Hai câu thơ là lời khuyên của nhà sư trước hết dành cho vị vua đang trị vì đất nước sau đó là lời nhắn nhủ cho hậu thế. Đó cũng là chân lí của muôn đời nếu hiểu theo nghĩa tích cực, đúng đắn. Người lãnh đạo quốc gia nếu không tham vọng bá quyền, không hiếu chiến thì nền thái bình sẽ ngự trị trên thế giới đẹp đẽ này. Hình ảnh chốn chốn dứt đao binh quả thật là một viễn cảnh đáng mơ ước cho mọi người, mọi dân tộc.

Bài thơ Vận nước ra đời từ buổi sơ khai của nền văn học viết. Trải bao thăng trầm của lịch sử, bao cuộc binh đao đến hôm nay đất nước thái bình no ấm, bài thơ vẫn còn nguyên giá trị. Một áng thơ ngũ ngôn hàm súc, cô đọng với một tầm tư tưởng cao thâm. Hơn thế, bài thơ đi vào lòng người bởi một tình yêu, niềm tự hào sâu sắc dành cho đất nước, bởi ước mơ và niềm tin vào tương lai của đất nước. Có ý kiến cho rằng nếu Nam quốc sơn hà là một bản tuyên ngôn độc lập thì Quốc tộ là bản tuyên ngôn hòa bình ra đời sớm nhất của dân tộc ta. Thế hệ chúng ta cần tự hào và tiếp nối truyền thống yêu chuộng hòa bình của ông cha mình bên cạnh việc gắng sức dựng xây cho đất nước mãi đẹp, mãi yên bình.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 4

Nguyễn Pháp Thuận là nhà thơ nổi tiếng của thời Hán, tác phẩm ông viết ra đã mang những dấu ấn rất sâu sắc và nó có tầm ảnh hưởng rất lớn lao đến sự nghiệp văn chương và công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ quốc, tiêu biểu trong những tác phẩm đó là bài Quốc Tộ của Nguyễn Pháp Thuận.

Nguyễn Pháp Thuận là một nhà nho yêu nước, tư tưởng của ông đã thấm nhuần trong nền văn học và có sức ảnh hưởng rất lớn lao nó mang đậm giá trị cốt lõi và những giá trị lịch sử sâu sắc bài quốc tộ nói về vận mệnh của một đất nước, đó là một đất nước hào hùng và cũng có những ảnh hưởng tới sự nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước, hình ảnh đất nước đã được tác giả thể hiện rất sâu sắc trong bài viết của mình đó là một hình ảnh đất nước hào hùng và bi tráng vận mệnh của đất nước có ảnh hưởng rất quan trọng nó mang những âm thanh rất đặc sắc và mang đậm hình ảnh về một đất nước thái bình. Vận mệnh đất nước được tác giả miêu tả và so sánh như mây leo, ở đây có sự so sánh như vậy là do hình ảnh vận nước có ảnh hưởng lớn tới dân chúng, nhân dân có đủ cơm ăn áo mặc không thì đều phụ thuộc vào vận mệnh đất nước thịnh hay suy, hàng loạt những hình ảnh đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới vận mệnh đất nước hào hùng này:

Vận nước như dây mây leo quấn quýt,

Ở cõi trời Nam mở ra cảnh thái bình.

Vô vi ở nơi cung điện,

Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.

Vận nước ở đây được hiểu là tình hình đất nước thịnh hay suy, nó được sử dụng như những sợi mấy leo quấn quýt bởi nó có ảnh hưởng lớn tới nhiều yếu tố khác, vận nước ảnh hưởng tới cuộc sống của nhân dân, nhân dân có thịnh hay suy hay không đều là do vận nước quy định, nó có tầm ảnh hưởng lớn đến tình hình của nhân dân, nhân dân ấm no hạnh phúc khi được sống trong cảnh thái bình, nhân dân được tự do hạnh phúc, trong khi ở cõi trời Nam đang mở ra một cảnh thái bình nhân dân có cơm ăn áo mặc có được cuộc sống sung túc và giàu tình yêu thương giữa con người với con người.

Cuộc sống của nhân dân có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của đất nước đó là một hình ảnh đất nước thái bình nhân dân có đủ cơm ăn áo mặc, vận mệnh đất nước chi phối những điều đó và nó có sức ảnh hưởng rất lớn, tác giả đang lo cho vận mệnh của đất nước vì đang có những cảm xúc đặc biệt trong một xã hội thái bình, nhân dân có đầy đủ cơm ăn và có đủ điều kiện để lo cho chính bản thân mình. Vận nước được tác giả nêu lên ở đây là đang trong cảnh thái bình, nhân dân được sống một cuộc sống tự do và hạnh phúc, nhân dân có đủ điều kiện để mưu sinh và nó gắn với đó là tác giả đang mong muốn cho đất nước được thái bình đất nước thịnh vượng và nhân dân có đủ điều kiện để phát triển, mong muốn cho nhân dân có cuộc sống hạnh phúc ấm no, nó ảnh hưởng lớn đến đất nước và cũng chi phối nhiều điều đến vận mệnh của đất nước.

Xuất phát là một nhà nho yêu nước, ông luôn có tinh thần cởi mở và mở rộng được tầm nhìn cũng như suy nghĩ của mình, với tấm lòng yêu nước thương dân của mình ông luôn để lại những ảnh hưởng lớn đến người đọc và những chi tiết trong bài viết mà ông viết ra nó mang một sức ảnh hưởng và tầm nhìn lớn, khi tác giả có tài nhìn xa trông rộng, nhìn ra vận mệnh của một đất nước của mình, một hình ảnh đất nước anh hùng thái bình nhân dân không phải sống trong cảnh lầm than, một cuộc sống hào hoa tráng lệ đã diễn ra khi vận nước mãi được bình yên, nhân dân sẽ có đủ điều kiện để phát triển bản thân mình trong một xã hội công bằng tự do không có sự áp bức bóc lột nữa. Tác giả luôn mong ước và có khát vọng lớn lao về một đất nước anh hùng hào hùng và có sự ảnh hưởng lớn đến nhân dân. Hình ảnh về một đất nước thái bình đã được tác giả thể hiện sâu sắc trong bài thơ nó mang một âm hưởng rất sâu sắc, trong khi nhân dân được sống trong cảnh thái bình thì ở điện vô vi những cung điện, không còn chiến tranh không còn chết chóc và mở ra một thời kì tươi sáng cho nhân dân, ở đâu cũng hết đao binh không còn giết chém nữa. Nhân dân được sống trong cảnh bình an.

Từ vô vi ở đây có ý nghĩa rất sâu sắc nó khuyên ngăn con người trở thành một người tài đức và có sự ảnh hưởng lớn tới nghệ thuật xây dựng hình tượng của tác giả đó là một hình ảnh về một đất nước hào hùng, trong hai cau thơ đâu đó là tình yêu mến đối với đất nước những mong ước của tác giả về một thời kì thịnh vượng, tác giả đang có những cảm xúc lớn lao đối với nó và cũng ảnh hưởng sâu rộng tới hình ảnh về một đất nước anh hùng hòa bình, nhân dân được sống một cuộc sống hết sức anh hùng và hào hùng, chúng đã tạo nên một âm điệu và cả những cảm hứng rất lớn và sâu sắc trong lòng người đọc, khát khao hòa bình, đó là những tình cảm đặc biệt mà tác giả thể hiện trong bài thơ này, đó là niềm tin tươi sáng và mở ra cho mỗi chúng ta những hình tượng thơ đặc sắc.

Hai câu thơ cuối tác giả đã nói về quá trình đấu tranh để đạt được độc lập tự do và nó mang một âm hưởng nhẹ nhàng và có sức lay chuyển mạnh mẽ tới người đọc, và những điều đó đã tạo nên trong con người của tác giả những cảm xúc đặc biệt và mang những điều thật lạ lung, sự đấu tranh đó diễn ra trong một quá trình không phải một ngày hai ngày mà nó là cả một quá trình, quá trình hành động và phát triển trong nhân dân, cho dân chúng, nó mang những âm hưởng của đời sống và có sức gợi tả sâu sắc, trong cung điện hào hoa đó sẽ xuất hiện những hình ảnh anh hùng không còn là chết chóc hay những đổ máu tang thương nữa, tác giả đang hình dung về một đất nước không có chiến tranh nó tạo ra cho mỗi con người niềm tin và những ảnh hưởng đó có tác động lớn đến nhân dân và mang đậm những phong vị của quê hương đất nước, tình yêu mến của tác giả đã và đang diễn ra rất sôi động và nó có ảnh hưởng lớn đến niềm tin và những tác động đó cũng ảnh hưởng lớn đến tâm trạng thời thế cũng như vận mệnh về một đất nước mến thương.

Khắp mọi nơi trên trái đất đã không còn hình ảnh đao binh nữa tất cả bị dập tắt không còn chiến tranh chết chóc bi thương nữa, nó có ảnh hưởng lớn đến những điều lớn lao và có sức gợi tả những điều đáng quý trong tâm hồn của tác giả, mỗi tác giả đều có những ảnh hưởng và sức ảnh hưởng tới cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, sự mong ước và khát vọng lớn lao xuất hiện trong tâm hồn của tác giả vì vậy nó ảnh hưởng lớn tới thơ ca và những lời văn mà ông đang thể hiện trong bài viết của mình, trong cung điện đó có những hình ảnh mang những dấu ấn của những hình ảnh đặc biệt và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Những vần thơ mà ông viết ra đã mang đậm tình yêu đối với quê hương đất nước, mong ước về một đất nước thái bình, một đất nước không còn chiến tranh nhân dân sống trong cảnh thái bình nhân dân không phải chịu nhiều khó khăn cực khổ nữa, điều đó có ảnh hưởng lớn đến hình ảnh về quê hương đất nước và mang những âm điệu sâu sắc.

Khắp nơi trên cung điện này đều đã thể hiện những điều vô cùng lớn lao và trong khoảng không gian rộng lớn này vận mệnh đất nước đã đang tác động đến cuộc sống của nhân dân, nhân dân có điều kiện phát triển mạnh mẽ và ngày càng có những ảnh hưởng lớn tới cộng đồng và những điều đó tạo nên một không gian văn hóa rộng lớn và có sức ảnh hưởng sâu sắc tới mỗi người và tới một đất nước mến thương của dân tộc Việt Nam.

Tình yêu quê hương đất nước của tác giả đã và đang được thể hiện sâu sắc trong bài viết này, nó tạo nên một âm điệu nhẹ nhàng và thể hiện được tấm lòng cao cả và đầy chất nhân văn trong tâm hồn của tác giả, thể hiện những điều nhẹ nhàng và có sức ảnh hưởng lớn lao trong công cuộc đấu tranh và bảo vệ đất nước, một đất nước đã hào nhoáng và in đậm chất thái bình thịnh vượng mang dấu ấn sâu sắc về một hình ảnh đất nước an bình và nhân dân được sống trong cảnh bình an thịnh vượng.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 5

Bài thơ Vận nước của thiền sư Pháp Thuận được coi là tác phẩm xuất hiện sớm nhất trong bộ phận văn học viết dân tộc. Đỗ Pháp Thuận (915-990) là nhà sư, từng giữ chức vụ cố vấn trong triều đình tiền Lê. Thơ ông thường lời ít nhưng ý nhiều, hàm súc, cô đọng. Bài thơ Vận nước là một trong những bài thơ xuất sắc của nhà sư.

Bài thơ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về thời điểm xuất hiện sớm nhất của văn học viết, có tên tuổi tác giả rõ ràng, có hoàn cảnh sáng tác cụ thể, có tinh thần dân tộc và thực sự có ý nghĩa đóng vai trò đặt nền móng cho một thời đại văn học. Trên thực tế, bài thơ vốn không có tên. Nguyên gốc chỉ là một cách trả lời của thiền sư Pháp Thuận khi được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước bằng bốn câu thơ được chép trong sách Thiền uyển tập anh. Sách này xuất hiện vào thời nhà Trần, nửa đầu thế kỉ XIV. Nhan đề bài thơ Quốc tộ (Vận nước) là do học giả thời nay đặt, căn cứ vào hai chữ mở đầu.

Ngay trong phần mở đầu của bài thơ, tác giả Đỗ Pháp Thuận đã có sự so sánh đầy độc đáo:

Quốc tộ như đằng lạc,

(Vận nước như mây quấn,)

Nhà sư so sánh vận nước như mây quấn. So sánh như vậy nhằm diễn tả rằng vận nước phụ thuộc vào nhiều quan hệ ràng buộc. Vận nước không thể tồn tại của một lực lượng có tính độc lập. Vận nước không chỉ dựa vào một yếu tố mà thành. Nó là quan hệ của nhiều yếu tố để giữ được vận nước phát triển dài lâu, thịnh vượng. Tuy pháp sư không nói ra nhưng ta hiểu: một nước, một quốc gia phải có đường lối trị quốc tốt, phù hợp; có quan hệ ngoại giao và các nước láng giềng tốt; có tiềm năng về quân sự, kinh tế; có sự nhất trí cao giữa người cầm đầu với muôn dân. Có như vậy, thì đâts nước mới thái bình:

Nam thiên lý thái bình.

(Ở cõi trời Nam (mở ra) cảnh thái bình.)

Việc xác định “Trời Nam mở mang nền thái bình” là cách nói thẳng thắn, đầy tinh thần trách nhiệm của nhà sư trước hiện trạng đất nước đang như dây mây kết nối, phức tạp. Đó cũng là sự tiếp nối, hô ứng với nội dung đã được nêu ra từ câu thơ trên. Rõ ràng lời thơ còn có ý nghĩa rộng lớn vượt thời gian của một thời để thành bài học cho muôn đời. Bởi lẽ, triều đại nào cũng rất cần thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, cần sự điều hành, mở mang, vun đắp cho quốc gia được thái bình, thịnh trị. Với câu thơ này, tác giả muốn đem hiểu biết của mình về tư tưởng trị nước bày tỏ với nhà vua (người đứng đầu) làm thế nào để giữ được đất nước yên tĩnh, dân được an cư lập nghiệp.

Vậy, biện pháp nào để đem lại thái bình, an yên cho nhân dân. Ở những câu thơ tiếp nhà sư Pháp Thuận đưa ra các biện pháp để giải quyết vấn đề. Đó là:

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.

(Vô vi trên điện các,

Chốn chốn dứt đao binh.)

Vô vi là vô vi pháp của nhà Phật, Nghĩa là từ bi bác ái. Điện các là chỉ triều đình, chỉ nhà vua. Cả câu thơ nên hiểu muốn giữ yên vận nước và để vận nước phát triển thịnh vượng nhà vua phải vô vi, phải làm những gì thuận theo lẽ tự nhiên với lòng người. Theo nghĩa nhà Phật làm cho mọi chúng sinh được yên vui, phải lo cho dân.

Câu thơ cuối bài: “Xứ xứ tức đao binh” thực chất cũng chính là câu trả lời cho vấn đề “vận nước”, khẳng định cơ sở vững bền của vận nước trước sau cũng phải dựa trên nền tảng hòa bình, ổn định, thống nhất đất nước. Đây là câu thơ phản ánh truyền thống yêu nước khát khao hoà bình, nhân đạo là nét đẹp của người Việt Nam. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh rằng Việt Nam là một đất nước yêu hòa bình, ghét chiến tranh. Nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu hết mình vì nền hòa bình độc lập ấy. Mọi nơi đều hòa bình, không có chiến tranh, lúc đó muôn dân mới được thái bình, ấm no hạnh phúc. Điều mà nhà sư nói trong bài thơ chính là chân lí cho muôn đời nay.

Bài thơ Vận nước bộc lộ tư tưởng trị nước, cách nhìn xa trông rộng của tác giả. Và trên hết, bài thơ thể hiện tình yêu nước, yêu dân của nhà sư Pháp Thuận. Bài thơ mang tính chính luận, có sức sống lâu bền chính bởi đã đề cập đến vấn đề lớn lao của dân tộc, khơi gợi hứng thú và mối quan tâm cho mọi người dân Việt Nam.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 6

Theo Thiền uyển tập anh ngữ lục, vua Lê Hoàn thường hỏi thiền sư: “Vận nước ngắn dài thế nào?”. Nhà sư đáp lại bằng bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú để trả lời vua. Nhà sư ở đây không ai khác chính là Thiền sư Đỗ Pháp Thuận ông chính là tác giả của bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú nói trên, đó là bài “Quốc Tộ”( Quốc Tộ). Thiền sư Pháp Thuận (915-990) họ Đỗ, không rõ tên thật và quê quán, là người “học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ thế cuộc đương thời”- Thiền uyển tập anh). Ông là một nhà nho yêu nước, tư tưởng của ông đã thấm nhuần được thể hiện ở trong văn chương, hay là trong những hành xử của ông đối với đất nước, nhất mực trung thành phò vua giúp nước. Nhà sư tham gia đắc lực vào triều chính thời Tiền Lê, có vị trí vai trò rất quan trọng được vua Lê Hoàn rất mực kính trọng và tin cậy.

Vua Lê Hoàn thường hay tâm sự hỏi han ông về các việc triều chính, ông không chỉ là một nhà chính trị mà còn là một nhà thơ xuất sắc. Những tác phẩm của ông viết ra có tầm ảnh hưởng lớn lao đến sự nghiệp văn chương và công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Tiêu biểu là tác phẩm “Quốc Tộ”, bài thơ được làm sau năm 981-982, khi vua Lê Hoàn đích thân đi chinh chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ dân tộc và kết quả toàn thắng. Bài thơ “Quốc Tộ” được coi như là một trong những bài thơ sớm nhất có tên tác giả của Việt Nam. Bài thơ chính là lời tiên tri của Pháp sư khi trả lời câu hỏi về vận nước của nhà vua.

Đây là một trong những tác phẩm mở đầu văn học viết Việt Nam. Bài thơ bắt đầu bằng hai chữ “Quốc Tộ” đã tạo nên sự mở đầu ý nghĩa: ngôi nước được tôn cao ( tộ có nghĩa là ngôi), phúc nước được trường thịnh ( tộ còn có một nghĩa nữa là phúc- lành, may). Bài thơ này là lời đáp của Thiền sư Pháp Thuận khi vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, cô đọng ngắn gọn, vẻn vẹn hai mươi chữ mà ý nghĩa thật sâu xa.

Ở câu thơ đầu tiên,tác giả mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận may của đất nước:

“Vận nước như mấy quấn

(Quốc tộ như đằng lạc)

Nghệ thuật so sánh vận nước như dây mây leo quấn quýt vừa gợi sự bền chặt, vừa gợi sự dài lâu, sự phát triển thịnh vượng. Cả câu ý nói vận may của nước nhà bền chặt. Tiếp theo câu thơ thứ hai là cách nói trực tiếp:

Trời Nam mở thái bình

(Nam thiên lí thái bình)

Hai câu thơ đầu đã phản ảnh một tâm trạng phơi phới niềm vui, niềm tự hào, lạc quan của tác giả đồng thời củng cố niềm tin của nhà vua vào vận nước. Cái hay ở đây đó là hai chữ “thái bình”, vì hai chữ này vừa kết hai câu thơ đầu vừa mở đầu vừa mở vào hai câu cuối. Vận nước xoay quanh hai chữ “thái bình” mà đường lối trị nước cũng hướng tới hai chữ “thái bình”. Tuyên ngôn của hai câu đầu vang lên là mục đích, là khát vọng hòa bình, no ấm, sống trong sự thái bình của tác giả đối với vận mệnh của đất nước. Ở hai câu thơ đầu này thì tác giả sử dụng những hình ảnh sinh động như: “dây mây leo quấn quýt” tượng trưng cho sự bền chặt, chắc chắn của vận mệnh đất nước. Câu thứ hai ở từ “trời Nam”( Nam thiên) nhắc tới “Nam quốc sơn hà” đó là niềm tự hào và khẳng định chủ quyền của nước ta độc lập. Đường lối trị nước, cô đọng lại trong hai chữ “vô vi”:

Vô vi trên điện các

Chốn chốn dứt đao binh

(Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh)

“Vô vi” theo Lão Tử là thuận theo tự nhiên, không làm gì trái với quy luật tự nhiên. Vô vi theo Nho gia là phương sách đức trị: “trị nước bằng đức thì vô vi mà thiên hạ theo về”. Vô vi khi vào Phật có Pháp vô vi đề cao từ bi, bác ái, lấy đức hóa dân, không cần dùng đến các biện pháp bạo lực. Như trong bài thơ này tác giả sử dụng từ “vô vi” còn mang ý nghĩa khuyên con người hãy sống thật sống hợp với lẽ tự nhiên. Trách nhiệm cao cả của một nhà vua đó là là tu nhân tích đức, sống có đạo đức thì mới cảm hóa được lòng dân, nhân dân mới tin tưởng, khâm phục, theo đó làm gương. Nhà vua phải hiểu được lòng dân muốn gì, hành xử với nhân dân ra sao hợp lí với quy luật tự nhiên, đó là kế sách trị nước lâu dài trong quan hệ nhân quả luân hồi.

Vậy ý của Thiền sư đó là muốn khuyên nhà vua hãy dùng phương pháp lấy đức trị quốc, lấy cái đức mà giáo hóa nhân dân. Tiếp theo đó là chữ “cư” trong “cư điện các” nếu hiểu theo nghĩa đơn thuần đó là “ở nơi điện gác”, những ở đây tác giả lại muốn nói đến cách cư xử, điều hành. Còn “điện các” là để chỉ cung điện nơi bàn việc chính sự. Như vậy thì “cư điện các” là muốn nói tới nơi triều chính điều hành chính sự. Có thể nói rằng ở hai câu thơ cuối là kế dựng nước mà Thiền sư Đỗ Pháp Thuận muốn tâu lên nhà vua. Lời thơ như một tấm chân tình mà Thiền sư muốn nói lên ước nguyện của dân ta đó là muốn đất nước thịnh trị, nhân dân được sống trong no ấm thái bình.

Chúng ta đặt bài thơ vào hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ mới thấy được sự tài giỏi, tầm nhìn rộng lớn sâu sắc của Thiền sư và cũng cho chúng ta thấy ý thức trách nhiệm của đại sư đối với đất nước. Sau nhiều năm bảo vệ, giữ gìn, nhưng cũng rất nhiều năm chiến tranh loạn lạc do nội chiến- loạn Mười hai sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn thống nhất đất nước, do chiến tranh xâm lược, sự nổi dậy của những thế lực muốn tạo phản lật đổ vua để cướp vương vị, thì vào năm 981 với cuộc chiến tranh xâm lược của quân Tống, Lê Hoàn đã đánh bại quân Tống thì đất nước ta bước vào thời kì tương đối ổn định.

Tuy vậy nhưng những phần tử vẫn luôn muốn mưu toan nổi dậy, những tập tục hung hãn thời bấy giờ vẫn còn, nhưng nguyện vọng của con người bấy giờ chính là sự “thái bình”, nhân dân vẫn luôn ước vọng sẽ sống trong sự yên ổn, không có sự đổ máu, đất nước sống trong sự đoàn kết không chém giết lẫn nhau. Vậy chúng ta thấy được sự sáng suốt và nhanh nhạy trong suy nghĩ của Thiền sư khuyên nhà vua trị nước bằng đường lối “vô vi”, hãy lấy đức để cảm hóa lòng dân và đó cũng chính là ước nguyện của nhân dân muốn.

Bài thơ được viết ra dưới tình yêu quê hương đất nước, yêu con người của tác giả, vì vậy khi đọc bài thơ mang một âm hưởng nhẹ nhàng, trầm ấm thể hiện tấm lòng cao cả và đầy chất nhân văn trong tâm hồn nhà thơ. Bài thơ góp phần vào công cuộc đấu tranh và bảo vệ đất nước bằng thơ ca, còn cho thấy cái tầm nhìn xa trông rộng về chính sách dựng nước.Không chỉ có thể đây còn là một bài ca, ca ngợi đất nước, một niềm tin về đất nước vững bền thịnh vượng dài lâu.

Đã hơn một nghìn năm trôi qua vậy mà bài thơ “Quốc Tộ” của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận vẫn còn giữ nguyên giá trị đến tận bây giờ và mãi về sau này. Vận nước dưới thời Tiền Lê là thái bình, là tắt đao binh, nhân dân được sống trong no ấm. Vậy ở thời hiện nay chúng ta phải cố gắng hết sức để bảo vệ đất nước, đổi mới đất nước để đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Là thế hệ trẻ chúng ta hãy học và thực hành tốt tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ để áp dụng vào đời sống.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 7

Đỗ Pháp Thuận là một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào yêu nước, khát vọng giành độc lập tiêu biểu của dân tộc. Tiêu biểu trong đó có bài thơ Quốc Tộ được tác giả viết vào năm 981 sau khi trả lời kế sách bình thiên hạ cùng với Lê Đại thành.

Mở đầu bài thơ của mình, tác giả đã dùng lối nghệ thuật so sánh với câu: “Quốc tộ như đằng lạc”, từ “Quốc tộ” ở đây chính là việc nước, lúc đó chúng ta thường nghĩ đến những kế sách để dựng nước, bảo vệ tổ quốc của mình. Những trí tuệ sáng tạo được đưa ra bởi những người được xem là hiền tài của đất nước, tác giả đã sử dụng những câu thơ để so sánh làm tăng thêm độ cứng cũng như chất thép cho câu thơ tác giả muốn nói đến.

Việc nước mang một ý nghĩa khái quát như là cái cách mà chúng ta vẫn thường đối nhân xử thế, hay cái cách mà chúng ta dùng để trong đối nội đối ngoại với các nước láng giềng. Để có thể chăm sóc cho những người dân khi mà đất nước đang còn có một nền tảng về quốc phòng, quân sự còn quá non yếu.

Nó chẳng phải chỉ có ý nghĩa cho sự vững bền, dài lâu hay phát triển một cách thịnh vượng. Tâm trạng của tác giả chính là tiếng nói của từng con người trong từng thời đại khác nhau. Mang một tấm lòng yêu nước với khát khao làm cho đất nước cùng dân chúng luôn được sống trong cảnh ấm no thịnh vượng:

“Quốc lộ như đằng lạc

Nam thiên lí thái bình”

Tạm dịch:

“Vận nước như dây mây leo quấn quýt

Ở cõi trời Nam mở ra cảnh thái bình.”

Đây như là một lời tuyên ngôn mục đích, là khát vọng cho hòa bình của tác giả đối với vận mệnh chung của đất nước, nói đến quá trình đánh cho giặc tan rã và giành độc lập dân tộc đưa đất nước tiến lên một tầm cao mới, đất nước thịnh vượng, ấm no và hạnh phúc:

“Giặc than muôn thủa thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt hình đức cao“

Có lẽ rằng đây chính là bài ca của sự hòa bình, những mong muốn có thể đánh đuổi được bọn giặc ngoại xâm để giành độc lập về cho dân tộc, muốn cho dân chúng có thể chung sống và được hưởng thái bình, có cuộc sống bình yên, đất nước được tự do sẽ không có cảnh tang thương, nước mất nhà tan sự bi thương của những lần tàn phá. Vì vậy, các vua quan cần đưa ra những giải pháp cũng như những hành động cụ thể để thể hiện lên những trách nhiệm và vai trò của vua tôi đối với dân chúng của một đất nước đang trong thời kì loạn lạc.

“Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh”

Qua câu thơ trên tác giả muốn tỏ rõ là một thái độ sống phù hợp với tự nhiên, không làm trái với những quy luật của tự nhiên và xã hội. Từ “vô vi” ở đây có nghĩa là không làm gì cả mà nó có nghĩa sâu hơn đó là thuận theo tự nhiên và không làm trái ý nó.

Ngoài ra nó còn mang ý nghĩa là khuyên răn dạy bảo cho những con người về cách sống hợp với quy luật của tự nhiên, trách nhiệm của người làm vua là phải không ngừng tu nhân tích đức, phải có sức cảm hóa thì mới làm cho dân chúng phục và lấy làm noi theo.

Đức sáng thì tâm mới quy, phải có một tâm hồn thánh thiện và đức tính tốt đẹp cao cả thì dân chúng mới có thể quy phục, mới thu hút và chiếm được lòng dân, nhà vua phải là người luôn hiểu được lòng dân, phải lấy dân làm gốc rễ phát triển đất nước. Phải có một thái độ ứng xử với dân hợp lý, hợp tình, thường xuyên bám sát vào đời sống nhân dân thì mới hiểu được những mong muốn cũng như những khó khăn mà người dân đang từng ngày phải gánh chịu.

Những điều trên phải là chân lý để nhà vua lấy làm tiền đề để cai trị đất nước, có như thế thì đất nước mới phát triển, vua tôi mới có thể đồng lòng cùng chung tay để xây dựng và cai trị đất nước theo một quy luật nhân quả đó. Điều mà tác giả đang muốn nhắc tới trong câu thơ này đó chính là khát vọng giành độc lập, tự do cho nhân dân, điều này sẽ thực sự khả thi khi mà dân chúng đoàn kết và cùng nhau chung sức để đánh đuổi giặc ngoại xâm và vua luôn phải là một tấm gương sáng và đi đầu trong phong trào chống giặc ngoại xâm giải phóng đất nước.

Bài thơ là tấm gương sáng để chúng ta có thể nhận thức được sự đúng đắn cũng như tầm quan trọng của tự do với một đất nước là niềm tin vững chắc lấy kế sách lấy sự hòa bình, bảo toàn lãnh thổ và làm yên lòng dân làm trọng yếu để bảo vệ tổ quốc.

Bài văn phân tích bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) số 8

Năm 980, Lê Đại Hành được tướng sĩ và triều đình tôn lên làm vua, mở đầu triều đại nhà Tiền Lê. Năm 981, Lê Đại Hành đại phá giặc Tống xâm lược, năm sau đánh dẹp Chiêm Thành, mở ra một thời kì mới: thái bình cho đất nước.Bài thơ “Quốc tộ” có lẽ đã được ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử như thế. Đỗ Pháp Thuận không chỉ nói về vận nước mà còn nhắc khẽ nhà vua phải làm gì, làm như thế nào để mở ra cảnh thái bình, thịnh trị cho đất nước.

Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ nhẹ nhàng, trầm ngâm:

“Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lí thái bình.

Vô vi nơi điện các,

Xứ xứ tức đao binh.”

Câu thơ đầu là một so sánh: “Quốc tộ như đằng lạc”. Vận nước như dây leo quấn quýt gợi tả sự vững bền của một đất nước; trăm họ muôn dân một lòng hướng về nhà vua. Vận nước có lúc suy vong, có lúc hưng thịnh. So sánh vận nước như mây quấn, như dây leo, một lời nói cụ thể ngợi ca đất nước bền vững.

Câu thơ nói rõ vận nước bền vững như thế nào? Đó là cảnh tượng: “Nam thiên lí thái bình”, đất nước Nam được thái bình. Giặc ngoại xâm đã bị đánh tan, giặc dã trong nước đã bị đánh dẹp, khắp mọi nơi của trời Nam được yên vui thái bình.

“Vận nước như mây quấn,

Trời Nam mở thái bình”.

Câu thơ thứ hai chữ Hán cất lên, vang lên như một lời ca: “Nam Thiên lí thái bình”. Nam Thiên được nói tới chính là “Nam quốc sơn hà” của nhân dân ta. Vần thơ như nén chặt lại, cảm xúc như lắng xuống sâu sắc, thâm trầm. Hai câu 3, 4 kết cấu theo quan hệ điều kiện – kết quả. Nơi điện các phải vô vi là điều kiện. Khắp mọi nơi tắt hết đao binh là kết quả:

“Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh”.

(Vô vi trên điện gác,

Chốn chốn tắt đao binh).

“Vô vi” nghĩa đen là không làm gì cả. Ở nơi cung điện, nhà vua nhẹ sưu thuế, giám bớt việc binh dịch, quan tâm đến sản xuất, mở mang việc học hành, đem lại no ấm yên vui cho trăm họ… thì đó là “vô vi”. Trái lại, nơi cung điện vua chúa sống xa xỉ, hoang dâm vô độ… thì không phải là “vô vi”. Bậc thánh đế, minh quân trị nước mới biết “vô vi”. Có vô vi nơi điện gác thì khắp chốn cùng quê, nơi thôn cùng ngõ vắng mới không còn tiếng sầu muộn oán hờn, không còn cảnh loạn lạc nữa, việc binh đao được chấm dứt.

Có thể nói hai câu cuối bài thơ là kế dựng nước mà Đỗ Pháp Thuận tâu lên vua Lê Đại Hành. Lời thơ thể hiện ước vọng, nguyện vọng sâu xa của nhân dân ta thời bấy giờ: muốn đất nước thịnh trị, nhân dân được sống yên vui, thái bình. Bài thơ biểu lộ một cái tầm cao về chính trị trong sách lược dựng nước, giãi bày một tấm lòng yêu nước, thương dân, một niềm khao khát hoà bình, một niềm tin về vận nước vững bền, thịnh vượng.

Hơn một nghìn năm trôi qua, bài thơ “Quốc tộ” của Đỗ Pháp Thuận vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa. Vận nước thời Tiền Lê là thái bình, là tắt đao binh. Vận nước ngày nay là đổi mới, dân giàu nước mạnh, hiện đại hoá, công nghiệp hóa đất nước.

Hi vọng bài văn trên giúp bạn hiểu và biết cách phân tích tác phẩm. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info