Top 6 Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi lớp 12 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi lớp 12 hay nhất

Tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi được ra đời vào tháng 9 năm 1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc, sau đó được đăng trên Văn nghệ số 10 trong năm 1949. Về sau, bài viết được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học”. Tiểu luận đã cho thấy quan điểm đúng đắn, mới mẻ, có chiều sâu về thơ của Nguyễn Đình Thi. Bên cạnh đó là những đề xuất táo bạo của tác giả trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ. Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng, sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt. Tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” hay nhất đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 1

Bố cục:

– Phần 1: Từ đầu đến “…xung quanh ngọn lửa” ⇒ Đặc trưng cơ bản nhất của thơ.

– Phần 2: Còn lại ⇒ Những đặc điểm khác của thơ.

Câu 1 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Tác giả lí giải những đặc trưng cơ bản của thơ khi biểu hiện tâm hồn con người

– Quan hệ giữa thơ và tâm hồn con người: thơ – con người tác động qua lại

+ Ta nói trời hôm nay… muốn làm thơ

+ Lời thơ “làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc

+ Thơ là tiếng nói đầu tiên, đụng chạm với cuộc sống

→ Tác giả nhấn mạnh mối quan hệ giữa thơ với tâm hồn con người, có sự tác động qua lại, đặc điểm của thơ khẳng định diễn tả tâm hồn con người. Thơ là phương thức biểu hiện tình cảm của con người

Câu 2 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Những yếu tố đặc trưng của thơ:

– Hình ảnh: hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn trong một cảnh huống

– Tư tưởng “dính liền vớ cuộc sống, ở trong cuộc sống”, “nằm trong cảm xúc, tình tự”

– Cảm xúc trong thơ: “phần xương thịt hơn cả đời sống tâm hồn”. “dính liền với suy nghĩ”

– Cái thực trong thơ “hình ảnh sống, có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”

Câu 3 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1)

– Ngôn ngữ thơ khác với ngôn ngữ các thể loại văn học khác ở chỗ: có nhịp điệu, có nhạc tính, ý ở ngoài lời

+ Ngôn ngữ khác (truyện kí: ngôn ngữ kể chuyện, kịch- ngôn ngữ đối thoại)

+ Ngôn ngữ thơ: cảm xúc, nhịp điệu, ngắt nghỉ, bằng trắc, trầm bổng, hình ảnh…

– Nguyễn Đình Thi trực tiếp bàu tỏ quan điểm về thơ tự do và thơ vần:

+ “Luật lệ thơ từ âm điệu đến vần đều là vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ”

+ “Tôi nghĩ rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần”

+ Định hướng cách hiểu thơ:

+ Với bất cứ hình thức nào, thơ phải diễn đạt được tâm hồn của con người hiện đại

Câu 4 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Nguyễn Đình Thi thể hiện tinh tế, sâu sắc về thơ:

+ Luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sắc sảo

+ Linh hoạt trong các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ

+ Từ ngữ đa dạng, ngôn ngữ linh hoạt

+ Bài viết gợi hình, chân thực và có quan điểm độc đáo.

Câu 5 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có giá trị tới ngày nay vì:

– Con người luôn có nhu cầu thể hiện tâm tư, tình cảm, tư tưởng qua thơ ca

– Dù một số quan niệm đổi mới về thi pháp thì luận điểm cơ bản vẫn giữ nguyên giá trị

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi có ý nghĩa với việc định hướng sáng tạo, cảm thụ thơ ca

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 2

Tìm hiểu chung tác phẩm

Tác giả:
Nguyễn Đình Thi: ( 1924 – 2003)
Nơi sinh: Luông Pha bang ( Lào)
Quê quán: Làng Trạch – Hà Nội.
Sự nghiệp cách mạng:
Thủa nhỏ Nguyễn Đình Thi sống ở Lào
Năm 1931 ông về nước
Năm 1941 ông tham gia hoạt động cách mạng
Sự nghiệp văn học: SGK

Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Tháng 9 năm 1949 HỘi nghị tranh luận văn nghệ đã được tổ chức ở Việt Bắc.
Sự thành công của tác phẩm: Bài viết đã được đưa vào tập: Mấy vấn đề văn học.

Câu 1: Nguyễn Đình Thi lý giải như thế nào về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn của con người?

Trả lời:

Lý giải đặc trưng cơ bản nhất của biểu hiện tâm hồn con người:

Tâm hồn ta có sự rung động thơ khi nó ra khỏi trạng thái bình thường và theo sự thức tỉnh tự soi vào nó để nhận thấy đang ở một độ rung chuyển khác thường do một sự va chạm nào với Thế giới bên ngoài, với thế giới thiên nhiên, với những người khác,mà hình thành nên cảm xúc.


Câu 2
: Những yếu tố đặc trưng khác của thơ: Hình ảnh, tư tưởng, càm xúc, cái thực…đã được Nguyễn Đình Thi quan niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời:

Hình ảnh:
Thơ là tiếng nói đầu tiên của tâm hồn khi đụng chạm vào cuộc sống, nó gợi nên cảm xúc của con người
Là hình ảnh thơ thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một hoàn cảnh nào đó
Thực trong thơ là hình ảnh sống, có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc.
Tư tưởng:
Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bất kì cảm xúc nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ
Tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống, nhưng nằm ngay trong cảm xúc và tự tình.
Hiểu thơ là vấn đề của cả tâm hồn
Cảm xúc trong thơ:
Cảm xúc là phần quan trọng trong thơ ca.
Bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho con người.
Cái thực trong thơ: “là những hình ảnh sống có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Đó là những hình ảnh chưa có vết nhoà của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”.

Câu 3: Theo Nguyễn Đình Thi, ngôn ngữ thơ có gì đặc biệt so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác? Nguyễn Đình Thi khái niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời:

Sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ và các thể loại khác: Chữ và tiếng trong thơ phải có giá trị riêng, có nghĩa riêng, được sử dụng để mở rộng và đem đến những hình ảnh, cảm xúc bất ngờ, làm người đọc rung động. Chất nhạc trong thơ không giới hạn gợi lên những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp.
Quan niệm Nguyễn Đình Thi về thơ tự do, thơ không vần: tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ, sau đó sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn thành công. Ông cho rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần, không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.

Câu 4: Nêu rõ nét tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận, đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, …để làm sáng tỏ từng vấn đề đặt ra.

Trả lời:

Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ sắc sảo, sẫn chứng sinh động, từ ngữ chọn lọc, gần gũi, dễ hiểu, hình ảnh chân thực, miêu tả cụ thể, giúp người đọc có thể lĩnh hội vấn đề một cách dễ dàng.

Bài nghị luận đã nêu được quan điểm thơ đúng đắn, có giá trị đối với mọi thời đại, thuyết phục được người đọc, người nghe.


Câu 5
: Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị không? Vì sao?

Trả lời:

Quan niệm của tác giả về thơ không chỉ có tác dụng vào thời điểm đó mà ngày nay vẫn còn giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống và thực tiễn sáng tạo thơ ca.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 3

Bài 1 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nguyễn Đình Thi lí giải như thế nào về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người?

Trả lời

– Để làm nổi bật đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người, Nguyễn Đình Thi đã phân tích, lí giải về mối quan hệ giữa thơ với tâm hồn của con người bằng cách đưa ra một loạt dẫn chứng:

+ “Ta nói trời hôm nay nên thơ, nhưng chính ra là lòng chúng ta mong một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ, hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn như chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ”.

+ “Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt”.

+ Những câu, những lời thơ diễn lên “làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc”.

+ “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống”.

➜ Tác giả muốn nhấn mạnh giữa thơ với tâm hồn con người có sự tác động qua lại lẫn nhau.

– Tiếp theo tác giả đưa ra đặc điểm của thơ để khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người.

+ “Thơ là một thứ nhạc”, “Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý” nhưng nói chung những cái đó là “của tâm hồn”.

+ Nhịp điệu thơ được hình thành từ những cảm xúc, hình ảnh và trong khoảng im lặng “cũng là nơi lưu trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.

– Cuối cùng tác giả kết luận “đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm”. Điều đó có nghĩa thơ là phương tiện biểu hiện của tâm hồn con người.

Bài 2 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Những yếu tố đặc trưng khác của thơ (hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, cái thực…) đã được Nguyễn Đình Thi đề cập ra sao?

Trả lời

Bên cạnh việc thể hiện tâm hồn con người, nhiều yếu tố đặc trưng cơ bản khác cũng được Nguyễn Đình Thi đề cập đến:

– Hình ảnh thơ: “là hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”, ví như “những tia lửa loé lên khi búa đập vào sắt trên đe” được thu lượm kết nên một bó sáng.

– Tư tưởng trong thơ: “những tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư tưởng của nhà thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự”.

– Cảm xúc trong thơ: “Cảm xúc là phần xương thịt hơn cả đời sống tâm hồn”, “bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ”.

– Cái thực trong thơ: “là những hình ảnh sống có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Đó là những hình ảnh chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”.

Bài 3 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Ngôn ngữ thơ có gì đặc biệt so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác. Nguyễn Đình Thi quan niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời

* Ngôn ngữ thơ so với ngôn ngữ của các thể loại văn học khác có sự khác biệt ở chỗ: nó có nhịp điệu, có tính nhạc và ý ở ngoài lời “thi tại ngôn ngoại”.

– Ngôn ngữ khác: trong truyện, kí – ngôn ngữ kể chuyện; trong tác phẩm kịch – ngôn ngữ đối thoại.

– Ngôn ngữ thơ: giàu cảm xúc, nhịp điệu, nhạc điệu. Nhịp điệu là cách ngắt câu ngắt đoạn, tiếng bằng tiếng trắc, thanh bổng thanh trầm, nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, tâm hồn.

* Nguyễn Đình Thi trực tiếp bày tỏ quan niệm về thơ tự do và thơ không vần.

– Trước tiên, các tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ, sau đó sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn thành công. “Theo tôi những luật lệ của thơ từ âm điệu đến vần đều là những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Không phải hễ thiếu những vũ khí ấy trên trận đánh nhất định thua. Thiếu vũ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”.

– Đưa ra quan niệm: “Tôi nghĩ rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần”

– Định hướng cách hiểu về thơ:

“Tôi nghĩ rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.” Đây chính là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi.

* Nhận xét:

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi đúng đắn, tiến bộ, sát thực với tình hình thơ ca thời đại.

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Bài 4 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nêu rõ tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh… để làm sáng tỏ từng vấn đề đặt ra.

Trả lời

Nét tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ được thể hiện ở nghệ thuật lập luận, đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích bác bỏ, cách suy nghĩ logic.

– Cách lấy dẫn chứng: độc đáo, tinh tế, sát thực có tác dụng soi sáng cho luận điểm.

– Từ ngữ giàu có, ngôn ngữ chọn lọc được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo.

– Cách viết có hình ảnh, chân thực, độc đáo gợi nhiều liên tưởng.

Bài 5 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị không? Vì sao?

Trả lời

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi dẫu đã cách đây hơn nửa thế kỉ, song vẫn còn nguyên giá trị, vì:

– Sáng tác thơ ca và thưởng thức thơ là những hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ, bất kì thời đại nào con người cũng có nhu cầu thể hiện tư tưởng.

– Dẫu quan niệm về thơ có đổi mới về một số mặt thi pháp nhưng luận điểm cơ bản trên đây vẫn còn giữ nguyên giá trị.

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng sáng tạo và cảm thụ thơ ca.


Tổng kết

Tháng 9-1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý: đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Cùng với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số vấn đề thuộc quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên Văn nghệ số 10 – 1949. Bài tiểu luận này của Nguyễn Đình Thi nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ:

– Trước hết, tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng tri thức”.

– Sau đó, tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

+ Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà lóe sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ.

+ Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn nhà thơ.

+ Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong đó tình cảm, cảm xúc của thi nhân.

+ Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc.

– Tác giả quan niệm thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích.

– Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “Không có vần đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ.” Điều này là rột sự “phá cách” đối với thợ truyền thông.

Bài nghị luận về quan niệm thơ của Nguyễn Đình Thi được viết ra bằng cả tấm lòng của thi nhân với những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa cách tân, lại được viết bằng một lập luận trong sáng, chặt chẽ và một cách viết tài hoa. Hơn nửa thế kỷ đã qua, những quan niệm về thơ của ông vẫn có giá trị đối với ngày nay.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 4

I. Tác giả

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội, sinh ra ở Luông Pha Băng. Năm 1931 ông cùng gia đình về nước, hoạt động cách mạng từ năm 1941. Sau 1945. Ông là tổng thư kí Hội văn hóa cứu quốc, ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1958 – 1989: làm tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995 làm chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam.

Ông là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, phê bình văn học, sáng tác nhạc, soạn kịch, biên khảo triết học. Ở lĩnh vực nào ông cũng có đóng góp đáng ghi nhận.


2. Tác phẩm

Tháng 9 – 1949, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Hội nghị đã tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài “Mấy ý nghĩ về thơ” đăng trên Văn nghệ số 10 – 1949

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Nguyễn Đình Thi lí giải đặc trưng cơ bản của thơ là biểu hiện tâm hồn con người

Quan hệ giữa thơ và tâm hồn con người: thơ – con người có tác động qua lại với nhau

Ta nói trời hôm nay….muốn làm thơ
Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt
Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống
Khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người:

Thơ là một thứ nhạc….tình ý
Nhịp điệu thơ…sự xúc động
Kết luận: đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm


Câu 2 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Bên cạnh việc thể hiện tâm hôn con người, thơ còn mang nhiều yếu tố đặc trưng cơ bản khác cũng được Nguyễn Đình Thi đề cập đến:

Hình ảnh thơ “là hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy” ví như “những tia lửa tóe lên khi búa đập vào sắt trên đe” được thu lượm kết nên một bó sáng
Tư tưởng trong thơ “những tư tưởng trong thơ là tư tướng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống, Tư tưởng của nhà thơ năm ngày trong cảm xúc, tình tự”
Cảm xúc trong thơ “cảm xúc là phần xương thịt hơn cả của đời sống tâm hồn” “bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với suy nghĩ”.
Cái thực trong thơ “là những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. đó là những hình ảnh chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”


Câu 3 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Sự khác biệt:

Ngôn ngữ khác: trong truyện, kí – ngôn ngữ kể chuyện; trong tác phẩm kịch – ngôn ngữ đối thoại
Ngô ngữ thơ: giàu cảm xúc, nhịp điệu, nhạc điệu. Nhịp điệu là cách ngắt câu ngắt đoạn, tiếng bằng tiếng trắc, thanh bổng thanh trầm, nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, tâm hồn
Qua niệm về thơ tự do và thơ không vần: không có thơ tự do, thơ có vần hay thơ không vần, mà chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…

=> quan niệm đúng đắn và tiến bộ: ở thời đại mới, tình cảm nội dung mới, đòi hỏi một hình thức mới, điều quan trọng không phải thể loại thơ mà là thơ diễn tả đúng tâm hồn con người.

Câu 4 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Nghệ thuật lập luận của Nguyễn Đình Thi:

Nguyễn Đình Thi trình bày những quan niệm tinh tế,lập luận chặt chẽ, sắc sảo
Sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận só sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ, cách suy luận logic
Từ ngữ phong phú, ngôn ngữ chọn lọc, được vận dụng linh hoạt, sáng tạo
Cách viết có hình ảnh, chân thực, độc đáo.


Câu 5 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi dẫu đã cách đây hơn nửa thế kur, song vẫn còn nguyên giá trị, vì:

Sáng tác thơ ca và thưởng thức thơ là những hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ, bất kì thời đại nào con người cũng có nhu cầu thể hiện tư tưởng
Dẫu quan niệm về thơ có đổi mới về một số mặt thi pháp nhưng những luận điểm cơ bản trên đây vẫn còn nguyên giá trị
Qua niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng sáng tạo và cảm thụ thơ ca.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 5

I. TÁC GIẢ:

1. Tiểu sử

– Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003), nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch. Ông học tiểu học và trung học ở Hà Nội và Hải Phòng. Học Đại học Luật Hà Nội.

– Năm 1941, ông tham gia phong trào Việt Minh, trong tổ chức cứu quốc Hà Nội. Từ năm 1942, Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết sách báo. Hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên yêu nước chống phát xít và trong Hội Văn hoá Cứu quốc.

– Năm 1945, ông là đại biểu Hội Văn hoá Cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, được cử vào ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam.

– Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông làm Tổng thư ký Hội Văn hoá Cứu quốc, đại biểu Quốc hội, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (1958 –1988).

– Năm 1995, Nguyễn Đình Thi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I– 1996.

2. Sự nghiệp văn học

– Nguyễn Đình Thi là một con người đa tài, viết văn, làm thơ, làm báo, sáng tác nhạc,… lĩnh vực nào tác phẩm của ông cũng được công chúng mến mộ, ưa thích. Ông còn là một người lãnh đạo văn nghệ giỏi được giới văn học nghệ thuật yêu mến.

– Về thơ, Nguyễn Đình Thi đã có những tập: Người chiến sĩ (1956), Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983), Trong cát bụi, Sóng reo (2001). Thơ ông cô đọng hàm súc, gợi mở hơn tả, giàu triết lí trầm tư, mang phong cách và bút pháp mới.

II. TÁC PHẨM MẤY Ý NGHĨ VỀ THƠ

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Tháng 9/1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý. Đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc

kháng chiến chống Pháp. Cùng với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số vấn đề thuộc quan niệm về thơ.

– Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên Văn nghệ số 10-1949. Bài tiểu luận nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

– Phải đặt bài tham luận này vào thời điểm ra đời của nó mới thấy được sự sáng tạo trong lĩnh vực lí luận – phê bình, tư tưởng định hướng văn học của Nguyễn Đình Thi nói riêng và của giới nghiên cứu văn học ở ta nói chung.

– Chắc chắn tại thời điểm ấy, khả năng giao lưu phê bình văn học của ta với nước ngoài là rất hạn chế. Nhưng nhiều vấn đề được Nguyễn Đình Thi đưa ra trong bản tham luận là hết sức độc đáo, sâu sắc và luôn đúng trong bất kì thời điểm nào khi một ai đó muốn bàn về thơ.

2. Thể văn nghị luận văn học

– Nghị luận văn học là thể văn thuộc phê bình – lí luận. Người viết dùng lí lẽ để giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận,… một vấn đề nào đó của văn chương nhằm làm sáng tỏ điều mình muốn nói.

– Cũng giống như văn hư cấu (tự sự, thơ và kịch), văn nghị luận cũng sử dụng đầy đủ mọi sắc thái cảm hứng như trữ tình, mỉa mai, ca ngợi, đả kích,… Nhưng nghị luận văn học thì không hư cấu. Đối tượng nghiên cứu của nghị luận văn học là tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn chương…

– Văn nghị luận hấp dẫn người đọc bằng lối tư duy lô gic, đầy trí tuệ; lối văn thiên về hùng biện, có lúc dõng dạc, có lúc thiết tha để lay động lòng người.

– Văn nghị luận bao giờ cũng đòi hỏi người viết đưa ra ý kiến chủ quan của riêng mình. Vì vậy, khi viết, tác giả bao giờ cũng phải vận dụng phạm vi tri thức sách vở (lẫn tri thức cuộc sống tự nhiên, xã hội) rất lớn để làm dẫn chứng, nêu luận điểm, thường xưng tôi để đối thoại, trao đổi nhằm rút ra kết luận thoả đáng, có sức thuyết phục người đọc.

3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật

a) – Nguyễn Đình Thi đã phân tích sâu sắc đặc trưng cơ bản nhất về thơ là biểu hiện tâm hồn của con người. Ông đưa ra những câu hỏi không mang nghĩa nghi vấn mà mang nghĩa khẳng định: “Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?”.

– Khởi đầu một bài thơ, người viết phải có “rung động thơ”, sau đó mới làm thơ. Rung động thơ có được khi tâm hồn ra khỏi trạng thái bình thường, do có sự cố với trạng thái bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác mà tâm hồn con người thức tỉnh, bật lên những tình ý mới mẻ, còn làm thơ là thể hiện những rung động của tâm hồn.

b) Tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

– Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà loé sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ.

– Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn nhà thơ.

– Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong tình cảm, cảm xúc của thi nhân.

– Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc.

– Giải thích nguyên nhân thành công của sáng tạo thơ ca, Nguyễn Đình Thi ghi nhận, có lẽ không ngoài hai yếu tố: tài năng thiên bẩm của một người trực tiếp sáng tạo thơ bàn về thơ và tri thức về thơ được tích luỹ qua quá trình học tập, nghiên cứu bền bỉ.

c) Tác giả quan niệm thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích.

d) Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không cần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Điều này là một sự “phá cách” đối với thơ truyền thống.

e) – Bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, cách đưa dẫn chứng, cách sử dụng hình ảnh, từ ngữ tài tình, Nguyễn Đình Thi đã đưa ra những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về thơ và đặc trưng của thơ ca. Ông cho rằng “một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới”. Đa số các thời đại mới của nghệ thuật đều sáng tạo ra hình thức mới của riêng chúng .

– Những quan niệm của tác giả đến nay vẫn còn giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống và thực tiễn sáng tạo của thi ca.

Trả lời câu 1 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Nguyễn Đình Thi lí giải về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người:
– Đặt vấn đề bằng một câu hỏi tu từ mang tính khẳng định: Đầu mối của thơ… chăng?
– Lí giải bằng lộ trình làm thơ: từ rung động thơ (tâm hồn ra khỏi tình trạng bình thường, tự soi vào nó, ở trong rung động khác thường) xuất hiện do va chạm với thế giới bên ngoài.
=> Làm thơ, dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời để thể hiện tâm trạng khác thường.
=> Truyền cảm hứng cho người đọc, nhận được sự cộng hưởng, cộng cảm.

Trả lời câu 2 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Tác giả giới thiệu về các yếu tố đặc trưng khác của thơ như sau:
– Hình ảnh: phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống/một trạng thái nào đó, đụng chạm với hành động hàng ngày… kết nên một bó sáng, đó là hình ảnh thơ.
– Tư tưởng: nằm ngay trong cảm xúc, gắn liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống.
– Cảm xúc: là yếu tố quan trọng nhất để có thơ, cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn.
– Cái thực: là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc, là sự thành thực của ý nghĩ, tình cảm đang diễn ra trong lòng.

Trả lời câu 3 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Bàn về ngôn ngữ thơ:
– Theo tác giả, so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác thì ngôn ngữ thơ đặc biệt vì:
+ Ngoài giá trị ý niệm, biểu đạt ý nghĩa khách quan thì ngôn ngữ thơ có sức biểu cảm, sức gợi kì diệu, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ.
+ Điều đó có trong nhịp điệu của thơ, nhịp điệu đến từ lời thơ và đến từ hình ảnh, tình ý, cảm xúc.
– Về thơ tự do, thơ không vần, tác giả cho rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần mà chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ.
=> Điều quan trọng là thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại, diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay.

Trả lời câu 4 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Nghệ thuật đặc sắc của bài tiểu luận:
– Văn phong gần gũi, thân tình, chia sẻ tâm huyết, quan niệm và tình cảm chân thành với những người đồng nghiệp về thơ ca.
– Nghệ thuật lập luận hấp dẫn: hệ thống luận điểm chặt chẽ tiến bộ, trải nghiệm sâu sắc, tư duy sắc bén, hình ảnh sống động, từ ngữ sắc sảo, dẫn chứng giàu sức lay động.
– Kết hợp nhuần nhuyễn chính luận và trữ tình, nhiều câu nhiều đoạn mềm mại, giàu chất thơ.

Trả lời câu 5 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì:
– Sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng.
– Sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt (tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, sự lí giải hấp dẫn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống).

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 6

I. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh ra đời

Tháng 9 – 1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý, đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Cung với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một vấn đề thuộc quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên báo Văn nghệ số 10 – 1949. Bài tiểu luận này của Nguyễn Đình Thi nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

2. Nội dung tác phẩm

Tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết rằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng tri thức”.

Đồng thời, tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà lóe sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ..
Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn thơ.
Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong đó tình cảm, cảm xúc của thi nhân.
Đường đi của thơ là con đương đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến trái tim người đọc.
Tác giả quan niệm thơ là tổng thể, kết tinh. Văn xuôi cho phép khuông mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn đòi hỏi sự toàn bích.

Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “Không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Điều này là một sự “phá cách” đối với thơ truyền thống.

II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):

Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người:
+ Quan hệ giữa thơ với tâm hồn con người
• Ta nói trời hôm nay nên thơ nhưng chính ra là lòng chúng ta mong một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ.
• Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt.
• Những câu, những lời thơ diễn lên “Làm sống ngay lên một tình cảm, một nổi niềm trong lòng người đọc”.
• Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống.
Thơ với con người có sự tác động qua lại lẫn nhau.
+ Khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người.
• Thơ là một thứ nhạc, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý.
• Nhịp điệu thơ được hình thành từ những cảm xúc, hình ảnh và trong khoảng im lặng “cũng là noei lưu trú ngụ kín đáo của sự xúc động”
• Kết luận: đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm. Điều đó có nghĩa thơ là biểu hiện của tâm hồn con người

Câu 2 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Hình ảnh trong thơ:
+ Phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống nào đó.
+ Hình ảnh trong thơ bao giờ cũng mới mẻ, tươi nguyên.
– Tư tưởng trong thơ:
+ đó phải là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống.
+ Tư tưởng trong thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự.
– Cảm xúc: là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn của thơ.

Câu 3 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– So sánh ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi: Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, không quanh co… Trong khi văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước đưa ta đi lần lượt từ điểm này qua điểm khác thì thơ chỉ chọn một điểm chính bấm vào những điểm ấy thì toàn thể đóng lên theo
– Quan niệm về thơ tự do và thơ không vần.
+ Trước tiên tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ.
+ Sau đó bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn cứ thành công: Theo tôi những luật lệ của thơ từ âm điệu đến vần đều là những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nhưng không phải hễ thiếu những vũ khí ấy là trận đánh nhất định thua. Thiếu võ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng
+ Từ đó đưa ra quan niệm : …không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần
+ Định hướng cách hiểu về thơ: Tôi cho rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.
+ Đây chính là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong quan niệm về thơ của NĐT.

Câu 4 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ, cách suy luận logic.
– Từ ngữ giàu có, ngôn ngữ chọn lọc, được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo.
– Cách viết có hình ảnh, hình ảnh chân thực, độc đáo, gợi nhiều liên tưởng.

Câu 5 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn nguyên giá trị.
– Bởi:
+ Ông chỉ ra rằng dù hình thức thơ có thay đổi như thế nào thì thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.
+ Nghệ thuật có kỉ luật sắt của nó nhưng không phải là những thứ trói buộc, lề lối định sẵn trong thơ.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ lớp 11 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ lớp 11 hay nhất

Bài thơ “Chiều xuân” của tác giả Anh Thơ trích trong tập “Bức tranh quê” in năm 1941 là bức họa xinh đẹp về cảnh mùa xuân xứ Bắc đồng thời là tình yêu quê hương đất nước nồng nàn. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết sau.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 1

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh ra tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

– Anh Thơ có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp sống nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bà là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại.

– Tác phẩm chính: Bức tranh quê ( thơ – 1941), Kể chuyện Vũ Lăng ( truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986), Tuyển tập Anh Thơ (1986).

2. Tác phẩm

Bài Chiều xuân được rút ra từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

Bố cục: 3 phần:

– Phần 1 (khổ 1): Chiều xuân trên bến vắng

– Phần 2 (khổ 2): Chiều xuân trên đường đê

– Phần 3 (khổ 3): Chiều xuân trong đồng lúa

II. Hướng dẫn đọc thêm

Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Bức tranh quê chiều xuân hiện lên:

– Khổ 1: Bức tranh quê vào mùa xuân tĩnh lặng, êm đềm, thơ mộng, buồn phảng phất dịu dàng trong cơn mưa xuân dịu êm với các hình cảnh: con đò biếng lười, dòng sông trôi, quán tranh im lìm, hoa xoan tím rụng.

– Khổ 2: Bức tranh sinh động nhẹ nhàng: đàn trâu gặm cỏ, những cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có sự tươi mát, thơ mộng, đầy ảo giác qua sự phát hiện mới mẻ và đầy kì thú của nhà thơ.

– Khổ 3: cảnh êm đềm, nhẹ nhàng. Đặc biệt đoạn thơ có sự xuất hiện của con người làm cho không gian hoạt động hơn, cảnh bớt vắng vẻ. Bài thơ có được cái ấm áp của cảnh đời thường:

+ Cánh đồng lúa xanh.

+ Lũ cò con chốc chốc bay.

+ Giật mình cô gái yếm thắm

→ Thủ pháp dùng cái động để nói cái tĩnh.

=> Ba khổ thơ khắc họa cảnh chiều xuân nơi đồng quê xứ Bắc đẹp nên thơ, thi vị, phảng phất cái buồn dìu dịu.

Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Không khí đồng quê yên lặng, nhịp sống vô cùng bình yên:

– Từ ngữ giàu giá trị tạo hình gợi cảm: êm, biếng lười, vắng lặng, vu vơ, rập rờn, thong thả, chốc chốc.

– Danh từ chỉ sự vật: mưa, đò, quán, hoa xoan, trâu bò, cò con.

Câu 3 (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

– Những từ láy được sử dụng trong bài thơ: êm êm, im lìm, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

– Tác dụng:

+ Các từ láy này đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ (trừ từ láy tơi bời).

+ Diễn tả trạng thái thụ động hoặc trạng thái đều đều của chủ thể.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 2

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (khổ 1): cảnh ngày xuân trên bến vắng

– Phần 2 ( khổ 2): ngày xuân trên con đường đê

– Phần 3 (khổ 3): Cảnh xuân trong ruộng lúa

Câu 1 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

“Chiều xuân” qua ngòi bút của Anh Thơ hiện lên qua tranh: buổi chiều tà, cảnh xuân ở đồng quê miền Bắc nước ta

– Bài thơ thể hiện sự quan sát tinh tế, bao quát cảnh vật

– Bức tranh buổi chiều yên bình, êm ả, có phần vắng lặng

→ Nắm được linh hồn cảnh vật

– Buổi chiều xuân đặc trưng ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay

– Mưa gọi mầm non thức dậy

+ Cảnh đầu tiên được tác giả chú ý là cảnh bến đò

+ Con đò dường như cũng hòa với sự êm ả của buổi chiều khi con đò “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

+ Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”

– Cảnh được mở rộng, cao, xa hơn

– Nêu bật đặc trưng của mùa xuân miền Bắc: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, cánh bướm rập rờn,…

Khổ thứ hai hình ảnh độc đáo, đẹp, nhưng đượm buồn bởi cảnh vật chìm vào tĩnh lặng

– Ba khổ thơ là thơ tả cảnh, tập hợp thành bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh thanh vắng, yên tĩnh

Câu 2 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Bài thơ vừa tả cảnh, vừa gợi được nhịp sống, không khí ở nông thôn nước ta thời trước, sự yên bình:

+ Con đò nằm biếng lười, quán vắng, cánh bướm rập rờn, đàn trâu thong thả có dáng khoan thai

+ Hai câu thơ cuối có hình ảnh con người xuất hiện

– Khoảnh khắc lao động của người thiếu nữ đi vào thơ

+ Cô thôn nữ chăm chỉ trong buổi chiều tĩnh lặng.

+ Câu thơ tả động nhưng để nói về cái tĩnh

+ Cái tĩnh để nhằm nhấn mạnh vào nhịp sống yên bình của vùng quê còn nguyên sơ

Câu 3 (trang 52 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Thi sĩ dùng nhiều từ láy để dựng cảnh, gợi ra tinh thần của cảnh:

+ Mưa êm đềm, quán tranh đứng im lìm

+ Hoa xoan rụng tơi bời

+ Đàn sáo mổ vu vơ

+ Mấy cánh bướm rập rờn

+ Những trâu bò thong thả

– Sử dụng các từ láy có tính chất, sắc thái giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả…

+ Diễn tả trạng thái thụ động hoặc đều đều của chủ thể.

+ Từ láy làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân,cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 3

Câu 1 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Bức tranh làng quê mộc mạc, êm dịu, thanh bình với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, thơ mộng: mưa bụi, con đò, dòng sông, quán tranh, hoa xoan, con đê, đàn sáo, trâu bò, đồng lúa…

– Bức tranh tĩnh lặng, thanh nhã, tươi tắn, đượm buồn:

+ Các đối tượng được miêu tả trong trạng thái nhẹ nhàng, khoan thai: mưa đổ bụi êm êm, đàn sáo… vu vơ, cánh bướm rập rờn, trâu bò thong thả.

+ Không khí tĩnh lặng, bâng khuâng: quán đứng im lìm, đồng lúa ướt lặng, trâu bò thong thả cúi ăn mưa,…

+ Màu sắc tươi tắn, giàu sức sống: màu tím hoa xoan, màu đen của đàn sáo, màu rực rỡ của cánh bướm, màu xanh rờn của đồng lúa, màu thắm đỏ của chiếc yếm.

+ Bức tranh có nhiều điểm nhấn độc đáo: mưa đổ bụi, trâu bò cúi ăn mưa; cô nàng yếm thắm đang lao động chợt giật mình bởi đàn cò con.

=> Sự độc đáo của bức tranh nằm ở việc tác giả thâu tóm rất thành công linh hồn của làng quê Bắc Bộ ngày xuân với những nét đẹp đặc trưng không thể nhầm lẫn.


Câu 2 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:

+ Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.

+ Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…

+ Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khi đàn cò bụt bay ra.

– Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:

+ Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.

+ Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.


Câu 3 (trang 52 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2)

– Thống kê các từ láy: êm êm, im lìm, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

– Tác dụng của các từ láy:

+ Đặc điểm: hầu hết các từ láy trên đều mang vần bằng và đều diễn tả đặc điểm giảm nhẹ của tính chất và hoạt động (trừ từ láy tơi bời).

+ Tác dụng:

> Diễn tả tinh tế và chính xác trạng thái của các đối tượng được miêu tả (mưa, quán tranh, hoa xoan, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò), đó là trạng thái nhẹ nhàng, đều đều, yên ắng rất hài hòa, êm dịu.

> Đem lại hiệu quả gợi hình, gợi cảm, gợi không khí bâng khuâng và nhịp điệu khoan thai, êm ả của cuộc sống yên bình nơi làng quê Bắc Bộ.


Bố cục: 3 phần

– Khổ 1: Bức tranh chiều xuân trên bến vắng.

– Khổ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.

– Khổ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.

Nội dung chính

– Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ.

– Tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 4

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Anh Thơ (1921 – 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Anh Thơ đi học từ năm lên bảy nhưng nghỉ học sớm (12 tuổi). Những năm tháng tuổi thơ, nhà thơ gắn bó với đồng ruộng quê hương. Là người ham thích văn chương từ nhỏ, lại lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ ca như là một con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và cũng là để khẳng định giá trị của người phụ nữ xưa.

Anh Thơ từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp rồi từng làm uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II).

2. Sáng tác của Anh Thơ gần gũi với cảnh thôn quê Việt Nam. Đó thường là những bức tranh quê xinh xắn, giản dị mà mê hồn. Hoài Thanh từng nhận xét về Anh Thơ: “Mỗi lần Anh Thơ chịu đi ra ngoài lối tù túng đó để nhìn cảnh vật một cách sâu sắc hơn, lời thơ bỗng trở nên rộng rãi không ngờ và ta thấy khoan khoái biết bao. Sau câu thơ ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân” (Thi nhân Việt Nam).

Bài thơ Chiều xuân được rút ra từ tập Bức tranh quê (1941), tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 5

Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Anh Thơ (1921- 2005) tên khai sinh là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

– Tuổi thơ, Anh Thơ gắn bó với đồng ruộng quê hương.

– Vốn ham thích văn học từ nhỏ, phần nào chịu ảnh hưởng của gia đình bên ngoại (ông ngoại là cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu), lớn lên giữa lúc phong trào Thơ mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ ca như một con đường giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong xã hội đương thời.

– Từ năm 1937, Anh Thơ đã có thơ đăng báo Đông phương, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ. Nhà thơ được tặng giải Khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939. Anh Thơ tham gia kháng chiến chống Pháp, từng là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II).

– Anh Thơ có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp sống nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bà là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại, Anh Thơ được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2007).

– Tác phẩm chính: Bức tranh quê (thơ – 1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986), Tuyển tập Anh Thơ (1986).

2. Tác phẩm

– Bài thơ Chiều xuân được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

– Nội dung chính: Ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân xứ Bắc qua đó bày tỏ tình yêu quê hương của tác giả.

– Bố cục bài thơ chia làm 3 phần

+ Phần 1 (khổ 1): Cảnh ngày xuân trên bến vắng

+ Phần 2 (khổ 2): Ngày xuân trên con đường đê

+ Phần 3 (khổ 3): Cảnh xuân trong ruộng lúa


Gợi ý trả lời

Câu 1 – Trang 52 SGK

Bức tranh “chiều xuân” qua ngòi bút Anh Thơ hiện lên như thế nào? Hãy chỉ ra nét riêng của bức tranh đó.

Trả lời:

Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều – tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, mặc dù thế vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.

Buổi chiều xuân rất đặc trưng trước hết chính là ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay. Mưa gọi những mầm non thức dậy. Cảnh đầu tiên lọt vào tầm quan sát của tác giả là cảnh bến đò. Nhưng như đã nói, bức tranh không được chụp vào lúc đông vui nhộn nhịp, nên như hoà vào cái yên ả của buổi chiều xuân kia, con đò cũng “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”. Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh ấy là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”.

Cảnh từ gần được mở rộng thêm, cao và xa hơn. Nhưng vẫn là những nét đặc trưng của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, những cánh bướm rập rờn,… Khổ thứ hai có một hình ảnh thơ thật độc đáo và xuất sắc:

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa

Ba khổ thơ gần như chỉ là những câu thơ tả cảnh. Có thể nói cả bài thơ hợp thành một bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh vắng quá, yên tĩnh quá.


Câu 2 – Trang 52 SGK

Anh (chị) có cảm nhận gì về không khí và nhịp sống thôn quê trong bài thơ? Không khí và nhịp sống ấy được gợi tả bằng những từ ngữ, chi tiết và bằng thủ pháp nghệ thuật nào ?

Trả lời:

Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả,… tất cả đều có dáng khoan thai. Phải chờ đợi đến hai câu cuối của bài thơ, người đọc mới thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng con người sao cũng thụ động quá:

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Câu thơ chụp được đúng cái thời khắc lao động của người thiếu nữ. Một cô thôn nữ chăm chỉ trong một buổi chiều quê tĩnh lặng. Câu thơ tả động nhưng thực ra là để nói cái tĩnh. Và nói cái tĩnh tất nhiên cũng lại để tiếp tục nhấn mạnh vào cái nhịp sống rất bình yên của một vùng quê mà dường như tất cả vẫn còn rất nguyên sơ vậy.


Câu 3 – Trang 52 SGK

Hãy thống kê những từ láy trong bài thơ và phân tích nét đặc sắc của những từ láy đó.

Trả lời:

Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mổ vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,… Trong các từ láy đã nêu, trừ từ rơ/bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,… và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như của nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.

Bài soạn “Chiều xuân” của Anh Thơ số 6

I. Tác giả
1. Tiểu sử – Cuộc đời
– Anh Thơ (1921 – 2005).
– Tên khai sinh là Vương Kiều Ân, bút hiệu Tuyết Anh .
– Quê: tỉnh Hải Dương, trong một gia đình viên chức nhỏ, xuất thân Nho học.
– Nhà thơ chưa học hết bậc tiểu học nhưng chịu khó đọc sách ham văn chương.
– Sống trong không khí gia đình buồn tẻ nặng nền nếp phong kiến, bà tìm đến thơ ca tự giải thoát và khẳng định mình như nhiều thanh niên thời đó.
-Tháng Tám 1945 hăng hái tham gia cách mạng kháng chiến và xây dựng đất nước bằng thơ ca, là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam

2. Sự nghiệp sáng tác
a. Tác phẩm chính
– Tiểu thuyết “Răng đen”, thơ “Bức tranh quê”.
– Sau cách mạng tháng Tám: Kể chuyện Vũ Lăng, Theo cánh chim câu, Đảo ngọc, Hoa dứa trắng, Quê chồng.
b. Phong cách nghệ thuật
– Thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc: bờ tre, con đò, bến sống, với những nét vẽ chân thực, tinh tế thấm đượm một chút tình quê đằm thắm pha chút bâng khuâng buồn của thơ mới.

II. Tác phẩm
1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời
– Được rút từ tập “Bức tranh quê”, tập thơ đầu tay của Anh Thơ.

2. Bố cục: 3 phần
– Khổ 1: Bức tranh chiều xuân trên bến vắng.
– Khổ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.
– Khổ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.

3. Giá trị nội dung
– Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ.
– Tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

4. Giá trị nghệ thuật
– Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy.
– Thủ pháp lấy cái động để nói cái tĩnh.

Một số nhận định về tác giả, tác phẩm
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”.

III. Trả lời câu hỏi

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” lớp 9 hay nhất

Hi-pô-lít Ten (1828-1893) là tác giả của công trình nghiên cứu La- phông- ten và thơ ngụ ngôn của ông (1853). Văn bản “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” trích từ chương II, phần thứ hai công trình nghiên cứu khoa học nổi tiếng đó. Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông- ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- phông, tác giả làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phong-ten” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu và chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 1

Bố cục

+ Phần 1 (từ đầu… tốt bụng như thế): hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten

+ Phần 2 ( còn lại): hình tượng con sói trong thơ La-phông-ten

Câu 1 (Trang 41 sgk ngư văn 9 tập 2)

Bố cục của bài

+ Phần 1 (từ đầu… tốt bụng như thế): hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten

+ Phần 2 (còn lại): hình tượng con sói trong thơ La-phông-ten

Trong cả hai đoạn nhằm làm nổi bật hình tượng con cừu và con sói trong thơ ca, tác giả dẫn ra những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- phông

– Mạch nghị luận trong hai phần tương đối giống nhau, theo trật tự ba phần: dưới ngòi bút của La- phông-ten, Buy-phông

– Cách viết làm bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn hơn

Câu 2 (trang 41 sgk ngữ văn 9 tập 2)

Buy- phông viết về loài cừu và chó sói từ quan điểm của nhà khoa học, vì vậy, các chi tiết đều giống như trong đời thực.

+ Ông không nói tới sự thân thương của loài cừu cũng như ” nối bất hạnh của loài sói” – bởi đó không phải những đặc điểm tiêu biểu của chúng

+ Đặc điểm đó do con người gán cho loài vật, không thể xuất hiện trong công trình nghiên cứu của một nhà khoa học

Câu 3 (trang 41 sgk ngữ văn 9 tập 2)

– Xây dựng hình tượng con cừu, đặt con cừu trong hoàn cảnh đối mặt với sói ở bên dòng suối

+ Tác giả lựa chọn đặc điểm về tập tính của loài cừu, loài sói để thể hiện

+ Làm nổi bật tính hiền lành, nhút nhát → Đặc điểm tiêu biểu tính nết loài cừu

+ Tác giả nhân cách hóa nhân vật con cừu, để chó sói và cừu trở thành người cụ thể

Câu 4 (trang 41 sgk ngữ văn 9 tập 2)

Hình tượng chó sói trong truyện ngụ ngôn của La-phông-ten được xây dựng dựa trên đặc tính vốn có của loài sói, là săn mồi

– Tác giả nêu ra hai luận điểm:

+ Chó sói là kẻ đáng cười (vì không kiếm nổi miếng ăn nên đói meo)

+ Chó sói còn là kẻ đáng ghét vì nó làm hại đến người khác

+ Con sói được nói đến trong bài thơ là một con sói cụ thể, rất sinh động (gầy giơ xương, đi kiếm mồi, muốn ăn thịt cừu non..)

+ Con chó sói được nhân cách hóa như hình tượng cừu dưới ngòi bút phóng khoáng của nhà thơ

+ Thể hiện được đặc trưng của thể loại ngụ ngôn

– Con sói đáng thương:

+ Trông như tên trộm cướp, khốn khổ bất hạnh, lấm lét, lo lắng, cơ thể gầy giơ xương

+ Chỉ là gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn

Ý nghĩa – Giá trị

Sau bài học, học sinh:

– Cảm nhận được đặc sắc trong việc xây dựng hình ảnh chó sói và cừu của La Phông-ten.

– Nắm được một trong những đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học: tác phẩm văn học luôn in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 2

Trả lời câu 1 (trang 41 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Bố cục: 2 phần

+ Phần 1: (từ đầu đến “Tốt bụng như thế”): Hình tượng cừu trong thơ La Phông- ten.

+ Phần 2: (còn lại) : Hình tượng chó sói trong thơ La Phông- ten.

– Sự giống nhau trong biện pháp lập luận giữa hai phần: Để làm nổi bật hình tượng hai con vật (cừu và chó sói) trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, tác giả đều lập luận bằng cách dẫn ra những lời viết về hai con vật ấy của Buy –phông để so sánh.

– Cách triển khai khác nhau trong lập luận: “Bài nghị luận Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten vận dụng thành công thủ pháp nghệ thuật so sánh. Hai phần của bài viết như hai vế của một thế đối sánh tương phản: cừu – sói.


Trả lời câu 2 (trang 41 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

– Buy-phông nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào đặc tính trong cuộc sống bầy đàn và đời sống riêng theo quan điểm một nhà khoa học.

– Ông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh” của loài chó sói, bởi nó không phải đặc tính cơ bản của chúng.


Trả lời câu 3 (trang 41 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

– La Phông-ten nhìn theo cách nhìn của một người nghệ sĩ, theo quan điểm thẩm mĩ nhân văn của nghệ thuật.

– Khía cạnh chân thực của loài vật: Để xây dựng hình tượng con cừu, nhà thơ La Phông-ten đã dựa trên đặc điểm vốn có của loài vật này.

– Khía cạnh sáng tạo của nhà thơ: nhà thơ đã nhân cách hóa con cừu làm cho nó cũng biết nói năng và suy nghĩ như con người và đặc biệt rất nhanh nhạy trong đối đáp.


Câu 4

Chó sói trong Chó sói và cừu non cụ thể, đáng cười trong hình ảnh đói meo, gầy giơ xương kiếm mồi. Nhưng cũng đáng ghét khi muốn ăn thịt cừu non nhưng che giấu tâm địa, kiếm cớ bắt tội để trừng phạt chú cừu tội nghiệp.

Bố cục

Bố cục: 2 phần

– Phần 1: (từ đầu đến “Tốt bụng như thế”): Hình tượng cừu trong thơ La Phông- ten.

– Phần 2: (còn lại) : Hình tượng chó sói trong thơ La Phông- ten.

Nội dung chính

Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- phông, tác giả làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 3

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả:

Hi-pô-lít Ten (1828-1893) là triết gia, sử gia đồng thời cũng là nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng của Pháp, Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về truyện ngụ ngôn của La-phông-ten. Đây là một bài nghị luận văn chương, trích từ chương II, phần II của công trình La-phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông, in năm 1853.

2. Thể loại: Ngụ ngôn

Ngụ ngôn vốn là một thể loại văn học dân gian, thường dựng chuyện về loài vật để nói về con người. Các câu chuyện ngụ ngôn có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc, chính vì vậy mà một số nhà văn cũng thường sáng tác theo thể loại này, tiêu biểu như E-dốp, La-phông-ten…

3. Nội dung:

Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông – Ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- Phông, H. Ten nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: trang 41 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Xác định bố cục hai phần của bài nghị luận văn chương này và đặt tiêu đề cho từng phần. Đối chiếu các phần ấy để tìm ra biện pháp lập luận giống nhau và cách triển khai khác nhau không lặp lại.

Bài làm:
Bố cục:
Phần một (từ đầu đến “tốt bụng như thế”): hình tượng con cừu trong thơ La-phông-ten.
Phần hai (còn lại): hình tượng chó sói trong thơ La-phông-ten.
So sánh các biện pháp lập luận và cách triển khai:
Giống nhau: đều dùng những dòng suy nghĩ của nhà khoa học Buy- Phông để so sánh. Triển khai hai luận điểm theo trật tự: dưới ngòi bút của La Phông-ten, dưới ngòi bút của Buy-phông, dưới ngòi bút của La Phông-ten.
Khác nhau: Nhưng ở đoạn đầu, khi bàn về con cừu, tác giả thay bước thứ nhất bằng trích đoạn thơ ngụ ngôn của La Phông-ten. Vì vậy, bài văn nghị luận trở nên sinh động hơn.

Câu 2: trang 41 sgk Ngữ văn 9 tập 2
Nhà khoa học Buy-phông nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào đâu và có đúng không? Tại sao ông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh” của loài chó sói?
Bài làm:
Buy-phông viết về loài cừu và loài chó sói dưới cái nhìn, căn cứ của một nhà khoa học. Ông nêu lên những đức tính cơ bản của chúng một cách chán thực.
Ông không nhắc đến “sự thân thương” của loài cừu, cũng không nhắc đến “nỗi bất hạnh” của loài chó sói vì đấy không phải là đặc điểm cơ bản của chúng. Những đặc điểm đó do con người “gán” cho loài vật, không thể xuất hiện trong công trình nghiên cứu của một nhà khoa học.

Câu 3: trang 41 sgk Ngữ văn 9 tập 2
Để xây dựng hình tượng con cừu trong bài Chó sói vù cừu non, nhà thơ La Phông-ten lựa chọn khía cạnh chân thực nào của loài vật này, đồng thời có những sáng tạo gì?
Bài làm:
Để xây dựng hình tượng con cừu trong bài Chó sói và cừu non, nhà thơ La Phông-ten lựa chọn khía cạnh chân thực đó là tính cách của con cừu khi gặp phải thiên địch của nó – loài chó sói. Tác giả đã đặt con cừu trong hoàn cảnh gặp con chó sói hống hách, ngang ngược bên bờ suối.
Hoàn cảnh đó làm nổi bật lên tính chất hiền lành, nhút nhát – cũng là một đặc điểm tiêu biểu cho tính nết của loài cừu. Cũng từ đó tác giả đã sáng tạo nhân cách hoá con cừu, miêu tả cả chó sói và cừu như những con người cụ thể.

Câu 4: trang 41 sgk Ngữ văn 9 tập 2
Chó sói có mặt trong nhiều bài thơ ngụ ngôn của La Phông-ten. Chứng minh rằng hình tượng chó sói trong bài cụ thể Chó sói vù cừu non không hoàn toàn đúng như nhận xét của Ten, mà chỉ phần nào có thể xem là đáng cười (hài kịch của sự ngu ngốc), còn chủ yếu lại là đáng ghét (bi kịch của sự độc ác).
Bài làm:
Trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, nhiều bài có nhân vật chó sói. Khi xây dựng hình tượng chó sói, La Phông-ten không tuỳ tiện mà dựa trên đặc tính vốn có của loài sói đó là săn mồi. Hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten. Con chó sói được nói đến trong bài thơ là một con sói cụ thể, rất sinh động với cái bụng “đói meo”, “gầy giơ xương”, đi kiếm mồi với hi vọng kiếm được con cừu non nào đó,.. (hài kịch của sự ngu ngốc), nhưng chủ yếu ở đây nó là một con vật đáng ghét, gian xảo, hống hách, bắt nạt kẻ yếu (bi kịch của sự độc ác). Con chó sói được nhân cách hoá như hình tượng cừu dưới ngòi bút phóng khoáng của nhà thơ và đặc trưng của thể loại ngụ ngôn.

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 4

* Tóm tắt văn bản:
Dưới con mắt của nhà khoa học Buy-phông, hình ảnh chó sói và cừu hiện lên chính xác, chân thực với những đặc tính cơ bản của chúng. Còn dưới ngòi bút của nhà thơ La Phông-ten, hình ảnh chó sói và cừu đã được nhân hóa rõ nét. Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, tác giả Hi-pô-lít Ten đã nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật in đậm dấu ấn, cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.


* Bố cục: 2 phần

– Phần 1 (Từ đầu đến tốt bụng như thế): Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten.
– Phần 2 (còn lại): Hình tượng chó sói trong thơ La Phông-ten.

Đọc – Hiểu văn bản

Câu 1 – Trang 41 SGK ngữ văn 9 tập 2: Xác định bố cục hai phần của bài nghị luận văn chương này và đặt tiêu đề cho từng phần. Đối chiếu các phần ấy để tìm ra biện pháp lập luận giống nhau và cách triển khai khác nhau không lặp lại.

Trả lời

Tiêu đề cho hai phần của văn bản:

– Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten.

– Hình tượng chó sói trong thơ La Phông-ten.Mạch nghị luận trong cả hai phần cũng tương đối giống nhau, đều theo trình tự ba phần:- dưới ngòi bút của La Phông-ten- dưới ngòi bút của Buy-phông- dưới ngòi bút của La Phông-ten. Trong phần một, hình ảnh cừu trong thơ La Phông-ten được thể hiện qua một đoạn thơ cụ thể. Cách viết như vậy khiến cho bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.


Câu 2 – Trang 41 SGK ngữ văn 9 tập 2: Nhà khoa học Buy-phông nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào đâu và có đúng không? Tại sao ông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh” của chó sói?

Trả lời

Buy- phông viết về loài cừu và chó sói từ quan điểm của một nhà khoa học, bởi vậy, các chi tiết đều giống như trong đời thực.

Câu 3 – Trang 41 SGK ngữ văn 9 tập 2: Để xây dựng hình tượng con cừu trong bài Chó sói và cừu non, nhà thơ La Phông-ten lựa chọn khía cạnh chân thực nào của loài vật này, đồng thời có những sáng tạo gì?

Trả lời

Khi xây dựng hình tượng con cừu, trước hết, La Phông-ten đã đặt một chú cừu con trong một hoàn cảnh đặc biệt: đối mặt với chó sói bên dòng suối. Hoàn cảnh đó làm nổi bật lên tính chất hiền lành, nhút nhát- cũng là một đặc điểm tiêu biểu cho tính nết của loài cừu. Vì sáng tác theo thể loại ngụ ngôn nên La Phông-ten đã nhân cách hóa con cừu, miêu tả cả chó sói và cừu như những con người cụ thể.


Câu 4 – Trang 41 SGK ngữ văn 9 tập 2: Chó sói có mặt trong nhiều bài thơ của La Phông-ten. Chứng minh rằng hình tượng chó sói trong bài cụ thể Chó sói và cừu non không hoàn toàn đúng như nhận xét của Ten, mà chỉ phần nào có thể xem là đáng cười (hài kịch của sự ngu ngốc), còn chủ yếu lại là đáng ghét (bi kịch của sự độc ác).

Trả lời

Hình tượng chó sói trong truyện ngụ ngôn của La Phông-ten được xây dựng dựa trên đặc tính vốn có của loài sói, đó là săn mồi. Từ đó, tác giả nêu ra hai luận điểm: – Chó sói là kẻ đáng cười (vì không kiếm nổi miếng ăn nên đói meo).- Chó sói còn là một kẻ đáng ghét vì nó làm hại đến người khác. Hình tượng chó sói ở đây là một con chó sói cụ thể. Nhà thơ chọn một con chó sói đói meo, gầy giơ xương đi kiếm mồi, bắt gặp chú cừu non đang uống nước phía dưới dòng suối chỗ hắn đang đứng. Hắn muốn ăn thịt cừu non nhưng che giấu tâm địa của mình, kiếm cớ bắt tội để gọi là “trừng phạt” chú cừu tội nghiệp.Nhận định của H. Ten về hình tượng chó sói là đúng vì ông bao quát tất cả những bài ấy, chứ không phải chỉ bài “Chó sói và cừu non”. Riêng ở bài này, chó sói có mặt đáng cười nếu ta suy diễn vì nó ngu ngốc, chẳng kiếm ra được cái gì ăn nên mới đói meo (hài kịch của sự ngu ngốc), nhưng chủ yếu ở đây, nó là con vật đáng ghét, gian giảo, hống hách, bắt nạt kẻ yếu (bi kịch của sự độc ác).

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 5

Kiến thức cơ bản

– Hi-pô-lit Ten ( Hippolyte Taine ) sinh năm 1828 và mất năm 1893. Ông là triết gia, sử gia, nhà nghiên cứu văn học Pháp, viện sĩ viện Hàn lâm Pháp, tác giả công trình nghiên cứu “La Phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông” (1853).

– Văn bản “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten” trích từ chương II, phần thứ hai của công trình trên.

Đại ý bài văn:

Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten với những dòng nhà bác học Buy- Phông (Buffon) viết về hai con vạt ấy. Tác giả H.Ten nêu bật đặc trưng sáng tác nghệ thuật là hình tượng văn học nghệ thuật.


Gợi ý trả lời câu hỏi SGK

Câu 1 – Trang 41 SGK

Xác định bố cục hai phần của bài nghị luận văn chương này và đặt tiêu đề cho từng phần. Đối chiếu các tác phẩm ấy để tìm ra biện pháp lập luận giống nhau và cách triển khai khác nhau không lặp lại.

Trả lời

Bài văn gồm hai đoạn: • “Giọng chú cừu non tội nghiệp… với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế…”: Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten.

• “Con chó sói… còn ông dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc”: Hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten.

– Trong cả hai đoạn, H.Ten đều phân tích hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten với lập luận: dẫn ra vài dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông để so sánh.Mạch nghị luận trong cả hai phần cũng tương đối giống nhau, đều theo trật tự ba phần: dưới ngòi bút của La Phông-ten – dưới ngòi bút của Buy-phông – dưới ngòi bút của La Phông-ten được thể hiện qua một đoạn thơ cụ thể. Cách viết như vậy khiến cho bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.


Câu 2 – Trang 41 SGK

Nhà khoa học Buy – phông nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào đâu và có đúng không? Tại sao ông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh” của loài chó sói.

Trả lời

Buy-phông viết về loài cừu và loài chó sói từ quan điểm của một nhà khoa học, bởi vậy, các chi tiết giống như trong đời thực. Ông không nói đến “sự thân thương của loài cừu” cũng như “nỗi bất hạnh của loài sói” bởi vì đó không phải là đặc điểm tiêu biểu của chúng. Những đặc điểm đó do con người “gán” cho loài vật, không thể xuất hiện trong công trình nghiên cứu của một nhà khoa học.


Câu 3 – Trang 41 SGK

Để xây dựng hình tượng con cừu trong bài Chó sói và cừu non, nhà thơ La Phông – ten lựa chọn khía cạnh chân thực nào của loài vật này, đồng thời có những sáng tạo gì?

Trả lời

– Con cừu ở đây là một con cừu non. Tác giả chọn một chú cừu non (con Chiên) và nhân cách hoá nó.

– Khi khắc hoạ tính cách của cừu non, tác giả cũng căn cứ vào một trong những đặc tính vốn có của loài cừu: hiền lành, nhát sợ, không biết trốn tránh nội nguy hiểm…

– Biện pháp nhân hóa được sử dụng, con cừu non có suy nghĩ, nói năng như Con người:

• Nơi tôi uống nước quả làHơn hai chục bước cách xa dưới này.• Khi tôi còn chưa ra đời?•Quả thật tôi chẳng có anh em

– Hình tượng con cừu trong thơ của La Phông-ten còn được sáng tạo bằng nghệ thuật nhân cách hoá. Nhà thơ cảm nhận được tình cảm thân thương và tốt bụng, nhất là tình mẫu tử: Thật cảm động thấy con cừu mẹ chạy tới… cho đến khi con đã bú xong.


Câu 4 – Trang 41 SGK

Chó sói có mặt trong nhiều bài thơ ngụ ngôn của La Phông – ten. Chứng mỉnh rằng hình tượng chó sói trong bài cụ thể không hoàn toàn đúng như nhận xét của Ten, mà chỉ phần nào có thể xem là đáng cười (hài kịch của sự ngu ngốc), còn chủ yếu lại là đáng ghét (bi kịch của sự độc ác).

Trả lời

Hình tượng chó sói trong truyện ngụ ngôn của La Phông-ten được xây dựng dựa trên đặc tính vốn có của loài sói, đó là săn mồi. Từ đó, tác giả nêu ra hai luận điểm:

– Chó sói là kẻ đáng cười (vì không kiếm nổi miếng ăn nên đói meo).

– Chó sói còn là một kẻ đáng ghét vì nó làm hại đến người khác.

Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, có thể phân tích hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten theo những gợi ý sau:

+ Con sói được nói đến trong bài thơ là một con sói cụ thể, sinh động (gầy giơ xương, đi kiếm mồi, muốn ăn thịt cừu non…).

+ Con chó sói được nhân cách hoả như hình tượng cừu dưới ngòi bút phóng khoáng của nhà thơ và đặc trưng của thể loại ngụ ngôn.

– Biện pháp nhân hoá được sử dụng, con chó sói độc ác như một tên bạo chúa khát máu, khi đói muốn bắt con mồi thì đủ lời lẽ ngụy biện vô lí, vu cáo để buộc tội đối phương như con người:

• Mày còn nói xấu ta năm ngoái…• Không phải mày thì anh mày đó!• Quân bay có đứa nào kiềng sói đâu!• Họ mách ta, ta phải báo thù.

– Hình tượng con chó sói trong thơ La Phông-ten còn được sáng tạo bằng những nét mới. Đó là một tên cướp, nhưng khốn khổ và bất hạnh. Chó sói dưới ngòi bút của La Phông-ten (…) chỉ là một gã vô lại luôn luôn đói dài.

– Chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten đáng cười, nếu ta suy ra rằng vì nó ngu ngốc, chẳng kiếm được cái gì để ăn nên mới đói meo (hài kịch của sự ngu ngốc) nhưng chủ yếu là một con vật đáng ghét vì nó gian xảo, độc ác, bắt nạt kẻ yếu (bi kịch của sự độc ác).

Ghi nhớ

Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngu ngôn La Phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, H. Ten nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.

Bài soạn “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten” số 6

I. Vài nét về tác giả
– Hi-pô-lít Ten sinh năm 1828, mất năm 1893
– Quê quán: Ông sinh ra tại Vouziers, Pháp
– Cuộc đời và sự nghiệp:
+ Năm ông 13 tuổi, 1841, cha ông mất
+ Ông được biết đến là một sinh viên xuất sắc ở cả hai ngành tự nhiên và xã hội, ông đã lấy được hai bằng khi ông chưa 20
+ Năm 1853, ông hoàn thành bằng tiến sĩ
+ Ông được biết đến là triết gia, sử gia, nhà nghiên cứu văn học Pháp, Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Pháp
+ Tác phẩm tiêu biểu: Ông là tác giả của công trình nghiên cứu La- phông- ten và thơ ngụ ngộ của ông (1853)

II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Văn bản trích từ chương II, phần thứ hai công trình nghiên cứu khoa học nổi tiếng “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” của ông, xuất bản lần đầu năm 1853, đã tái bản nhiều lần.
2. Bố cục
– Phần 1: (từ đầu đến “Tốt bụng như thế”): Hình tượng cừu trong thơ La Phông- ten
– Phần 2: (còn lại) : Hình tượng chó sói trong thơ La Phông- ten
3. Giá trị nội dung
– Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông- ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- phông, tác giả làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật
4. Giá trị nghệ thuật
– Cách trình bày và sắp xếp luận điểm chặt chẽ giàu thuyết phục, dẫn chứng khoa học, lối viết hấp dẫn

Câu 1. Để làm nổi bật tính cách của con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, H. Ten đã :

a) Sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ?

b) Lập luận ra sao ?

c) Làm cách nào để bố cục khỏi đơn điệu ?

d) Dẫn đến những kết luận gì ?

Trả lời:

Bài tập nhằm giúp em nắm vững bài nghị luận văn chương của H. Ten. Chỉ cần làm miệng và ghi những ý chính vào sổ tay.

Để làm được bài này, cần đọc kĩ văn bản nghị luận, ôn tập những câu hỏi Đọc – hiểu văn bản trong SGK và lời giảng trên lớp.

Trả lời lần lượt theo từng mục (a), (b), (c), (d) một cách ngắn gọn, có chọn lọc, chứ không nhắc lại nguyên như trong bài.


Câu 2. Chứng minh nghệ thuật nhân cách hoá của La Phông-ten (mà H. Ten chưa đề cập đến ở văn bản nghị luận này) qua đoạn trích thơ ngụ ngôn Chó sói và chiên con, trên cơ sở xem xét :

a) Cách đặt tên các con vật (tên riêng hay tên chung của loài).

b) Những ý nghĩ, lập luận của các con vật (có thật hay không).

c) Cách diễn đạt bằng ngôn từ của các con vật (có thật hay không).

d) Hành động của các con vật (có thật hay không).

e) Tính chất ngụ ý (nói chuyện con vật hay con người).

Trả lời:

Bài tập này mở rộng ra ngoài khuôn khổ văn bản nghị luận văn chương của H. Ten nhằm giúp em hiểu thêm nghệ thuật nhân cách hoá của La Phông-ten khi xây dựng nhân vật là các con vật. H. Ten đề cập đến vấn đề này ở một chỗ khác.

Cần suy nghĩ, làm miệng, lần lượt theo các mục (a), (b), (c), (d), (e) và ghi chép những ý chính vào sổ tay.

Để làm được bài này, cần đọc kĩ đoạn trích Chó sói và chiên con trong văn bản nghị luận. Có thể tìm đọc toàn văn bài thơ ngụ ngôn ấy của La Phông-ten trong SGK.

Câu 3. Học thuộc lòng bài thơ ngụ ngôn Chó sói và chiên con của La Phông-ten ở phần Đọc thêm, trang 41 – 42, SGK.

Trả lời:

Để làm tốt bài tập này :

– Cần rà soát những câu thơ nào là lời người kể chuyện, là lời chó sói, là lời chiên con.

– Đọc diễn cảm nhiều lần với ba giọng phân biệt.

– Sau đó mới học và đọc thuộc lòng có diễn cảm.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tác phẩm trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” lớp 6 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” lớp 6 hay nhất

Bạn có thích làm thơ không? Bạn đã bao giờ thử tập làm một bài thơ chưa? Nếu chưa thì hãy thử một lần nhé vì đây là một hoạt động vô cùng thú vị và bổ ích. Tuy nhiên làm thơ chính là sáng tác nghệ thuật mà công việc này thì không bao giờ là công việc nhàn hạ và giản đơn. Nhưng đừng vội nản chí, chúng ta hãy bắt đầu với thể thơ bốn chữ. Đây là một loại thơ rất phổ biến và dễ làm. Vậy cách làm như nào, những lưu ý khi làm thơ ra sao, mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” lớp 6 hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn điều đó.

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 1

I. Chuẩn bị ở nhà

Câu 1 (Trang 84 sgk ngữ văn 6 tập 2):

Ngoài bài thơ Lượm, còn có các bài thơ 4 chữ:

Mùa thu của em

Là vàng hoa cúc

Như nghìn con mắt

Mở nhìn trời êm

Mùa thu của em

Lá xanh cốm mới

Mùi hương như gọi

Từ màu lá sen

(Mùa thu của em- Quang Huy)

Những chữ cùng vần: em – êm, em – en

Câu 2 (trang 83 sgk ngữ văn 6 tập 2):

– Vần chân: hàng – trang

– Vần lưng: lưng – lưng, ngang – màng

Câu 3 (trang 84 sgk ngữ văn 6 tập 2):

– Vần liền được giep liên tiếp ở các vần thơ

– Vần cách không được gieo liên tiếp, thường bị cách quãng

– Vần liền: cháu- sáu, ra- nhà

– Vần cách: hẹ- mẹ, đàn- càn

Câu 4 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 2):

Sửa: Để em ngồi cạnh (thay cho Để em ngồi sưởi)

Sửa: Cách mấy con sông (thay cho Cách mấy con đò)

Câu 5 (trang 86 sgk ngữ văn 6 tập 2):

Các bạn có thể tham khảo đoạn thơ sưu tầm sau:

Em yêu màu đỏ

Như máu con tim

Lá cờ tổ quốc

Khăn quàng đội viên

Em yêu màu xanh

Đồng bằng, rừng núi

Biển đầy cá tôm

Bầu trời cao vợi

Em yêu màu vàng

Lúa đồng chín rộ

Hoa cúc mùa thu

Nắng trời rực rỡ

(Sắc màu em yêu – Phạm Đình Ân)

II. Tập làm thơ bốn chữ trên lớp

Bài 1 (trang 85 sgk ngữ văn 6 tập 2):

Ví dụ đoạn thơ bốn chữ:

Hạt nắng mênh mang

Thắp lửa hai hàng

Lòng như gió bay

Một màu phượng cháy

Vần chân: mang – hàng; bay – cháy

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 2

I. Kiến thức cơ bản

khi làm bài tập, chú ý xem kỹ phần Đọc thêm về thơ bốn chữ, sau bài Lượm (Bài 24, trang 77 sgk Ngữ văn 6 tập 2).

Câu 1. Ngoài bài thơ Lượm, em còn biết thêm bài thơ, đoạn thơ bốn chữ nào khác ? Hãy nêu lên và chỉ ra những chữ cùng vần với nhau trong bài thơ đó.

Trả lời:

Ngoài bài thơ Lượm, còn có các bài thơ 4 chữ:

Mùa thu của emLà vàng hoa cúcNhư nghìn con mắtMở nhìn trời êmMùa thu của emLá xanh cốm mớiMùi hương như gọiTừ màu lá sen

(Mùa thu của em- Quang Huy)

Những chữ cùng vần: em – êm, em – en

Câu 2. Vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ, vần lưng là vần được gieo ở giữa dòng thơ. Hãy chỉ ra đâu là vần chân và đâu là vần lưng trong đoạn thơ sau :

Mây lưng chừng hàngVề ngang lưng núiNgàn cây nghiêm trangMơ màng theo bụi.

(Xuân Diệu)

Trả lời:

Vần chân và vần lưng trong đoạn thơ trên là :

– Vần chân: hàng – trang, núi – bụi.

– Vần lưng: chừng – lưng, ngang – màng.

Câu 3. Vần liền là vần được gieo liên tiếp ở các dòng thơ ; vần cách là vần không gieo liên tiếp mà thường cách ra một dòng thơ. Trong hai đoạn thơ sau, đoạn nào gieo vần liền và đoạn nào gieo vần cách :

Cháu đi đường cháu

Chú lên đường ra

Đến ngày tháng sáu

Chợt nghe tin nhà.

(Tố Hữu)

Nghé hành nghé hẹ

Nghé chẳng theo mẹ

Thì nghé theo đàn

Nghé chớ đi càn

Kẻ gian nó bắt.

(Đồng dao)

Trả lời:

– Vần liền được gieo liên tiếp ở các vần thơ

– Vần cách không được gieo liên tiếp, thường bị cách quãng

– Vần liền: cháu- sáu, ra- nhà

– Vần cách: hẹ- mẹ, đàn- càn

Câu 4. Đoạn thơ sau đây trích trong bài Chị em của Lưu Trọng Lư, một bạn chép sai hai chữ có vần, em hãy chỉ ra hai chữ đó và thay vào bằng hai chữ sông, cạnh sao cho phù hợp.

Em bước vào đây

Gió hôm nay lạnh

Chị đốt than lên

Để em ngồi sưởi

Nay chị lấy chồng

Ở mãi Giang Đông

Dưới làn mây trắng

Cách mấy con đò.

Trả lời:

Sửa: Để em ngồi cạnh (thay cho Để em ngồi sưởi)

Sửa: Cách mấy con sông (thay cho Cách mấy con đò)

Câu 5. Tập làm một bài thơ (hoặc đoạn thơ) bốn chữ có nội dung kể chuyện hoặc miêu tả về một sự việc hay một con người theo vần tự chọn.

Trả lời:

Em yêu màu đỏ

Như máu con tim

Lá cờ tổ quốc

Khăn quàng đội viên

Em yêu màu xanh

Đồng bằng, rừng núi

Biển đầy cá tôm

Bầu trời cao vợi

Em yêu màu vàng

Lúa đồng chín rộ

Hoa cúc mùa thu

Nắng trời rực rỡ

(Sắc màu em yêu – Phạm Đình Ân)

II. Rèn luyện kỹ năng
1. Trình bày bài (đoạn) thơ bốn chữ đã chuẩn bị ở nhà ; chỉ ra nội dung, đặc điểm (vần, nhịp) của bài (đoạn) thơ ấy.
Trả lời:
Hạt nắng mênh mangThắp lửa hai hàngLòng như gió bayMột màu phượng cháy
Vần chân: mang – hàng; bay – cháy

2. Cả lớp nhận xét những điểm được và chưa được của bài làm.
Trả lời: Học sinh tự thực hiện.

3. Cả lớp góp ý, từng học sinh tự sửa chữa bài làm của mình.
Trả lời: Học sinh tự thực hiện.

4. Cả lớp cùng thầy, cô giáo đánh giá và xếp loại.
Trả lời: Học sinh nghe lời nhận xét và xếp loại từ giáo viên.

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 3

CHUẨN BỊ Ở NHÀ

Câu 1. Ngoài bài Lượm, ta còn có kể thêm những bài thơ bốn chữ khác, ví dụ bài:

Tiếng võng kêu (Trần Đăng Khoa)

Kẽo cà kẽo kẹt

Kẽo cà kẽo kẹt

Tay em đưa đều

Đầy tiếng võng kêu.

Kẽo cà kẽo kẹt

Mênh mang trưa hè

Chim co chân ngủ

Lim dim cành tre.

Kẽo cà kẽo kẹt

Cây na thiu thiu

Mắt na hé mở

Nhìn trời trong veo.

Kẽo cà kẽo kẹt

Võng em chao đều

Chim ngoài cửa sổ

Mổ tiếng võng kêu…

(Trích)

Những chữ cùng vần với nhau trong đoạn thơ trên là: đều – kêu; hè – tre; đều – kêu.


Câu 2. Đoạn thơ:

Mây lưng chừng hàng

Về ngang lưng núi

Ngàn cây nghiêm trang

Mơ màng theo bụi.

Có vần lưng: hàng – ngang; trang – màng

Có vần chân: hàng – trang; núi – bụi

Câu 3.

Đoạn thơ sau đây gieo vần liền:

Nghé hành nghé hẹ

Nghé chẳng theo mẹ

Thì nghé theo đàn

Nghé chớ đi càn

Kẻ gian nó bắt.

– Đoạn thơ sau gieo vần cách:

Cháu đi đường cháu

Chú lên đường xa

Đến nay tháng sáu

Chợt nghe tin nhà.

Câu 4. Đoạn thơ sau đây trích trong bài Chị em của Lưu Trọng Lư, một bạn chép sai hai chữ có vần, em hãy chỉ ra hai chữ đó và thay vào bằng hai chữ sông, cạnh sao cho phù hợp.

Em bước vào đây

Gió hôm nay lạnh

Chị đốt than lên

Để em ngồi sưởi

Nay chị lấy chồng

Ở mãi Giang Đông

Dưới làn mây trắng

Cách mấy con đò

Sửa lại:

Em bước vào đây

Gió hôm nay lạnh

Chị đốt than lên

Để em ngồi cạnh

Nay chị lấy chồng

Ở mãi Giang Đông

Dưới làn mây trắng

Cách mấy con sông.

Câu 5. Tập làm một bài thơ 4 chữ.

Bài tham khảo

KỂ CHUỐI MIỀN NAM

Ngàn cây như hội

Đất mặt quê mình

Kể sao hết chuối

Ngát một màu xanh.

Từ trời rơi xuống

Lá chuối Nàng Tiên

Chuối Cau sao mượn

Tên của láng giềng?

Già Hương đã lạ

Lại có Già Lùn

Già cui lắm quả

Góp vị thơm chung

Từ đâu chuối tới

Mọc giữa đất này

Mà ai quen gọi

Chuối Xiêm chuối Tây.

Vua các thứ chuối

Chuối Ngự phải không?

Chuối Tiêu chín bói

Biết có cay nồng.

Chuối Cơm chuối lá

Thân thuộc ai bằng

Chuối Sáp thực lạ

Phải luộc mới ăn.

Tìm hoài chuối Mật

Theo cánh ong bay

Gặp quày chuối Hột

Sau lớp lá dày

Chuối chi làm cảnh

Bắp trổ hình Sen

Chuối Nước nhấp nhánh

Hoa đỏ rực lên…

Bao nhiêu thứ chuối

Ta bứng ta trồng

Vườn xanh mát rượi

Quê mình mênh mông.

(Trần Ngọc Hưởng)

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 4

Kiến thức cần nắm vững

– Khái niệm: Thơ bốn chữ là gì ?

Thơ bốn chữ là thơ có bốn tiếng ở mỗi câu thơ, thường sử dụng vần chân, vần lưng, vần cách, vần liền.

– Đặc điểm của thể thơ bốn chữ:

+ Số chữ: Mỗi dòng có bốn chữ.

+ Khổ: Thường chia khổ, mỗi khổ có 4 dòng.

+ Vần: thường có vần lưng và vần chân xen kẽ nhau, gieo vần liền vần cách hay vần hỗn hợp.

+ Nhịp: 2/2 thích hợp với kể và tả.

– Một số cách gieo vần thường dùng trong thơ bốn chữ:

+ Vần lưng : tiếng đứng cuối câu trước vần với chữ đứng giữa câu sau.

+ Vần chân : tiếng đứng cuối của các câu thơ vần với nhau.

+ Vần liền : tiếng cuối của hai câu liên tiếp vần với nhau.

+ Vần cách : tiếng cuối của hai câu cách nhau vần với nhau.

Hướng dẫn soạn bài Tập làm thơ bốn chữ chi tiết

I. Chuẩn bị ở nhà

1 – Trang 84 SGK

Ngoài bài thơ Lượm, em còn biết thêm bài thơ, đoạn thơ bốn chữ nào khác? Hãy nêu lên và chỉ ra những chữ cùng vần với nhau trong bài thơ đó.

Trả lời:

Ngoài bài thơ Lượm, còn có các bài thơ 4 chữ:

Mùa thu của em

Là vàng hoa cúc

Như nghìn con mắt

Mở nhìn trời êm

Mùa thu của em

Lá xanh cốm mới

Mùi hương như gọi

Từ màu lá sen

(Mùa thu của em – Quang Huy)

Những chữ cùng vần: em – êm, em – en

2 – Trang 84 SGK

Vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ, vần lưng là vần được gieo ở giữa dòng thơ. Hãy chỉ ra đâu là vần chân và đâu là vần lưng trong đoạn thơ sau:

Mây lưng chừng hàng

Về ngang lưng núi

Ngàn cây nghiêm trang

Mơ màng theo bụi.

(Xuân Diệu)

Trả lời:

– Vần chân: hàng – trang

– Vần lưng: lưng – lưng, ngang – màng.

3 – Trang 85 SGK

Vần liền là vần được gieo liên tiếp ở các dòng thơ; vần cách là vần không gieo liên tiếp mà thường cách ra một dòng thơ. Trong hai đoạn thơ sau, đoạn nào gieo vần liền và đoạn nào gieo vần cách:

Cháu đi đường cháu

Chú lên đường xa

Đến nay tháng sáu

Chợt nghe tin nhà

(Tố Hữu)

Nghé hành nghé hẹ

Nghé chẳng theo mẹ

Thì nghé theo đàn

Nghé chớ đi càn

Kẻ gian nó bắt.

(Đồng dao)

Trả lời:

– Vần liền được gieo liên tiếp ở các vần thơ

– Vần cách không được gieo liên tiếp, thường bị cách quãng

– Vần liền: cháu- sáu, ra- nhà

– Vần cách: hẹ- mẹ, đàn- càn

4 – Trang 85 SGK

Đoạn thơ sau đây trích trong bài Chị em của Lưu Trọng Lư, một bạn chép sai hai chữ có vần, em hãy chỉ ra hai chữ đó và thay vào bằng hai chữ sông, cạnh sao cho phù hợp.

Em bước vào đây

Gió hôm nay lạnh

Chị đốt than lên

Để em ngồi sưởi

Nay chị lấy chồng

Ở mãi Giang Đông

Dưới làn mây trắng

Cách mấy con đò.

Trả lời:

– Sửa: Để em ngồi cạnh (thay cho Để em ngồi sưởi)

– Sửa: Cách mấy con sông (thay cho Cách mấy con đò).

5 – Trang 85 SGK

Tập làm một bài thơ (hoặc đoạn thơ) bốn chữ có nội dung kể chuyện hoặc miêu tả về một sự việc hay một con người theo vần tự chọn.

Gợi ý:

Tham khảo bài thơ sau:

Em yêu màu đỏ

Như máu con tim

Lá cờ tổ quốc

Khăn quàng đội viên

Em yêu màu xanh

Đồng bằng, rừng núi

Biển đầy cá tôm

Bầu trời cao vợi

Em yêu màu vàng

Lúa đồng chín rộ

Hoa cúc mùa thu

Nắng trời rực rỡ

(Sắc màu em yêu – Phạm Đình Ân)

II. Soạn bài Tập làm thơ bốn chữ trên lớp

1 -Trang 86 SGK

Trình bày bài (đoạn) thơ bốn chữ đã chuẩn bị ở nhà; chỉ ra nội dung, đặc điểm (vần, nhịp) của bài (đoạn) thơ ấy.

Trả lời:

Ví dụ đoạn thơ bốn chữ:

Hạt nắng mênh mang

Thắp lửa hai hàng

Lòng như gió bay

Một màu phượng cháy.

Vần chân: mang – hàng; bay – cháy

2 -Trang 86 SGK

Cả lớp nhận xét những điểm được và chưa được của bài làm.

3 -Trang 86 SGK

Cả lớp góp ý, từng học sinh sửa chữa bài làm của mình.

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 5

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Thể thơ bốn tiếng có nguồn gốc Việt Nam, xuất hiện từ xa xưa và được sử dụng nhiều trong tục ngữ, ca dao và đặc biệt là vè, do thích hợp với lối kể chuyện (Theo Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971).

2. Đặc điểm về nghệ thuật

Thơ bốn tiếng thường có cả vần lưng và vần chân xen kẽ, gieo vần liền hay cách, nhịp phổ biến là nhịp hai.

a. Vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ; vần lưng là vần được gieo ở giữa dòng thơ.

b. Vần liền là vần được gieo liên tiếp ở các dòng thơ; vần cách là vần không gieo liên tiếp mà thường cách ra một dòng thơ.


II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

Câu 1. Nêu một bài thơ hay một đoạn thơ bốn chữ. Chỉ ra những chữ cùng vần với nhau trong bài thơ hay đoạn thơ đó.

Gợi ý: có thể nêu đoạn thơ (trích trong bài Hạt gạo làng ta).

…“Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy…”

(Trần Đăng Khoa)

Các từ cùng vần với nhau là: ta – ba – sa, sáu – nấu, cờ – bờ.


Câu 2. Chỉ ra đâu là vần chân, đâu là vần lưng trong đoạn thơ sau:

Mây lưng chừng hàng

Về ngang lưng núi

Ngàn cây nghiêm trang

Mơ màng theo bụi.

(Xuân Diệu)

Gợi ý:

– Các cặp vần lưng: hàng – ngang, trang – màng.

– Cặp vần chân: núi – bụi.


Câu 3. Trong hai đoạn thơ sau, đoạn nào gieo vần liền, đoạn nào gieo vần cách:

Cháu đi đường cháu

Chú đi đường ra

Đến nay tháng sáu

Chợt nghe tin nhà.

(Tố Hữu)

Nghé hành nghé hẹ

Nghé chẳng theo mẹ

Thì nghé theo đàn

Nghé chớ đi càn

Kẻ gian nó bắt

(Đồng dao)

Gợi ý: Đoạn thơ của Tố Hữu gieo vần cách, còn đoạn Đồng dao gieo vần liền.


Câu 4. Thay hai từ sông, cạnh vào hai chỗ chép sai trong đoạn thơ sau (trích trong bài Chị em của Lưu Trọng Lư):

Em bước vào đây

Gió hôm nay lạnh

Chị đốt than lên

Để em ngồi sưởi

Nay chị lấy chồng

Ở mãi Giang Đông

Dưới làn mây trắng

Cách mấy con đò.

Gợi ý: Thay sưởi bằng từ cạnh, từ đò bằng từ sông.


Câu 5. Dựa vào những kiến thức vừa được học hãy tập làm một bài thơ (hoặc đoạn thơ) bốn chữ có nội dung kể chuyện hoặc miêu tả về một sự việc hay một con người theo vần tự chọn.

Bài soạn “Tập làm thơ bốn chữ” số 6

I. Chuẩn bị ở nhà bài tập làm thơ bốn chữ

Câu 1 trang 84 SGK văn 6 tập 2

Đoạn thơ bốn chữ khác ngoài bài “Lượm”:

Gió thổi vi vu,
Thành quách hoang vu
Chủ nhân đi vắng.
Tiếng gươm rừng thu
(Chuỗi cười- Hàn Mạc Tử)
Những chữ cùng vần với nhau trong đoạn thơ: vu- thu

Câu 2 trang 84 SGK văn 6 tập 2

Vần chân và vần lưng trong đoạn thơ:

Vần chân: -ui: núi- bụi
Vần lưng: -ang: hàng- ngang


Câu 3 trang 85 SGK văn 6 tập 2

Đoạn thơ gieo vần liền:

Nghé hành nghé hẹ
Nghé chẳng theo mẹ
Thì nghé theo đàn
Nghé chớ đi càn
Kẻ gian nó bắt.
(Đồng dao)
Đoạn thơ gieo vần csch:

Cháu đi đường cháu
Chú lên đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà
(Tố Hữu)


Câu 4 trang 85 SGK văn 6 tập 2

Thay chữ “sưởi” thành chữ “cạnh”:

Em bước vào đây
Gió hôm nay lạnh,
Chị đốt than lên,
Để em ngồi cạnh.
Thay chữ “đò” thành chữ “sông”:

Nay chị lấy chồng
Ở mãi Giang Đông
Dưới làn mây trắng
Cách mấy con sông.


Câu 5 trang 86 SGK văn 6 tập 2

Tập làm một bài thơ (hoặc một đoạn thơ) bốn chữ có nội dung kể chuyện hoặc miêu tả về một sự việc hay một con người theo vần tự chọn:

Mẹ sinh em bé
Em khóc oe oe
Cả nhà nghe tiếng
Cười vui cả ngày.


II. Tập làm thơ bốn chữ trên lớp

Câu 1 trang 86 SGK văn 6 tập 2

Đoạn thơ đã chuẩn bị ở nhà:

Mẹ sinh em bé
Em khóc oe oe
Cả nhà nghe tiếng
Cười vui cả ngày.
Vần của đoạn thơ: bé- oe

Nhịp của đoạn thơ: 2/2

Câu 2 trang 86 SGK văn 6 tập 2

Nhận xét ưu khuyết điểm của bài làm

Câu 3 trang 86 SGK văn 6 tập 2

Góp ý, sửa chữa bài làm

Câu 4 trang 86 SGK văn 6 tập 2

Đánh giá và xếp loại bài làm

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” lớp 9 hay nhất

Thơ ca là tiếng nói của cảm xúc, là nhịp tâm hồn, là tiếng lòng của tác giả. Nghe thơ, đọc thơ, làm thơ là nghệ sĩ của nghệ thuật cao quý. Nhưng không phải ai thích thơ cũng làm được thơ. Nghề nào cũng thế, lĩnh vực nào cũng vậy, không có luyện tập, không có kĩ năng thì chẳng thể làm nên nghệ thuật. Làm thơ bên cạnh năng khiếu cũng phải có kiến thức, phải có rèn luyện mới có thơ hay. Trong chương trình Ngữ văn lớp 9 chúng ta có cơ hội rèn luyện làm thơ, nắm bắt kiến thức cơ bản về thơ tám chữ qua bài học “Tập làm thơ tám chữ”. Bài học vô cùng bổ ích giúp chúng ta có thêm thật nhiều kiến thức và kĩ năng trong việc sáng tạo thơ ca. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” hay nhất mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu hơn và chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 1

I. Nhận diện thể thơ tám chữ

1. Đọc thơ

2. Đối với thể thơ tám chữ, người ta có thể gieo vần theo nhiều cách (vần chân, vần lưng) phổ biến nhất vẫn là vần chân (những chữ in đậm là vị trí gieo vần); được gieo liên tiếp, gián cách hoặc kết hợp cả hai

3. Thể thơ tám chữ không bị bó về số dòng thơ, có thể tổ chức thành các khổ thơ (thường là khổ 4 câu); ngắt nhịp tự do, linh hoạt

II. Rèn luyện kĩ năng

1. Thứ tự các từ cần điền là: ca hát, ngày qua, bát ngát, muôn hoa

2. Thứ tự: cũng mất, tuần hoàn, mãi, đất trời

3. Câu thơ thứ 3 trong bài Tựu trường của Huy Cận sai ở chỗ: sử dụng từ rộn rã

Từ này không vần với từ “gương” ở câu thơ thứ hai.

Sửa: Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường

4. Học sinh tự tìm chủ đề và làm thơ tám chữ

Hà Nội vào hè râm ran tiếng ve

Những đứa trẻ tan trường cười rộn rã

Nghe bàn chân gợi về ngôi trường cũ

Nắng ươm vàng rủ mái ngói thân quen

III. Thực hành làm thơ tám chữ

1. Từ thích hợp điền vào khổ thơ lần lượt là: vườn, qua

2. Câu thơ: Hạ qua rồi còn xác lá thu bay.

3. Cần nhận định thể thơ có đúng 8 chữ không, có gieo vần, ngắt nhịp chưa, cách gieo vần ngắt nhịp đặc sắc

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 2

I. NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

1. Đọc các đoạn thơ sau:

2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.

b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.

c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.

Trả lời:

a. Mỗi dòng ở các đoạn thơ có 8 chữ.

b. Có nhiều cách gieo vần (vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách) nhưng phổ biến nhất vẫn là gieo vần chân :

– Đoạn thơ (a) : vần chân liền tan – ngàn (câu 2 – 3), bừng – rừng (câu 6 – 7).

– Đoạn thơ (b) : vần chân liền học – nhọc (câu 3 – 4), bà – xa (câu 5 -6).

– Đoạn thơ (c) : vần chân cách ngát – hát (câu 1 – 3), non – son (câu 2 – 4), đứng – dựng (câu 5 – 7), tiên – nhiên (câu 6 – 8).

c. Cách ngắt nhịp tự do, linh hoạt diễn tả những trạng thái khác nhau.


II. LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Trả lời câu 1 (trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.

Hãy cắt đứt những dây đàn /…/

Những sắc tàn vị nhạt của /…/

Nâng đón lấy màu xanh hương /…/

Của ngày mai muôn thuở với /…/.

Trả lời:

Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát

Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua

Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát

Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.

Trả lời câu 2 (trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/;

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn /…/

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /…/;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than phiền tiễn biệt…

Trả lời:

– Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

– Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

– Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.

Giờ nao nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!

Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Trả lời:

– Đoạn thơ trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thơ thứ ba với từ “rộn rã”. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ “gương” ở cuối câu thơ trước đó; đồng thời cụm từ “vào trường” còn có tác dụng liên kết về ý với toàn bài.

– Sửa lại:

Giờ náo nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương

Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Trả lời câu 4 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.

Trả lời:

Tự làm một bài thơ tám chữ (tham khảo):

Đó là nơi tôi hằng yêu mến nhất

Ngôi trường xưa bé nhỏ dưới lùm cây

Bao bạn bè ở lứa tuổi thơ ngây

Cùng tôi sống những tháng ngày tươi đẹp…


III. THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ

Trả lời câu 1 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:

Trời trong biếc không qua mây gợn trắng

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.

(Theo Anh Thơ, Trưa hè)

Trả lời:

Trời trong biếc không qua mây gợn trắng

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.

Trả lời câu 2 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):

Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.

Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ

Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường

Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã

/…/

Trả lời:

Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ

Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường

Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã

Sao trong lòng giờ vẫn cứ vấn vương

Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1): Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình.– Bài thơ có đúng thể tám chữ không?

– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?

– Kết cấu bài thơ có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?

– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?

Trả lời:

Gợi ý: Ngoài nhận xét về vần, nhịp đã đạt chưa, nếu có bài thơ hay, câu thơ hay nên “bình” để làm sáng rõ cái hay, cái đẹp của bài thơ, câu thơ.

Đoạn thơ tham khảo:

Lòng chợt buồn nhớ lại thời thơ ấu

Thời gian trôi thấm thoát đã lớn khôn

Kỉ niệm ngày xưa bao điều chôn giấu

Bỗng ùa về trong nỗi nhớ quê hương.

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 3

I. NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Câu 1 trang 148 SGK Ngữ văn 9 tập 1:
Đọc các đoạn thơ sau:
a) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
b) Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
(Bằng Việt, Bếp lửa)
c) Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non

Yêu biết mấy, những con đường ca hát

Qua công trường mới dựng mái nhà son!
Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng

Của đời ta chập chững buổi đầu tiên

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng

Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
(Tố Hữu, Mùa thu mới)
Trả lời:

a. Ở các đoạn thơ đã cho, mỗi dòng thơ có tám chữ (tiếng)

b. – Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ nhất: tan – ngàn; mới – gội; bừng – rừng; gắt – mật. Đây là cách gieo vần chân liên tiếp, chuyển đổi theo từng cặp.
– Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ hai: về – nghe; học – nhọc; nhà – xa; gắt – mật. Đây là cách gieo vần chân liên tiếp, chuyển đổi theo từng cặp.
– Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ ba: hát – ngát; non – son; đứng – dựng; tiên – nhiên. Đây là cách gieo vần chân gián cách.
c. Cách ngắt nhịp trong mỗi đoạn thơ cũng rất đa dạng:

– Nào đâu / những đêm vàng / bên bờ suối

Ta say mồi / đứng uống / ánh trăng tan

Đâu những ngày / mưa chuyển / bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm / giang sơn / ta đổi mới?
– Mẹ cùng cha / công tác bận / không về

Cháu ở cùng bà,/ bà bảo / cháu nghe…


Câu 2 trang 149 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.
b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
Trả lời:

a) Số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ là: 8 chữ.
b) Cách gieo vần:
+ Vần chân liền
+ Vần chân cách.
→ Theo từng khuôn âm.
+ Hình thức: có thể dài, ngắn tùy ý.
c) Cách ngắt nhịp tự do, đa dạng, linh hoạt.


II. LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Câu 1 trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn /…/

Những sắc tàn vị nhạt của /…/

Nâng đón lấy màu xanh hương /…/

Của ngày mai muôn thuở với /…/.
Trả lời:
Điền từ thích hợp vào chỗ trống:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát

Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua

Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát

Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.


Câu 2 trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/;

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn /…/

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /…/;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than phiền tiễn biệt…
Trả lời:

– Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

– Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

– Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Câu 3 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!

Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời:

Đoạn thơ trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thơ thứ ba với từ “rộn rã”. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ “gương” ở cuối câu thơ trước đó; đồng thời cụm từ “vào trường” còn có tác dụng liên kết về ý với toàn bài.
Giờ náo nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương

Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Câu 4 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.

Trả lời:
Tự làm một bài thơ tám chữ (tham khảo):
Đó là nơi tôi hằng yêu mến nhất

Ngôi trường xưa bé nhỏ dưới lùm cây

Bao bạn bè ở lứa tuổi thơ ngây

Cùng tôi sống những tháng ngày tươi đẹp…

III. THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ

Câu 1 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:

Trời trong biếc không qua mây gợn trắng

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.
(Theo Anh Thơ, Trưa hè)
Trả lời:
Điền từ thích hợp vào chỗ trống:Trời trong biếc không qua mây gợn trắngGió nồm nam lộng thổi cánh diều xaHoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắngLũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.

Câu 2 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ

Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường

Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã /…/

Trả lời:
Điền một câu thơ cuối sao cho phù hợp với đoạn thơ:

Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ

Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường

Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã

Sao trong lòng giờ vẫn cứ vấn vương

Câu 3 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình.

– Bài thơ có đúng thể tám chữ không?

– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?

– Kết cấu bài thơ có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?

– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?

Gợi ý:

Ngoài nhận xét về vần, nhịp đã đạt chưa, nếu có bài thơ hay, câu thơ hay nên “bình” để làm sáng rõ cái hay, cái đẹp của bài thơ, câu thơ.

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 4

Nhận diện thể thơ tám chữ

Câu 2 – Trang 149 SGK

Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên (trang 148 SGK)

b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.

c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.

Trả lời

a) Mỗi dòng (ở tất cả 3 đoạn trích) đều gồm 8 chữ.

b)

Đoạn 1: các tiếng bắt vần nhau: tam – ngàn, suối – mới – gợi, bừng – rừng, gắt – mật.

➜ Nhận xét: gieo vần liên tiếp

Đoạn 2: các tiếng bắt vần nhau: về – nghe, học – nhọc, bà – xa

➜ Nhận xét: gieo vần liên tiếp

Đoạn 3: các tiếng bắt vần nhau: ngát – hát, non – son, đứng – đựng, tiên – nhiên

➜ Nhận xét: gieo vần gián cách.

c) Cách ngắt nhịp của thể thơ tám chữ cũng rất đa dạng, linh hoạt.

Chẳng hạn:

– Nào đâu/những đêm vàng/ bên bờ suối

Ta say mồi/ đứng uống/ ánh trăng tan

Đâu những ngày/ mưa chuyển/ bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm/ giang sơn ta/ đổi mới…

– Mẹ cùng cha/ công tác bận/ không về

Cháu ở cùng bà/ bà bảo/ cháu nghe…

Luyện tập nhận diện thể thơ tám chữ

Câu 1 – Trang 150 SGK

Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ngữ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.

Trả lời:

Hãy cắt đứt những dây đàn /ca hát/

Những sắc tàn vị nhạt của /ngày qua/

Nâng đón lấy màu xanh hương /bát ngát/

Của ngày mai muôn thuở với /muôn hoa/

(Tố Hữu, Tháp đổ)

Câu 2 – Trang 150 SGK

Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.

Trả lời

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi /cũng mất/

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn /tuần hoàn/.

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /đất trời/;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thâm tiễn biệt…


Câu 3 – Trang 151 SGK

Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.

Giờ nao nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!

Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Trả lời

Câu thứ ba bị chép sai ở mấy chữ rộn rã

Li do: Đây là khổ thơ gieo vần gián cách. Lẽ ra hai chữ cuối cùng câu thứ 3 phải hợp vần với hai chữ cuối cùng câu thứ nhất. Vì chép sai nên rộn rã không vần được với trẻ lại.

Sửa: Những chàng trai mười tám tuổi vào trường hoặc Những chàng trai tuổi mới độ mười hai.


Câu 4 – Trang 151 SGK

Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.

Hướng dẫn

Nếu chưa quen với thể thơ này, trước hết em chưa cần làm hay, mà hãy làm cho “xuôi nghĩa” (thông về nghĩa, không gượng ép đến nỗi mất cả nghĩa) và “xuôi tai” (đảm bảo đúng số chữ, có vần, có nhịp).


Thực hành làm thơ tám chữ

Câu 1 – Trang 151 SGK

Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:

Trời trong biết không qua mây gợn trắng

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.

(Theo Anh Thơ, Trưa hè)

Trả lời

Đọc toàn bộ khổ thơ để thấy khổ thơ này gieo vần gián cách: Tiếng “trắng” (câu 1) vần với tiếng “nắng” (câu 3). Vậy tiếng cuối cùng của câu 4 phải mang thanh bằng và chứa vần “a” để vần với “xa” ở câu 2. Tiếng thứ sáu câu 3 phải là thanh bằng để giữ nhịp (đổi thanh điệu so với câu 2).

Khổ thơ chép đầy đủ là:

Trời trong biếc không qua mây gợn trắng,

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.

Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.

(Anh Thơ, Trưa hè)


Câu 2 – Trang 151 SGK

Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.

Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ

Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường

Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã/…/

Gợi ý:

Em tự sáng tác câu thơ thứ tư. Gợi ý: Với 3 câu đã cho, ta thấy khổ thơ gieo vần gián cách: tiếng “lạ” (Câu 1) vần với “rã” (Câu 3). Vậy tiếng cuối cùng câu 4 phải vần với “trường” (Câu 2). Ngoài ra còn phải tính đến sự phù hợp về nghĩa.

Ví dụ:

– Áo trắng tung bay vui bước tới trường.

– Bước chân nhẹ nâng tà áo trắng sương.

– Cô giáo hiền những cử chỉ thân thương.


Câu 3 – Trang 151 SGK

Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. Cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình theo các tiêu chí sau:

– Bài thơ đó có đúng thể 8 chữ không?

– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?

– Kết cấu bài thơ đó có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?

– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 5

A. YÊU CẦU

– HS hiểu được: Thơ tám chữ là thể thơ mỗi dòng tám chữ, cách ngắt nhịp đa dạng. Bài thơ theo thể này có thể gồm nhiều đoạn, có thể dược chia thành nhiều khổ, số câu không hạn định, cách gieo vần chủ yếu là vần chân (liên tiếp hoặc gián cách).

– Tập làm thơ theo thể thơ này.

B. GỢl Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP

NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Bài tập 1. Đọc các đoạn thơ sau:

a) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gọi,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

(Thê Lữ, Nhớ rừng)

b)

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bào cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương hà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng hù

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

(Bằng Việt, Bếp lửa)

c) Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát

Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non

Yêu biết mấy, những con đường ca hát

Qua công trường mới dựng mái nhà son!

Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng

Của đời ta chập chững buổi dầu tiên

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng

Dám vươn mình cai quàn lại thiên nhiên!

(Tố Hữu, Mùa thu mới)

Bài tập 2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.

b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ờ mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách dà học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.

c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi doạn thơ trên.

Gợi ý

a) Mỗi dòng thơ trong các đoạn thơ trên đều có tám chữ.

b) Đoạn thơ trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp: tan – ngàn, mới – gội, bừng – rừng, gắt – mật.

Đoạn thơ trong bài Bếp lửa của Bằng Việt gieo vần chân, liên tiếp: về – nghe, học – nhọc, bà – xa.

Đoạn thơ trong bài Mùa thu mới của Tố Hữu gieo vần chân, gián cách: ngát – hát, non – son, dứng – dựng, tiên – nhiên.

c) Cách ngắt nhịp đa dạng, linh hoạt. Ví dụ, đoạn thơ thứ nhât:

Nào đâu / những đêm vàng hên hờ suối (2/6)

Ta say mồi /đứng uống ánh trăng tan? (3/5)

Đâu những ngày / mưa chuyển bốn phương ngàn (3/5)

Ta lặng ngẩm /giang sơn ta đổi mới? (3/5)

Đâu những bình minh /cây xanh nắng gội, (4/4)

Tiếng chim ca/giấc ngủ ta tưng bừng (3/5)

Đâu những chiều /lênh láng máu sau rừng (3/5)

Ta đợi /chết mảnh mặt trời gay gắt, (2/6)

Để ta chiếm lấy / riêng phần bí mật? (4/4)

– Than ôi!/Thời oanh liệt/nay còn đâu? (2/3/3)

(Thế Lữ, Nhớ rừng)

LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Bài tập 1. Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ngữ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.

Hãy cắt đứt những dây đàn /… /

Những sắc tàn vị nhạt của /… /

Nâng đón lấy màu xanh hương /… /

Của ngày mai muôn thuở với /… /.

Gợi ý

Căn cứ vào sự phù hợp về nghĩa, vần và nhịp, ta điền vào chỗ trống như sau:

Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát

Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua

Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát

Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.

(Tố Hữu, Tháp đổ)

Bài tập 2. Đoạn thư sau trích trong bài Vội vùng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi /… /;

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.

Không cho dài thời trẻ cua nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn /… /

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Cồn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /… /;

Mùi thúng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Gợi ý

Điền từ ngữ còn thiếu trong các câu thơ của Xuân Diệu là:

Mù xuân hết nghĩa lù tôi cũng mất;

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nên bâng khuâng tôi tiếc cà đất trời;


Bài tập 3. Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.

Giờ nao nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hời tường trắng, cửa gương!

Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,

Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Gợi ý

Nếu vần chân, gián cách thì các cặp 1 – 3, 2 – 4 không hợp vần. Từ “rộn rã” không phù hợp với ngữ nghĩa của câu thơ. Như vậy, khổ thơ được gieo vần chân, liên tiếp. Tiếng được gieo vần chân là “gương” và “trường”.

Câu thơ thứ ba là:

Những chàng trai mười lăm tuổi vào (tới) trường.

Bài tập 4. Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành ưên lơp.

Gợi ý

Yêu cầu bài hoặc đoạn thơ em làm phải:

– Thông về nghĩa.

– Đảm bảo đúng số chữ, có vần, có nhịp.

Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 6

Phần I

NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Trả lời câu hỏi (trang 149 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

a. Có 8 chữ trong mỗi dòng thơ

b.

– Đoạn thơ của Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp: tan – ngàn, mới – gội, bừng – rừng, gắt – mật.

– Đoạn thơ của Bằng Việt gieo vần chân, liên tiếp: về – nghe, học – nhọc, bà – xa.

– Đoạn thơ của Tố Hữu gieo vần chân, gián cách (cách một câu mới có vần với nhau): ngát – hát, non – son, đứng – dựng, tiên – nhiên.

c. Cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ linh hoạt: 2/3/3, 3/2/3, 2/2/4, 3/5,….

Phần II

LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ

Trả lời câu 1 (trang 150 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

(1): ca hát

(2): ngày qua

(3): bát ngát

(4): muôn hoa


Trả lời câu 2 (trang 150 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

(1): cũng mất

(2): tuần hoàn

(3): đất trời


Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Câu thơ thứ ba bị chép sai ở từ rộn rã. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ gương ở cuối câu thơ trên (đoạn thơ gieo vần chân liên tiếp).

– Đoạn thơ được chép đúng là:

Giờ nao nức của một thời trẻ dại !

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương !

Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường ,

Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.


Trả lời câu 4 (trang 151 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Tự sáng tác thơ

Phần III

THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ

Câu 1:

(1): vườn

(2): qua


Câu 2:

Bước chân nhẹ nâng tà áo trắng sương

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go lớp 11 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go lớp 11 hay nhất

Bài thơ số 28 trích trong tập Người làm vườn (các bài trong tập thơ này không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự) – một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chinh phục độc giả nhiều nước. Bài thơ này ông làm khi người vợ yêu dấu Mri-na-li-ni-đê-vi qua đời (1902). Bài thơ thể hiện quan niệm về một tình yêu chân chính. Quan niệm đó được thể hiện như thế nào, mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn hay nhất mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 1

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

R. Ta – go (1861 – 1941) là nhà văn nhà văn hóa lớn của Ấn Độ – có những cống hiến quan trọng cho văn hóa Ấn Độ, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại vì độc lập, hòa bình và hữu nghị.

Ta – go để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng thành công xuất sắc: 52 tập thơ 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch, 63 tập tiểu luận triết học, khoảng 2000 bài ca, hàng nghìn bức họa… Trong đó tập Thơ Dâng đã đem đến cho ông vinh dự của người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô – ben về văn học vào năm 1913.

2. Tác phẩm Người làm vườn

Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta – go, tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí của Ta – go, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.

Các bài thơ Người làm vườn không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự. Bài số 28 là một trong những bài thơ hay nhất của Ta – go, có mặt trong nhiều tuyển tập thơ tình thế giới.

Bố cục: 3 phần:

+ Phần 1 (từ đầu đến “biết gì tất cả về anh“): Tình yêu là sự hiểu biết trong tâm hồn

+ Phần 2 (tiếp đến “biên giới của nó đâu“): Tình yêu là sự hiến dâng và đón nhận

+ Phần 3 ( Còn lại): Những nghịch lí diễn tả sự đa dạng của tình yêu

II. Hướng dẫn đọc thêm

Câu 1 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

– Hình ảnh so sánh tượng trưng:

+ Mắt em – trăng: thế giới nội tâm phong phú, trong sáng.

+ Tâm tưởng của anh – biển cả: thế giới bí ẩn, bao la.

→ Trăng và biển là biểu tượng thiên nhiên sóng đôi, thể hiện khao khát hòa chung tâm tưởng của đôi tình nhân được đẩy lên tới đỉnh điểm.

=> Hình ảnh trong sáng, tiêu biểu cho quan niệm về con người của Ta – go và người dân Ấn Độ.

Câu 2 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

* Lối cấu trúc giả định A không chỉ là B mà (lại) là C trong:

+ Đời anh chỉ là viên ngọc.

+ Đời anh chỉ là đóa hoa.

=> Hiện thực hóa cuộc đời thành những sự vật cụ thể, tượng trưng cho sự quý giá (ngọc) và thanh cao (hoa). Cuộc đời của thi nhân ngầm chứa sự quý giá và thanh cao ấy. Qua đó thể hiện sự hi sinh của chàng trai:

+ Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.

+ Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.

=> Nhấn mạnh khát vọng tận hiến nồng nhiệt của chàng trai.

* Lối cấu trúc giả định A không chỉ là B mà (lại) là C trong:

+ Trái tim (cụ thể) – phút giây lạc thú (trừu tượng) – nở thành nụ cười nhẹ nhõm.

+ Trái tim (cụ thể) – khổ đau (trừu tượng) – tan thành lệ trong, phản chiếu nỗi niềm u uẩn.

=> Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải để người mình yêu thấu suốt trái tim được dễ dàng hơn.

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú với khổ đau với tình yêu nhà thơ muốn thể hiện triết lí về cuộc đời, về trái tim:

– Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng.

– Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của những tâm trạng phức tạp, thậm chí đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.

Câu 3 (trang 62 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Để bày tỏ khát khao của mình, chàng trai bày tỏ hết lòng mình không giấu điều gì trước mắt người yêu nhưng lại rơi vào nghịch lí: chính vì thế mà người yêu “không biết gì tất cả về anh…”

Cách nói đấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ nắm bắt được.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 2

I. Tác giả

1. Tiểu sử – Cuộc đời
– Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941)
– Ta-go sinh tại Kalculta trong một gia đình thuộc đẳng cấp Brahman – đẳng cấp cao nhất trong xã hội Ấn Độ (Brahman – Kshastriya – Vaisya – Soudra – Pariah). Cha của Tagore là một điền chủ giàu có đồng thời là một nhà cải cách tôn giáo, có nhiều đóng góp cho xã hội Ấn Độ.
– Là một nhà thơ, nhà văn, đồng thời là một nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng góp cho dân tộc Ấn Độ và nhân loại.
– Ông để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc.

2. Sự nghiệp văn học

a. Các tác phẩm chính
– Ông để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào ông cũng thành công suất sắc:
+ 52 tập thơ.
+ 12 bộ tiểu thuyết.
+ 42 vở kịch.
+ Hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn ca khúc, hàng nghìn bức hoạ…
– Năm 1913, Ta-go là người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học với tập “Thơ Dâng” (gồm 103 bài, sáng tác từ 1890-1912 và ông tự dịch ra tiếng Anh).
b. Phong cách nghệ thuật
– Ta-go đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết.
– Thơ Ta-go cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình – triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Ta-go.

II. Tác phẩm
1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời
* Xuất xứ:
– Bài thơ số 28 trích trong tập Người làm vườn (các bài trong tập thơ này không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự).
* Tập thơ “Người làm vườn”
– Là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chinh phục độc giả nhiều nước.
– Gồm 85 bài thơ, sáng tác bằng tiếng Ben-gan, sau tác giả tự dịch sang tiếng Anh và xuất bản năm 1914.
– Tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.
* Hoàn cảnh ra đời
– Bài thơ này ông làm khi người vợ yêu dấu Mri-na-li-ni-đê-vi qua đời (1902).
2. Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến…không biết gì tất cả về anh): Khát vọng hòa hợp trong tình yêu.
+ Phần 2 (Tiếp đến…em có biết gì về biên giới của nó đâu): Khát vọng dâng hiến trong tình yêu.
+ Phần 3 (Còn lại): Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu.
3. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện quan niệm về một tình yêu chân chính.
+ Tình yêu cần sự thấu hiểu, cần đến từ hai phía.
+ Tình yêu ẩn chứa nhiều bí ẩn, là một thế giới thiêng liêng, vô hạn.
+ Tình yêu là cuộc sống, hướng con người đến cái thiện, cái đẹp trong tâm.
4. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ sử dụng hình tượng so sánh độc đáo, diễn tả được những khao khát đẹp trong tình yêu.
– Tác giả dùng cấu trúc so sánh – ẩn dụ trùng điệp, cấu trúc sóng đôi một cách sáng tạo, đưa ra được những triết lí về tình yêu.

III. Một số nhận định về tác giả tác phẩm
1. “Ta-go đã sáng tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Đó là một thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca của ông. Chúng ta có thể bước đầu nhận diện phong cách thơ của Ta-go qua một số nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật của ông về cuộc sống, con người, về ngôn ngữ thơ, về tính trữ tình kết hợp với triết lí, chất hiện thực hòa quyện yếu tố lãng mạn”.
(Theo Lê Nguyên Cẩn, Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường)
2. “Tình yêu trong thơ Ta-go không có cái dung tục tầm thường, không phải thứ tình yêu rầu rĩ, rên xiết, cũng không phải thứ tình yêu quá cao siêu, quá lí tưởng. Ta-go tìm sự hòa hợp giữa hai tâm hồn, tìm tự do trong tình yêu”.
(Theo G.S Lưu Đức Trung, Văn học Ấn Độ)


IV. Trả lời câu hỏi

Câu 1 (Trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện khao khát trong tình yêu

+ Đôi mắt dưới nhãn quan của nhà thơ trở nên kì diệu, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu

+ Đôi mắt cũng chứa băn khoăn, u buồn vì khát khao trên vô vọng

+ Tất cả sự cố gắng “nhìn sâu vào tâm tưởng anh” đều trở nên vô vọng khi đáy sâu tâm hồn (trái tim, cảm xúc) không dễ nắm bắt, thấu tỏ

→ Khát vọng thấu hiểu trong tình yêu

Câu 2 (trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

– Cấu trúc giả định rồi phủ định, tới kết luận được lặp đi lặp lại nhằm thể hiện triết lí của Tago về trái tim, tình yêu

+ Gỉa thiết đời anh quý giá, đẹp đẽ như hoa ngọc, anh sẵn lòng dâng tặng em

– Tago muốn thể hiện sự vẹn toàn bộ cho người yêu

– Nhưng trái tim, tâm hồn là thế giới bí ẩn, thăm thẳm không thể dâng trọn vẹn một lần

– Trái tim là sự phức hợp của tình yêu, nỗi vui sướng, khổ đau là vô biên

→ Tago muốn người đọc hiểu rằng trái tim tình yêu không đơn giản. Khát khao lạc thú cũng như nỗi đau khổ, buồn bã trong tình yêu là vô bờ, những người yêu nhau phải hiểu để cùng tận hưởng, chịu đựng vượt qua

Câu 3 (trang 62 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Điều quý giá nhất cuộc đời một chàng trai là trái tim, thế giới bí ẩn, vô biên, vương quốc mà cô gái là nữ hoàng nhưng cũng không thể biết hết biên giới

– Đây chính là khoảng cách không bao giờ phá nổi, đỉnh cao không bao giờ chinh phục của tình yêu

– Đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người

– Bài thơ có kết cấu tầng bậc, lớp lang:

+ Diễn tả sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em nhưng em không thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh

+ Sự phức tạp của trái tim khi yêu

– Sự đối lập giữa khao khát giãi bày, dâng hiến, chan hòa với tâm hồn người yêu, sự bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim

→ Tình yêu vẫn là niềm khao khát của muôn người, và muôn đời

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số

Câu 1 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Hình tượng so sánh trong câu thơ mở đầu:

Như
Đôi mắt em
muốn nhìn vào
tâm tưởng của anh
Trăng kia
muốn vào sâu
biển cả
thể hiện niềm khao khát gì trong tình yêu?

Lời giải chi tiết:

– Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

– Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cá về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.


Câu 2 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Lối cấu trúc đưa ra những giả định (nếu A chỉ là B) rồi phủ định (nhưng A lại là C) để đi đến kết luận được sử dụng trùng điệp trong bài nhằm mục đích gì?

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú, khổ đau với tình yêu, Ta-go muốn nói gì về cuộc đời, về trái tim?

Lời giải chi tiết:

– Cấu trúc giả định rồi phủ định, tới kết luận được lặp đi lặp lại nhằm thể hiện triết lí của Tago về trái tim, tình yêu: giả thiết đời anh quý giá, đẹp đẽ như hoa ngọc, anh sẵn lòng dâng tặng em

– Tago muốn thể hiện sự vẹn toàn bộ cho người yêu

– Nhưng trái tim, tâm hồn là thế giới bí ẩn, thăm thẳm không thể dâng trọn vẹn một lần

– Trái tim là sự phức hợp của tình yêu, nỗi vui sương, khổ đau là vô biên

=> Tago muốn người đọc hiểu rằng trái tim tình yêu không đơn giản. Khát khao lạc thú cũng như nỗi đau khổ, buồn bã trong tình yêu là vô bờ, những người yêu nhau phải hiểu để cùng tận hưởng, chịu đựng vượt qua


Câu 3 (trang 62 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Cách nói nghịch lí không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh

mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Hãy ghi lại những câu có cách nói nghịch lí như vậy. Cách nói ấy thể hiện điều kì diệu gì trong tình yêu?

Lời giải chi tiết:

* Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đỉnh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.


Bố cục

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (từ đầu đến “biết gì tất cả về anh“): Tình yêu là sự hiểu biết trong tâm hồn

– Phần 2 (tiếp đến “biên giới của nó đâu“): Tình yêu là sự hiến dâng và đón nhận

– Phần 3 (còn lại): Những nghịch lí diễn tả sự đa dạng của tình yêu

Nội dung chính

Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có một tình yêu trọn vẹn thì con người phải biết khám phá, hòa hợp và tin yêu.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 4

Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà văn, nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Suốt đời mình, ông đã phấn đấu không mệt mỏi và có những cống hiến quan trọng cho sự nghiệp phục hưng văn hoá Ấn Độ, giải phóng Ấn Độ khỏi ách thực dân ; góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại và độc lập, hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Năm 1961, UNESCO đã kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông.

– Ta-go để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng thành công xuất sắc : 52 tập thơ, 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch, 63 tập tiểu luận triết học, khoảng 2000 bài ca, hàng nghìn bức hoạ,… Trong đó, tập Thơ Dâng đã đem đến cho ông vinh dự của người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học vào năm 1913.

– Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go. Tác phẩm gồm 85 bài thơ, được Ta-go viết bằng tiếng Ben-gan, sau tự dịch sang tiếng Anh và xuất bản năm 1914. Tên tác phẩm gợi hình tượng nhà thơ nguyện làm người chăm sóc vườn hoa cuộc đời. Với Ta-go, vườn đời thật tươi đẹp, sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên; và thi nhân chính là người hát ca, người vun xới những bông hoa tình yêu ấy. Người làm vườn rất tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí của Ta-go, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tình thân nhân loại. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, chinh phục độc giả nhiều nước, phương Đông cũng như phương Tây.

– Các bài trong tập thơ Người làm vườn không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự.

2. Tác phẩm

– Bài thơ số 28 là một trong những bài thơ hay nhất của Ta-go, có mặt trong nhiều tuyển tập thơ tình thế giới.

– Nội dung: Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có tình yêu trọn vẹn chỉ có một cách là luôn khám phá cái bí ẩn, cái sâu xa của tình yêu.

– Nghệ thuật:

+ Kiểu cấu trúc sóng đôi, thơ giàu chất trí tuệ

+ Sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ sinh động, giàu ý nghĩa.


Gợi ý trả lời các câu hỏi

Câu 1 – Trang 62 SGK

Hình tượng so sánh trong câu thơ mở đầu:

Như
Đôi mắt em
muốn nhìn vào
tâm tưởng của anh
Trăng kia
muốn vào sâu
biển cả
thể hiện niềm khao khát gì trong tình yêu?

Trả lời:

Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.

Câu 2 – Trang 62 SGK

Lối cấu trúc đưa ra những giả định (nếu A chỉ là B) rồi phủ định (nhưng A lại là C) để đi đến kết luận:

được sử dụng trùng điệp trong bài nhằm mục đích gì?

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú, khổ đau với tình yêu, Ta-go muốn nói gì về cuộc đời, về trái tim?

Trả lời:

Những câu thơ tiếp theo, Ta-go đưa ra liên tiếp những giả định. Nếu cuộc đời anh là một đoá hoa, một viên ngọc, anh sẽ hái nó, sẽ xâu nó thành một chuỗi dâng tặng cho em. Nhưng cuộc đời anh đâu phải thế. Bởi “đời anh là một trái tim”. Nếu trái tim anh “chỉ là một phút giây lạc thú”, thì em cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm; nếu trái tim anh “chỉ là đau khổ” thì người yêu cũng dễ thông cảm bằng hàng lệ trong. Nhưng đâu chỉ có thế. Chàng trai biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: “trái tim anh lại là tình yêu”. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, đau khổ dễ chia sẻ, cảm thông mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung sướng – vừa khổ đau, vừa thiếu thốn – vừa giàu sang, mà tất cả lại đều vô biên, trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được.

Bài thơ là hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh: Đôi mắt em muốn nhìn… như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đoá hoa (những cái đẹp đẽ nhất, quý giá nhất), em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái bí ẩn vô biên của trái tim anh)… Hệ thống những hình ảnh so sánh, tượng trưng này làm cho tình yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những màu sắc huyền diệu. Bài thơ gợi niềm say mê chính là vì thế.

Bài thơ rất giàu chất triết lí. Đưa ra những lập luận, những giả thiết rồi lại phản bác, Ta-go muốn khẳng định: Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để khẳng định sự bí ẩn, sâu xa của tâm hồn và cũng đồng thời nhấn mạnh những quy luật muôn đời của tình yêu. Với tình yêu, Ta-go khẳng định: Tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và luôn là một cuộc khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là khát khao vĩnh cửu của con người.

Câu 3 – Trang 62 SGK

Cách nói nghịch lí không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh

mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Hãy ghi lại những câu có cách nói nghịch lí như vậy. Cách nói ấy thể hiện điều kì diệu gì trong tình yêu?

Trả lời:

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đỉnh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tổn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hòa hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.

Ghi nhớ

Bài thơ số 28 khẳng định mối quan hệ huyền diệu, bí ẩn giữa tình yêu và đời sống con người. Qua đó, tác giả nêu lên quan niệm rất tinh tế về tình yêu: Đó là sự hiểu biết và hòa điệu giữa hai người, luôn hàm chứa nhiều nghịch lí và bí mật, đòi hỏi phải luôn khám phá nhưng chẳng bao giờ hiểu được một cách trọn vẹn.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 5

KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Nội dung:

Bài thơ số 28 hướng về một tình yêu trường cửu, vô biên. Tình yêu không bao giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có tình yêu trọn vẹn chỉ có cách là luôn khám phá cái bí ẩn, cái sâu xa của tình yêu.

Nghệ thuật:

Ta – go đã vận dụng bút pháp hướng nội, thực hiện lối cấu trúc theo tầng bậc: từ thấp đến cao, hoặc từ ngoài vào trong. Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm kết hợp với thủ pháp so sánh, tượng trưng, ẩn dụ làm rõ thêm chất suy tư triết lý trong bài thơ. Giọng điệu bóng bẩy, trữ tình nhưng đồng thời cũng đầy chất triết lý.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1: SGK – 62:

Hình ảnh so sánh trong câu mở đầu thể hiện niềm khát khao hòa hợp, hiểu biết nhau trong tình yêu. Đôi mắt như ánh sáng lung linh diệu huyền muốn rọi sáng tận đáy sâu trái tim người yêu. Khát khao thấu hiểu người mình yêu là chính đáng nhưng vô vọng bởi chiều sâu tâm tưởng anh là vô cùng như chiều sâu của biển cả.

Câu 2: SGK – 62:

Lối cấu trúc giả định rồi phủ định để đi đến kết luận nhằm thể hiện triết lý của Tago về tình yêu. Từ những tương đồng khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú và tình yêu, Tago muốn nói:

Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.

Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.

Nghĩa là Tago muốn dâng trọn vẹn cho người yêu nếu có thể được. Nhưng nhà thơ lại thừa nhận “đời anh là trái tim, nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó”. Nó là thế giới bí ẩn, và vô biên.

Lối cấu trúc giả định về trái tim tình yêu không hề đơn giản.

Trái tim là hình ảnh cụ thể – phút giây lạc thú là trừu tượng lại nở thành nụ cười nhẹ nhõm.

Trái tim – hình ảnh cụ thể đối lập với khổ đau hình ảnh trừu tượng – tan thành lệ và phản chiếu nỗi niềm u uẩn.

Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải để người mình yêu thấu suốt trái tim được dễ dàng hơn.

Từ những tương đồng và khác biệt giữa viên ngọc, đóa hoa với trái tim, giữa lạc thú với khổ đau với tình yêu nhà thơ muốn thể hiện triết lí về cuộc đời, về trái tim:

Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng.Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của những tâm trạng phức tạp, thậm chí đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.

Câu 3: SGK – 62

Cách nói nghịch lí:

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

Không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Để bày tỏ khát khao của mình, chàng trai bày tỏ hết lòng mình không giấu điều gì trước mắt người yêu nhưng lại rơi vào nghịch lí: chính vì thế mà người yêu “không biết gì tất cả về anh…”

Cách nói đấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ nắm bắt được.

Bài soạn “Bài thơ số 28” của Ta-go số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ, nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Ta-go đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ và thế giới một di sản lớn lao: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết,… đặc biệt là tập Thơ Dâng – tập thơ được Giải Nô-ben văn học năm 1913.

Cống hiến vì đại nhất của Ta-go là ở chỗ ông đã phát huy được truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ, kết hợp với tinh hoa văn hoá phương Tây.

2. Sáng tác của Ta-go ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người với con người một cách chân thành, mở rộng với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ân Độ. Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhân đạo phương Tây, như đòi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do, đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.

Theo Ta-go, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng “tôn giáo Con Người”. Tầng lớp nhân dân lao động cùng khổ cũng được Ta-go quan tâm.

Mặc dù nội dung nhân đạo của Ta-go có màu sắc duy tâm, huyền bí nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là tình yêu đất nước, yêu con người, yêu sự sống.

3. Người làm vườn là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go. Tên tác phẩm gợi hình tượng nhà thơ nguyện làm người chăm sóc vườn hoa cuộc đời. Với Ta-go, vườn đời thật tươi đẹp, được sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Và thi nhân chính là người hát ca, người vun xới cho những bông hoa tình yêu ấy. Người làm vườn tiêu biểu cho phong cách thơ Ta-go – một giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.

Bài thơ số 28 được in trong tập Người làm vườn, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khảng định: tình yêu là sự đồng điệu, hoà hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính vì vậy, việc tìm tới sự đồng điệu chan hoà vào thế giới tâm hồn của người yêu luôn là những khao khát không bao giờ vươn tới nổi. Điều đó tạo nên vẻ đẹp và sự hấp dẫn muôn đời của tình yêu.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Nghĩa bài thơ được diễn giải theo các tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu sắc, cao siêu.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh so sánh thể hiện sự khát khao trong tình yêu:

Đôi mắt băn khoăn của em buồn,

Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh

Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.

Đôi mắt – “cửa sổ tâm hồn”, dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng tận đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Câu thơ thể hiện một niềm khát khao mãnh liệt và sâu sắc – đó là niềm khao khát hoà hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hoà và thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng. Rất chân thành, chàng trai thổ lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em – Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng thật là một nghịch lí: “Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”. Bởi tất cả những điều em biết về anh đều mới chỉ là những cái bề ngoài, còn cái đáy sâu thẳm trong tâm hồn anh, trái tim anh (những suy nghĩ, cảm xúc) có dễ đâu nắm bắt được và sẽ chẳng bao giờ có thể thấu hết được.


Câu 2. Những câu thơ tiếp theo, Ta-go đưa ra liên tiếp những giả định. Nếu cuộc đời anh là một đoá hoa, một viên ngọc, anh sẽ hái nó, sẽ xâu nó thành một chuỗi dâng tặng cho em. Nhưng cuộc đời anh đâu phải thế. Bởi “đời anh là một trái tim”. Nếu trái tim anh “chỉ là một phút giây lạc thú”, thì em cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm; nếu trái tim anh “chỉ là đau khổ” thì người yêu cũng dễ thông cảm bằng hàng lệ trong. Nhưng đâu chỉ có thế. Chàng trai biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: “trái tim anh lại là tình yêu”. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, đau khổ dễ chia sẻ, cảm thông mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung sướng – vừa khổ đau, vừa thiếu thốn – vừa giàu sang, mà tất cả lại đều vô biên, trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được.

Bài thơ là hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh: đôi mắt em muốn nhìn… như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đoá hoa (những cái đẹp đẽ nhất, quý giá nhất), em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái bí ẩn vô biên của trái tim anh)… Hệ thống những hình ảnh so sánh, tượng trưng này làm cho tình yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những màu sắc huyền diệu. Bài thơ gợi niềm say mê chính là vì thế.

Bài thơ rất giàu chất triết lí. Đưa ra những lập luận, những giả thiết rồi lại phản bác, Ta-go muốn khẳng định: sự vật của đời sống không chi được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để khẳng định sự bí ẩn, sâu xa của tâm hồn và cũng đồng thời nhấn mạnh những quy luật muôn đời của tình yêu.

Với tình yêu, Ta-go khẳng định: tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và luôn là một cuộc khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là khát khao vĩnh cửu của con người.


Câu 3. Cách nói nghịch lí

Anh không giấu em một điều gì

Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.

không chỉ xuất hiện ở đoạn đầu mà còn được sử dụng khá nhiều lần trong bài thơ. Cách nói ấy thể hiện một điều kì diệu trong tình yêu, đó là những cái bề ngoài thì dễ nắm bắt còn sự phong phú, phức tạp của trái tim thì không dễ đâu nắm bắt được. Cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai là một trái tim – một thế giới tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá nổi, một đinh cao không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hoà hợp, đồng cảm dù đẹp đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính này của trái tim con người.

Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai: Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.

Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lớp 9 hay nhất

Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Bài thơ đã khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không có kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe hiên ngang, dũng cảm, ung dung, lạc quan giữa bom đạn của kẻ thù với tinh thần đồng chí, đồng đội và một ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” hay nhất mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu tác phẩm và chuẩn bị nội dung tiết học.

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 1

Bố cục:

– Phần 1 (2 khổ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe

– Phần 2 (4 khổ tiếp) Sự ngang tàng, lạc quan của lính lái xe Trường Sơn

– Phần 3 (còn lại): Ý chí chiến đấu vì miền Nam

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Nhan đề bài thơ có sự độc đáo, đặc biệt:

– Nhan đề dài, sự độc đáo

– Nhan đề làm nổi bật hình ảnh chiếc xe không có kính, phát hiện, sáng tạo của tác giả

– Thể hiện hiện thực khốc liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn

– Từ “bài thơ” đầu tiên nhằm tạo ấn tượng về chất thơ của hiện thực ấy

→ Nhan đề là sự sáng tạo của tác giả

Câu 2 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn là những con người có tư thế đường hoàng.

– Tư thế ung dung, lạc quan trước tình thế nguy nan càng tô đậm phẩm chất can trường của người lính lái xe

+ Mặc kệ gió vào xoa mắt đắng

+ Mưa tuôn mưa xối

+ Bụi phun tóc trắng như người già

– Các hình ảnh tạo cảm giác ấn tượng, vừa quen, vừa lạ

– Tinh thần người lính vẫn vượt lên, vẫn yêu đời

+ Phì phèo châm điếu thuốc

+ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

– Tiếng “ừ” đời thường và ngang tàng chất lính, cũng là lời thách thức gian khó

– Tình cảm đồng đội thân thiết như gia đình “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

– Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

→ Hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn gan dạ, kiên cường, luôn giàu tinh thần lạc quan trước hiểm nguy của trận chiến vì miền Nam.

Câu 3 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn

– Giọng điệu ngang tàng có chất nghịch ngợm đúng với chất trẻ trung, can trường của những người lính

– Giọng điệu làm cho thơ gắn với lời văn xuôi, tự nhiên gắn với lãng mạn

Câu 4 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ:

– Khâm phục những con người hiên ngang dũng cảm, luôn chiến đấu vì mục đích, lý tưởng cao đẹp

– Yêu mến tính sôi nổi, vui nhộn, lạc quan, dễ gần, dễ mến giữa những người lính trong chiến tranh

Luyện tập

Bài 1 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Học thuộc lòng bài thơ

Bài 2 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Ấn tượng của người lái xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn giả cụ thể, sinh động

– Chiếc xe không có kính ra mặt trận tạo ra những cảm giác, đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai

– Những khó khăn, nguy hiểm mà người lái xe phải đối diện:

+ Gió vào xoa mắt đắng – Hiện thực, cảm giác được vị giác hóa chân thực

+ Đường chạy thẳng vào tim

+ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

– Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái

⇒ khiến người đọc cảm nhận được sự khó khăn, nguy hiểm người lính phải đối mặt

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 2

Trả lời câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

Lời giải chi tiết:

a. Nhan đề

Bài thơ có một nhan đề rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Ngay từ đầu, nhan đề bài thơ đã dự báo một giọng điệu riêng của Phạm Tiến Duật: đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh quang: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

b. Hình ảnh những chiếc xe không kính

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh đoàn xe nối nhau ra trận. Vào cuộc chiến có nghĩa là mất đi rất nhiều, đến chiếc xe cũng phải mất mát, sẻ chia. Câu mở đầu bài thơ rất giản dị mà bất ngờ:

Không có kính không phải vì xe không có kính.

Ba chữ “không” như thể giằng nhau trong một câu thơ, dù chỉ để thông tin về một sự thật “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Có vẻ như nhà thơ đang phân bua một cách nghịch ngợm, cho sự hiện diện không trọn vẹn của chiếc xe:

– Không có kính, rồi xe không có đèn,

– Không có mui xe, thùng xe có xước…

=> Những chiếc xe bị bom đạn phá hủy, nhưng không vì thế mà dừng bước. Chúng vẫn hăng hái lên đường, cùng những người chiến sĩ vào miền Nam giải phóng đất nước.


Trả lời câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ.

Lời giải chi tiết:

– Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính. Mặc kệ “ gió xoa vào mắt đắng”, mặc kệ “mưa tuân mưa xối” người lính vẫn nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim, thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Một loạt hình ảnh vụt hiện tạo ra những cảm giác, ấn tượng vừa quen, vừa lạ . Đẹp và hiên ngang. Gian khổ nhường ấy, nhưng tinh thần người lính vẫn vượt lên, vẫn yêu đời:

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Những câu thơ đặ tả thực tế, kể cả những tiếng “ừ” rất đời thường và ngang tàng chất lính ấy như thể thách thức cùng gian khó: Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

– Tình cảm đồng đội thắm thiết:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

– Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Trái tim ấy là trái tim người lính, là sứ mệnh vinh quang của tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh tiếp nối các thế hệ cha anh đang trên đường ra trận. Câu thơ cuối mang màu sắc triết lí, một triết lí thật đơn sơ nhưng rất đỗi chân thực và mang tầm thời đại. Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.


Trả lời câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này. Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn.

Lời giải chi tiết:

Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.


Trả lời câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.

Lời giải chi tiết:

* Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ

– Tư thế ung dung, chủ động, lạc quan, yêu đời.

– Coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy.

– Ý chí chiến đấu vì sự thống nhất của đất nước

* So sánh:

Khác nhau:

– Giai đoạn lịch sử khác nhau:

+ Đồng chí: chống Pháp

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính: chống Mĩ

– Mục đích tác giả:

+ Đồng chí: ngợi ca tình đồng chí đồng đội

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa vẻ đẹp hiên ngang của người lính lái xe.

Giống nhau: lí tưởng chiến đấu cao cả, ý chí vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, tinh thần lạc quan, tình đồng đội sâu sắc.


Luyện tập

Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả hết sức cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để làm rõ điều ấy.

Lời giải chi tiết:

– Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.

– Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.

– Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.

– Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

=> Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Bố cục

Bố cục: (3 phần)

– Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe tiểu đội xe không kính.

– Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính.

– Phần 3 (khổ thơ cuối): Ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam.

Nội dung chính

Bài thơ của Phạm Tiến Duật khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 3

Kiến thức cơ bản

Trả lời câu hỏi SGK

Câu 1 – Trang 133 SGK

Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

Trả lời

Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn, băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam.

Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắc đá “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Tố Hữu). Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng ác liệt, dữ dội, Con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ, sử thi hào hùng.

Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe “không có kính”. Cấu trúc câu thơ dưới hình thức “hỏi-đáp”. Ba chữ “không” đi liền nhau, hai nốt nhấn: “bom giật, bom rung” biểu lộ “chất lính” trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm chất văn xuôi, nhưng đọc lên vẫn thú vị:

“Không có tính không phải vì xe không có kínhBom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”


Câu 2 – Trang 133 SGK

Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ.

Trả lời

Mười bốn câu tiếp theo khắc hoạ hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nu cười… Một tư thế ngồi lái “ung dụng tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai. Những cái nhìn thoáng đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiện ngang:

“Ung dung buồng lái ta ngồiNhìn trời nhìn đất, nhìn thẳng”

Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ “nhìn” láy lại ba lần: giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc.

Phạm Tiến Duật đã canh trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ “nhìn thấy”. Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khác nào một đoạn phim quay nhanh:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng…Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Gió được nhân hoá và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng “gió vào xoa mắt đắng”. Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên mới có cảm giác “đắng” như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó còn mang hàm nghĩa “chạy thẳng vào tim”, con đường chiến đấu rất chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập, tự do của đất nước và dân tộc. Các từ “nhìn thấy… “nhìn thấy”… “thấy”… với các chữ “sa”, chữ “ùa” góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn!

Nếu khổ thơ trên nói đến “gió” thì khổ tiếp theo nói đến “bụi”. Gió bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách ở đời.

Câu 3 – Trang 133 SGK

Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này. Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn.

Trả lời

Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ rất giản dị, pha một chút ngang tàng: Từ thì”, “chưa cần”… Những yếu tố đã góp phần thể hiện tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn của người lính: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Đồng thời, việc kết hợp linh hoạt thể thơ bảy chữ và tám chữ tạo cho điệu thơ gần với lời nói tự nhiên và sinh động.

Câu 4 – Trang 133 SGK

Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.

Trả lời

Qua hình ảnh người lính trong bài thơ, có thể cảm nhận được phẩm chất anh hùng, khí phách dũng cảm, bất chấp gian nguy và hồn nhiên yêu đời của thế hệ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ.

So với hình ảnh người lính trong bài Đồng chí, hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính được xem như sự nối tiếp phẩm chất anh hùng của các thế hệ anh bộ đội Cụ Hồ qua các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ oanh liệt của nhân dân ta.


Luyện tập

Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả hết sức cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để làm rõ điều ấy.

Gợi ý trả lời

– Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.

– Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.

– Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.

– Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

➨ Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Ghi nhớ

Qua nội dung hướng dẫn trên, các em cần nắm một số kiến thức quan trọng của bài học này:

• Qua hình ảnh độc đáo : những chiếc xe không kính, bài thơ khắc hoa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

• Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 4

I. Đôi nét về tác giả
– Phạm Tiến Duật (1941- 2007)
– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam
+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.
+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì
+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…
– Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài “ Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”

II. Đôi nét về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”
2. Bố cục
– Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính
– Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính
– Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe
– Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
3. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.
4. Giá trị nghệ thuật
Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và khỏe khoắn


II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 trang 133 SGK Ngữ văn 9 tập 1:
Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?
Trả lời:
Điểm khác biệt trong nhan đề bài thơ:
– Nhan đề dài, tạo sự độc đáo.
– Nhan đề làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe không có kính. Đó là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó am hiểu hiện thực khốc liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
– Từ “bài thơ” đặt ở đầu tiên đề nhằm tạo ấn tượng về chất thơ của hiện thực ấy. Cuộc chiến đấu khốc liệt là một bài thơ, cuộc đời người chiến sĩ cũng là một bài thơ.


Câu 2 trang 133 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lái xe trong bài thơ (chú ý: tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình đồng đội, ý chí chiến đấu vì miền Nam).Trả lời:
Những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn là những con người có tư thế rất đường hoàng. Họ ung dung ngồi vào buồng lái, điều khiển xe chạy giữa chiến trường mưa bom bão đạn. Họ mất ngủ, chịu bụi, chịu ướt áo. Nhưng họ không phàn nàn, không kêu ca. Bụi thì họ châm điếu thuốc: nhìn nhau mặt lắm cười haha. Ướt thì họ đi tiếp: Chưa cần thay lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi. Chiếc xe vỡ kính, hỏng đèn, xước thùng, hỏng mui. Thế nhưng các chiến sĩ vẫn lái, vẫn đưa xe chạy lên phía trước. Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.


Câu 3 trang 133 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này? Những yếu đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn?
Trả lời:
Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.


Câu 4 trang 133 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.
Trả lời:
Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ:
– Khâm phục những con người hiên ngang dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, luôn tiến lên phía trước vì mục đích và lý tưởng cao đẹp.
– Yêu mến tính sôi nổi, vui nhộn, tinh nghịch, lạc quan, dễ gần, dễ mến, dễ gắn bó giữa những người lính trong chiến tranh.


III. LUYỆN TẬP

Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để thấy rõ điều ấy.
Trả lời:
Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh độngKhông có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.
– Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.
– Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.
→ Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 5

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả:

Phạm Tiến Duật, tên thật mà cũng là bút danh, sinh ngày 14-1-1941, mất năm 2007. Quê gốc: thị xã Phú Thọ. Tốt nghiệp đại học sư phạm Vãn, chưa đi dạy ngày nào, ông nhập ngũ (1965). Mười bốn nãm trong quân đội thêm tám nãm ở Trường Sơn, đoàn vận tải Quang Trung 559. Có thể nói: Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.


2. Tác phẩm:

Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ vầng trăng quầng lửa của tác giả.
Qua hình ảnh những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh, độc đáo giữa tuyến đường Trường Sơn ác liệt trong thời kì chống Mĩ cứu nước, tác giả khắc hoạ hình ảnh nhưng người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, lạc quan yêu đời.
Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động và hiện thực cuộc sống chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: (Trang 133 – SGK Ngữ văn 9) Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

Bài làm:
Nhan đề dài, tạo sự độc đáo.
“Tiểu đội xe không kính” không chỉ muốn nói đến những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn xưa mà còn muốn nhấn mạnh đến một “nhân vật”chủ chốt khác trong hành trình Nam tiến này, đó chính là những chiếc xe không kính. Đó là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó am hiểu hiện thực khốc liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ là một góc nhìn độc đáo phản ánh về đề tài chiến tranh.

Câu 2: (Trang 133 – SGK Ngữ văn 9) Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trương Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ (chú ý: tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình đồng đội, ý chí chiến đấu vì miền Nam).
Bài làm:
Những chiếc xe càng cà tàng bao nhiêu thì càng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe bấy nhiêu:
Tư thế hiên ngang dũng cảm: Những người lính ung dung ngồi vào buồng lái, điều khiển xe chạy giữa chiến trường mưa bom bão đạn.
Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn: Họ mất ngủ, chịu bụi, chịu ướt áo. Nhưng họ không phàn nàn, không kêu ca. Bụi thì họ châm điếu thuốc: nhìn nhau mặt lắm cười haha.
Niềm lạc quan và tình đồng đội thắm thiết: trong gian khổ khó khăn là thế, gió lùa vào làm “mắt đắng” nhưng nụ cười vẫn nở trên môi.
Ý chí chiến đấu vì miền Nam, họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.


Câu 3: (Trang 133 – SGK Ngữ văn 9) Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này? Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn?
Bài làm:
Ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên. Chất giọng khí khái ngang tàng, bất chấp gian khổ, thể hiện trong các cấu trúc lặp lại:
Không có kính, ừ thì có bụi
Không có kính, ừ thì ướt áo
Không có kính, rồi xe không có đèn.
Giọng thơ vui tươi, pha chút hóm hỉnh, thể hiện tinh thần lạc quan, bất chất khó khăn của người lính, sự trẻ trung của những người lính lái xe.

Câu 4: (Trang 133 – SGK Ngữ văn 9) Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.
Bài làm:
Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ là những con người hiên ngang dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, luôn tiến lên phía trước vì mục đích và lý tưởng cao đẹp. Đồng thời những người chiến sĩ ấy còn là những con người trẻ trung tinh nghịch, hóm hỉnh, yêu đời, dù đứng trước nhiều hiểm nguy, khó khăn. Họ đã để lại cho chúng ta ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
So sánh với hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí, ta thấy họ đều toát lên vẻ đẹp của những người lính. Khi Tổ quốc cần, họ sẵn sàng ra trận chiến đấu. Ở họ là lòng dũng cảm, gạn dạ, tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng chí đồng đội gắn bó.
Điểm khác nhau là trong bài thơ Tiểu đội xe không kính, ta thấy được sự vui tươi, hóm hỉnh, sôi nổi của những người lính trẻ. Một tinh thần lạc quan cách mạng của người lính thời đại kháng chiến chống Mĩ.

Luyện tập (Trang 133 – SGK Ngữ văn 9) Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất sinh động, cụ thể. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để thấy rõ điều ấy.
Bài làm:
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đã diễn tả những khó khăn khi chiếc xe mất đi tấm kính chắn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vảo tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.
Thiếu đi kính xe cũng đồng nghĩa với việc những người lính lái xe gặp phải rất nhiều những trở ngại trong quá trình làm nhiệm vụ chi viện. Không có kính khiến cho những cơn gió mang theo bụi đất nơi chiến trường lùa vào buồng lái, làm cho những đôi mắt cay xè,trở ngại tầm nhìn của những người lính lái xe “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”. Con đường phía trước như “chạy thẳng vào tim” người chiến sĩ, đó là con đường giải phóng miền Nam đang chờ ở phía trước. Không còn kính, bầu trời đầy sao và những cánh chim “như sa như ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên như những người bạn đồng hành cùng các anh ra chiến trận.Đó là những cảm giác, những ấn tượng được tác giả diễn tả sinh động, chân thật, thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Hình ảnh vè những chiếc xe không kính ấy không chỉ tái hiện lại những gian khổ, khó khăn của một thời kì lịch sử đầy dữ dội của dân tộc mà còn làm nổi bật lên tinh thần yêu nước cùng quyết tâm giải phóng miền Nam của những người lính cụ Hồ trong kháng chiến.

Bài soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” số 6

Câu 1:

– Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.

– Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng thản nhiên (“Không có kính… đi rồi”) càng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thên, trần trụi hơn nữa: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”>

– Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.

Câu 2: Phân tích hình ảnh những chiến sĩ lái xe:

– Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những phương diện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dùng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.

– Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng, cảm giác của người lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài, “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng – Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Câu thơ diễn tả được cảm xúc về tốc độ trên chiếc xe đang lao nhanh. Qua khung cửa đã không có kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim như cũng ùa vào buồng lái. Nhà thơ diễn tả chính xác các cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính.

– Người lái xe hiện ra với những nét tính cách thật cao đẹp”

+ Tư thế ung dung, hiên ngàng:

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

+ Thái độ bất chấp khó khăn, gian khổ, nguy hiểm:

– Không có kính, ừ thì có bụi

Chân cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.

– Không có kính, ừ thì ướt áo

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.

Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.

Câu 3: Ngôn ngữ của bài thơ giống với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những từ khẩu ngữ như “ừ thì”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”, “phì phèo châm điếu thuốc”, “nghĩa là gia đình đấy” là cho câu thơ bình dị, phản ánh sự trẻ trung, hồn nhiên của chiến sĩ. Giọng điệu bài thơ có chút lí sự, tinh nghịch của những người trẻ tuổi: “Không có kính không phải vì xe không có kính”; “Không có kính ừ thì có bụi”; “Không có kính, ừ thì ướt áo”; “Chưa cần rửa….”; “Chưa cần thay…”. Giọng điệu đó phản ánh tinh thần lạc quan pha chút tinh nghịch của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đã làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.

Câu 4: Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hệ dũng cảm. Họ đã đem tuổi xuân phục vụ cho khắp các mặt trận. Họ trực tiếp cầm súng hoặc cung cấp đạn dược, lương thực cho chiến trường, Họ là các chiến sĩ vận tải, là những đội viên thanh niên xung phong… Bất cứ ở đâu, họ đều có tác phong đường hoàng. Họ trẻ, khỏe, vui. Tính chất sôi nổi ấy thể hiện trong việc bắt tay đồng đội qua cửa kính vỡ, qua việc dựng lán, chung bát đũa nghĩa là gia đình. Tinh thần yêu đời, lạc quan ấy đã cho họ một sức mạnh để khắc phục những khó khăn. Họ vượt qua bom giật, chiến thắng bom rung, vượt qua bụi, mưa, và những hư hại của xe cộ.

Nếu so với người lính trong bài “Đồng chí” ta thấy thế hệ người lính chống Mĩ trẻ trung hơn, họ có phương tiện đầy đủ hơn (có ô tô chở người, vũ khí, đạn dược). Không thấy sự thiếu thốn, cũng không thấy nói nhiều đến cơn sốt (Mặc dù thời chống Mĩ cũng có nhiều chiến sĩ bị sốt và nhiều bài thơ nói về cơn sốt). Các phương tiện như áo quần, giày dép đủ hơn, lại có võng mắc trên đường ra trận. Tuy có nét khác nhau nhưng đều giống nhau ở tinh thần đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, quyết chiến, quyết thắng.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tác phẩm trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Nếu làm một bài văn nghị luận về một tác phẩm (hay đoạn trích) là nêu lên nhận xét, đánh giá, quan điểm của cá nhân về nội dung, phong cách nghệ thuật của tác phẩm đó. Vậy một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ có khác gì khi làm một bài văn nghị luận về một tác phẩm (hay đoạn trích). Bài học “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” Ngữ văn 9
giúp học sinh nắm được kiến thức của bài học, đồng thời biết làm một bài văn nghị luận theo dạng này và cách trình bày nội dung cũng như phong cách nghệ thuật của một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ được thể hiện như thế nào để rõ ràng và mang lại hiệu quả cao nhất. Mời các bạn tham khảo một số bài hay nhất soạn mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 1

I. Tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a, Vấn đề nghị luận: cảm xúc chân thành, thiết tha, ước nguyện cống hiến của nhà thơ Thanh Hải

b, Chủ đề:

– Hình ảnh trong thơ Thanh Hải mang nhiều tầng nghĩa, gợi lên cảm xúc trong trẻo, đáng yêu

– Bức tranh mùa xuân với màu sắc, âm thanh thiết tha, trìu mến, dịu dàng

– Từ mùa xuân tươi đẹp của quê hương, đất nước, của ước nguyện hòa nhập, dâng hiến chân thành

→ Người viết thuyết phục bằng cách phân tích, bình giảng, nhận định hình ảnh thơ, cảm hứng, giọng điệu, kết cấu

c, Bố cục 3 phần cân đối

Mở bài (từ đầu… đáng trân trọng

Thân bài: đoạn 2, 3, 4, 5

Kết bài: đoạn còn lại

d, Người viết cảm nhận bài thơ với sự yêu mến, tin tưởng với tình cảm chân thành thể hiện rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài mùa xuân nho nhỏ.

– Cách diễn đạt mạch lạc, gợi cảm

Luyện tập

(trang 79 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Ngoài các luận điểm …

Có thể lưu ý thêm một số luận điểm:

– Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca.

– Mạch cảm xúc tự nhiên, kết cấu chặt chẽ, giàu sức gợi mở.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 2

Phần I: TÌM HIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Đọc văn bản Khát vọng hòa nhập (trang 77, 78b SGK Ngữ văn 9 tập 2), dâng hiến cho đời và trả lời câu hỏi.

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì?

b) Văn bản nêu lên những luận điểm gì về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ? Người viết đã sử dụng những luận cứ nào để làm sáng tỏ các luận điểm đó?

c) Chỉ ra các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài; nhận xét về bố cục của văn bản.

d) Cách diễn đạt trong từng đoạn của văn bản có làm nổi bật được luận điểm không?

Trả lời:

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là hình ảnh mùa xuân và tình cảm tha thiết của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

b) Văn bản nêu lên những luận điểm về đặc sắc nổi bật của hinh ảnh mùa xuân trong bài thơ:

+ Hình ảnh mùa xuân mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong đó, mùa xuân nào cũng thật gợi cảm, cũng thật đáng yêu.

+ Bức tranh xuân rạo rực của thiên nhiên đất nước trong cảm xúc thiết tha trìu mến của thi sĩ.

+ Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” thể hiện khát vọng hòa nhập, dâng hiến cho đời của thi sĩ được nối kết hết sức tự nhiên với mùa xuân của thiên nhiên đất nước bên trên.

Để làm sáng tỏ các luận điểm vừa nói, người viết đã chọn giảng bình các câu thơ, các hình ảnh đặc sắc cũng như đã phân tích giọng điệu trữ tình và kết câu của bài thơ.

c) Phần mở bài: Đoạn đầu (từ mùa xuân là mùa… đến cống hiến thật đáng trân trọng).

Phần thân bài: Ba đoạn kế tiếp (từ hình ảnh mùa xuân đến… sự láy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân): Trình bày cảm nhận, đánh giá về hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải. Đây cũng là phần triển khai các luận điểm.

Phần kết bài: Đoạn còn lại: Đánh giá chung bài thơ giữa các phần nói trên của văn bản đều có sự liên kết tự nhiên về ý và về diễn đạt.

d) Người viết trình bày cảm nhận đánh giá của mình một giọng điệu đầy cảm xúc với tình cảm thiết tha trìu mến.


Phần II: LUYỆN TẬP

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên, hãy suy nghĩ và nêu thêm các luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Trả lời:

Có thể lưu ý thêm một số luận điểm:

Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca.

Mạch cảm xúc tự nhiên của bài thơ được thể hiện trong một kết cấu chặt chẽ, giàu sức gợi mở.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 3

I – Tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi (Văn bản trang 77 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Câu hỏi :

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì ?

b) Văn bản nêu lên những luận điểm gì về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ? Người viết đã sử dụng những luận cứ nào để làm sáng tỏ các luận điểm đó ?

c) Chỉ ra các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài; nhận xét về bố cục của văn bản.

d) Cách diễn đạt trong từng đoạn văn của văn bản có làm nổi bật được luận điểm không ?

Trả lời :

a) Vấn đề nghị luận: hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

b) Những luận điểm chính :

– Luận điểm 1 : Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa, và hình ảnh nào cũng gợi cảm, đáng yêu.

– Luận điểm 2 : Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất nước trong cảm xúc thiết tha, trìu mến của nhà thơ.

– Luận điểm 3 : Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ thể hiện khát vọng hoà nhập, dâng hiến được nối kết tự nhiên với hình ảnh mùa xuân thiên nhiên, đất nước ở trước.

Để làm sáng tỏ luận điểm, người viết chọn những câu thơ, hình ảnh đặc sắc để bình giảng, đồng thời phân tích kết cấu và giọng điệu của bài thơ.

c) Bố cục của văn bản : 3 phần

– Mở bài : đoạn 1

– Thân bài : đoạn 2 – 3 – 4

– Kết bài : đoạn 5

Bố cục của văn bản chặt chẽ, hợp lí.

d) Cách diễn đạt: Lời văn trong sáng, gợi cảm, có những rung động chân thành về tác phẩm và đồng cảm với tác giả.


Ghi nhớ:

– Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.

– Nội dung và nghệ thuạt của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, … Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng, có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.


II – Luyện tập (trang 79 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên, hãy suy nghĩ và nêu thêm các luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, ta có thể đưa thêm những luận điểm khác về bài thơ này :

– Sự cống hiến một cách khiêm tốn suốt cả cuộc đời, của mọi lứa tuổi cho mùa xuân đất nước : “Lặng lẽ dâng cho đời- Dù là tuổi hai mươi- Dù là khi tóc bạc”.

– Tinh thần lạc quan của một con người : Hát bài ca quê hương để hòa nhập với mùa xuân.

– Giọng điệu thiết tha, trìu mến của nhà thơ.

– Tính chất khái quát chung qua cách sử dụng đại từ xưng hô tôi-ta của tác giả.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

I- TÌM HIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KHÁT VỌNG HOÀ NHẬP, DÂNG HIẾN CHO ĐỜI
Mùa xuân là mùa của thiên nhiên thắm tươi, của vạn vật sinh sôi nảy nở. Văn học ViệtNam từng có không ít vần thơ thể hiện cảm xúc rạo rực, trẻ trung trước mùa xuân. Ngay từ khi ra đời, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc. Bài thơ toát lên một không khí vừa rạo tực vừa trong sáng, êm dịu đến dễ thương, thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, đất nước và một nguyện ước cống hiến thật đáng trân trọng.

Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa. Từ hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất nước trong lao động và chiến đấu, nhà thơ đi đến nguyện ước làm Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời, cất lên khúc hát xao xuyến, tươi vui hoà trong bản tình ca, anh hùng ca của cách mạng. Trong đó, mùa xuân nào cũng thật gợi cảm, cũng thật đáng yêu.

Bức tranh xuân của thiên nhiên, đất nước được tạo nên từ chi tiết rất tiêu biểu, được vẽ bằng cả màu sắc lẫn âm thanh. Đó là dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, là lộc giắt đầy quanh lưng người ra trận và trải dài trên những cánh đồng (tượng trưng cho sự nảy nở, sinh sôi, cho sự dồi dào, thành đạt). Đó là tiếng chim chiền chiện lảnh lót vang trời. Hình ảnh mùa xuân hiện lên trong cảm xúc thiết tha, trìu mến của nhà thơ, trong lời kêu, giọng hỏi: ơi…, hót chi mà,… Đặc biệt, tình cảm nâng niu vẻ đẹp của mùa xuân, khát vọng thu nhận và giữ gìn vẻ đẹp ấy được thể hiện qua tư thế độc đáo: Tôi đưa tay tôi hứng từng giọt âm thanh từ trời xanh rơi xuống. Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Cảm giác ấy, động tác ấy chỉ có được ở một tâm hồn thi sĩ, ở một tấm lòng tha thiết yêu mến cuộc sống này. Từ hình ảnh mùa xuân gần gũi, nhà thơ liên tưởng khái quát đến truyền thống bốn nghìn năm, đến sức xuân cứ đi lên phía trước của đất nước. Khi đúc kết, khái quát như thế, lời thơ dễ khô khan. Nhưng khổ thơ thứ ba cứ tự nhiên được cuốn đi trong dòng cảm xúc dịu dàng, đằm thắm, do đó vẫn nằm trong mạch tâm tình.
Từ rung cảm thiết tha trước mùa xuân đẹp của quê hương, đất nước, Thanh Hải bộc lộ một nguyện ước chân thành:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Đó chính là hình ảnh Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời thể hiện khát vọng đựơc hoà nhập, được dâng hiến. Đến đây, ta bỗng thấm thía ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Trước Thanh Hải quả chưa từng có hình ảnh thơ vừa lạ, vừa hồn nhiên, thân thương này. Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ chứa đựng sự khiêm nhường mà cũng tự tin, tự hào biết mấy của con người ý thức sâu sắc về giá trị cuộc đời, về hạnh phúc của hiến dâng và đón nhận. Nốt trầm xao xuyến của mùa xuân nho nhỏ này cứ tự nhiên hoà vào mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước nhờ sự chiếu ứng giữa hai phần của bài thơ. Khổ đầu đã xuất hiện hình ảnh bông hoa tím, con chim chiền chiện giữa trời xanh với tiếng chim hót từng giọt long lanh. Giờ đây, đến khổ thứ tư, nguyện ước của nhân vật trữ tình, của mùa xuân nho nhỏ chính là sự láy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân.

Như vậy, giữa các khổ, các phần của Mùa xuân nho nhỏ có sự gắn kết tự nhiên, chặt chẽ, vừa luyến láy vừa được nâng cao. Bài thơ này lay động tâm hồn chúng ta bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương, quyến luyến, bởi nguyện ước tha thiết, chân thành. Cái nguyện ước lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nho nhỏ kia đâu còn của riêng Thanh Hải mà có lẽ đã trở thành tiếng lòng của nhiều bạn đọc.
(Hà Vinh)

Trả lời:
a) Vấn đề nghị luận của văn bản là hình ảnh mùa xuân trong cảm xúc thiết tha, chân thành của nhà thơ Thanh Hải ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”
b) Những luận điểm về hình ảnh mùa xuân nho nhở là:
Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa, tất cả đều gợi cảm, đáng yêu.
Bức tranh mùa xuân, với cả màu sắc lẫn âm thanh, hiện lên trong cảm xúc thiết tha, trìu mến, đằm thắm, dịu dàng.
Từ mùa xuân tươi đẹp của quê hương, đất nước, đến mùa xuân của nguyện ước hoà nhập, dâng hiến chân thành.
Người viết thuyết phục các luận điểm bằng sự phân tích, bình giảng những câu thơ, hình ảnh thơ đặc sắc, với nhận định về cảm hứng, giọng điệu, kết cấu…

c) Bài viết có bố cục 3 phần cân đối, chặt chẽ:
Mở bài: từ đầu cho đến “…thật đáng trân trọng.”.
Thân bài: từ “Hình ảnh mùa xuân…” cho đến “…các hình ảnh ấy của mùa xuân”.
Kết bài: đoạn còn lại.
d) Người viết đã cảm nhận bài thơ với một thái độ yêu mến, tin tưởng với tình cảm chân thành đã thể hiện những rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật bài thơ. Lời văn mạch lạc, gợi cảm.

II. Ghi nhớ:
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu,…
Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

II. LUYỆN TẬP

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên em hay suy nghĩ và nêu những luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Bài làm:
Những luận điểm khác trong bài thơ là:
Từ hình ảnh mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp nhà thơ đã thấy đất nước, con người đang vào xuân rộn rã (khổ 2, 3)
Bài thơ còn là khúc tráng ca ca ngợi sự độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước (khổ cuối)
Bài thơ không chỉ là tâm nguyện của Thanh Hải mà còn là lời nhắn gửi chân tình, tha thiết của nhà thơ đối với mỗi con người chúng ta như một quy luật, một quyền lợi của mỗi người đối với đất nước

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 5

Câu 1. Cho đề bài : Cảm nhận và suy nghĩ của em về hình ảnh ánh trăng trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Hãy trả lời các câu hỏi :

– Đề bài này có yêu cầu gì ?

– Để giải quyết yêu cầu ấy cần có các luận điểm nào ? Nên sắp xếp các luận điểm ấy ra sao ?

Trả lời:

Vận dụng tri thức đã được đọc – hiểu về bài Ánh trăng (Bài 12, Ngữ văn 9, tập một), căn cứ vào yêu cầu của bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ mà xác định yêu cầu cụ thể của đề bài này.

Mọi người đều biết trăng là một biểu tượng phổ biến trong thơ, nhưng ở mỗi trường hợp trăng lại có ý nghĩa cụ thể riêng.

Khi tìm các luận điểm cho bài văn, cần đặt hình ảnh ánh trăng trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc gắn với thái độ, tâm trạng của nhân vật trữ tình (tác giả), cần bám chắc vào ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh này. Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng được kết đọng rõ nhất ở khổ cuối bài thơ. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng các luận điểm của bài nghị luận phải gắn với sự nhận xét, đánh giá của cá nhân người viết, nên có màu sắc cảm xúc.


Câu 2. Lập dàn ý chi tiết (theo các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài) cho đề văn sau :

Vẻ đẹp tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

Trả lời:

Đọc kĩ phần Ghi nhớ trong SGK để nắm vững yêu cầu đối với từng phần Mở bài, Thân bài, Kết bài của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, tái hiện các kiến thức khi đọc – hiểu về bài thơ Đồng chí (Bài 10, Ngữ văn 9, tập một) để lập dàn ý theo yêu cầu của đề.

Bài thơ Đồng chí ra đời vào thời gian nào ? Đề tài vả nét đặc sắc nổi bật của bài thơ ? Vị trí của bài Đồng chí trong thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp ?

Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ được thể hiện qua các khía cạnh nào ? Từng nội dung cảm xúc, nhận thức ấy đã được Chính Hữu diễn tả qua hình ảnh, ngôn từ ra sao ? Suy nghĩ của em về vẻ đẹp của tình đồng chí và cách thể hiện của nhà thơ ?

Ý nghĩa của bài thơ Đồng chí là gì ?


Câu 3. Nhận xét nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (SGK Ngữ văn 9, tập một).

Trả lời:

Khi nhận xét nghệ thuật diễn tả tâm trạng cô đơn của nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du ở đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, cần chú ý biện pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng biện pháp nghệ thuật này, ngòi bút Nguyễn Du rất uyển chuyển, linh hoạt và rất sâu sắc.

– Tâm trạng cô đơn của nhân vật được thể hiện qua khung cảnh thiên nhiên, qua cảm nhận không gian và thời gian.

– Tâm trạng cô đơn của nhân vật được bộc lộ trực tiếp gắn với những cảnh vật gợi cảm tương ứng với thân phận. Cách dùng điệp ngữ “Buồn trông” như diễn tả nỗi buồn lớp lớp khôn nguôi, dự cảm ngày một rõ về thân phận mong manh, chìm nổi, bất an của nhân vật.

Việc phân tích này cần gắn với những nhận xét, đánh giá về tấm lòng, tài năng của Nguyễn Du chứ không nên sa vào phân tích lại đoạn trích đã học.


Câu 4. Tìm các luận điểm cho phần Thân bài đối với đề bài sau :

Phân tích tấm lòng thành kính và niềm xúc động thiết tha của Viễn Phương trong bài thơ “Viếng lăng Bác “.

Để làm sáng tỏ luận điểm niềm xúc động thiết tha, theo em, cần những luận cứ gì ?

Trả lời:

Cần xác định được quan hệ gần gũi nhưng vẫn mang nội dung khác nhau của hai luận điểm tấm lòng thành kính và niềm xúc động thiết tha của Viễn Phương ở bài thơ Viếng lăng Bác.

Khi phân tích, nhận xét một nội dung cảm xúc nào đó trong một bài thơ trữ tình, cần chú ý đến những biểu hiện cụ thể của nó (hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu,…).


Câu 5. Khi lập dàn ý cho đề bài “Cảm nghĩ về tình cảm của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương”, một học sinh đã nêu các luận điểm (cho phần Thân bài) như sau :

a) Tình cảm của người cha đối với con gắn liền tình cảm gia đình ấm cúng, hoà trong tình yêu thiên nhiên quê hương giàu đẹp.

b) Người cha đã truyền cho con lòng tự hào đối với ý chí lớn lao, tinh thần bền bỉ của con người quê hương, đối với cội nguồn dân tộc.

c) Tình cảm của người cha gắn liền mong muốn cho con nhanh chóng trưởng thành, xứng đáng với truyền thống cao đẹp của quê hương, tự tin mà vững bước trên đường đời.

Theo em, các luận điểm ấy có đúng không, đã đủ cho việc giải quyết yêu cầu của đề chưa, đã được sắp xếp hợp lí chưa ?

Nếu cần làm sáng tỏ luận điểm (b), em sẽ nêu các luận cứ như thế nào ?

Trả lời:

Vận dụng những kiến thức về bài thơ Nói với con khi được đọc – hiểu và cách tìm, nêu luận điểm trong bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ để suy nghĩ về các luận điểm được bạn học sinh đó đưa ra.

Suy nghĩ xem ý chí lớn lao, tinh thần bền bỉ của con người quê hương, truyền thống của dân tộc,… đã được Y Phương diễn tả trong cảm xúc như thế nào, bằng những hình ảnh gợi cảm ra sao.


Câu 6. Đọc đoạn văn sau rồi trả lời câu hỏi : Tác giả đã nêu nhận định về vấn đề gì ? Đâu là câu chủ đề của đoạn văn ? Nhận xét về sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn.

“Thơ là đi giữa Nhạc và Ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý :

Ai đi Nam Bộ

Tiền Giang, Hậu Giang

Ai vô Thành phố

Hồ Chí Minh

Rực rỡ tên vàng.

Ai về thẵm bưng biền Đồng Tháp

Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp

Nơi chôn rau cắt rốn của ta !

Ai đi Nam – Ngãi, Bình – Phú, Khánh Hòa…

Trong sóng nhạc cuồn cuộn, những ý nổi lên, như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Và chính là cái hơi nhạc đã thức dậy rồi lại phủ lên những ý này. Một đoạn thơ chỉ xem thôi thì không hiểu hết cái hay, phải đọc nó lên, để cho tất cả khả năng của nó biểu hiện ra trong âm nhạc.”

(Theo Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ,

NXB Văn học, Hà Nội, 1981)

Trả lời:

Một đoạn văn phải có một ý (luận điểm) nào đó. Các câu trong một đoạn văn cần được liên kết một cách chặt chẽ, tự nhiên. Suy nghĩ xem những đặc điểm ấy được thể hiện ở đoạn văn của Chế Lan Viên như thế nào. Phân tích cách nêu luận điểm (nhận định), cách lập luận, chứng minh, kết luận của Chế Lan Viên.

Câu 7. Kết thúc Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật viết :

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Hãy phân tích khổ thơ để làm nổi bật phong thái hiên ngang, tinh thần dũng cảm của những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Trả lời:

Chú ý viết bài văn có chủ đề, nội dung xác định theo yêu cầu. Các câu trong bài văn cần được liên kết chặt chẽ và thể hiện được nhận xét, rung cảm của mình trước hình ảnh, giọng điệu,… của khổ thơ.


Câu 8. Trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, em thích nhất hình ảnh nào, câu thơ nào ? Hãy trình bày cảm nhận của mình về hình ảnh và những câu thơ ấy.

Trả lời:

Chọn một hình ảnh hoặc một câu thơ mà em thực sự yêu thích trong bài Mùa xuân nho nhỏ. Bài văn trình bày cảm nhận phải gắn với việc chỉ ra, bình luận cái hay, cái đẹp của hình ảnh, câu thơ ấy và chứng tỏ được rung cảm chân thành của người viết.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

– Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.

– Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu,… Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

1. Hướng dẫn tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a) Vấn đề nghị luận của văn bản là hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

b) Những luận điểm về hình ảnh mùa xuân mà bài viết đã nêu lên :

– Hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều tầng ý nghĩa, hình ảnh nào cũng gợi cảm.

– Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước trong cảm xúc của nhà thơ.

– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ thể hiện khát vọng dâng hiến, hoà nhập vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước.

Để chứng minh cho những luận điểm trên, tác giả đã chọn các câu thơ, các hình ảnh, giọng điệu và kết câu để phân tích, làm rõ.

c) Văn bản có ba phần.

Mở bài : từ đầu đến “đáng trân trọng”.

Thân bài : tiếp theo đến “sự lấy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân” – Trình bày cảm nhận, đánh giá cụ thể những điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ thành các luận điểm.

Kết bài : phần còn lại.

Bố cục như vậy là chặt chẽ, cân đối, đúng yêu cầu của bài văn nghị luận.

d) Nhận xét về cách diễn đạt của bài văn

Người viết đã cảm nhận bài thơ với một thái độ yêu mến, tin tưởng, với tình cảm chân thành đã thể hiện những rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Lời văn mạch lạc, gợi cảm.

2. Hướng dẫn luyện tập

Những luận điểm khác về bài thơ này có thể bàn luận thêm là :

– Sự cống hiến một cách khiêm tốn suốt cả cuộc đời, của mọi lứa tuổi cho mùa xuân đất nước : “Lặng lẽ dâng cho đời – Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc bạc”.

– Tinh thần lạc quan của một con người: Hát bài ca quê hương để hoà nhập với mùa xuân.

– Giọng điệu thiết tha, trìu mến của nhà thơ. Tính chất khái quát chung qua cách xưng hô : tôi – ta của tác giả.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” lớp 12 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” lớp 12 hay nhất

Ở lớp dưới, chúng ta đã được làm quen với văn nghị luận. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ lớp 12 tiếp tục giúp các em học sinh nhanh chóng củng cố, nâng cao những hiểu biết về thể loại văn này đồng thời có kĩ năng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, một đoạn thơ tốt nhất. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 1

I. Tìm hiểu đề và lập dàn ý

Tìm hiểu đề: xác định đề bài, yêu cầu nội dung, phương pháp, phạm vi tư liệu

Dàn ý

MB: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ được phân tích

TB:

– Hoàn cảnh sáng tác, phong cách sáng tác, nội dung chính, vị trí thơ…

– Bàn về giá trị nội dung, nghệ thuật

– Có thể phân tích từng khổ, từng dòng

– Phân tích hình tượng thơ, chỉ ra biện pháp nghệ thuật, phân tích nhịp điệu, cấu tứ

KB: Khẳng định, đánh giá chung về bài thơ

II. Luyện tập

Dàn ý:

MB: Giới thiệu về Huy Cận, bài thơ Tràng Giang và đoạn thơ phân tích

TB: Nêu hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc bao trùm bài

– Nội dung bao quát cảnh và tình trong toàn bộ bài thơ

+ Hai câu thơ đầu: Cảnh thiên nhiên lúc chiều tà

+ Một nét vẽ mây núi hùng vĩ

+ Một cánh chim nhỏ tựa bóng chiều

– Thủ pháp tương phản: nỗi lòng cô đơn, nhỏ bé, chấp chới giữa dòng đời

+ Hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê dâng ngập lòng người, nỗi khao khát tìm chỗ dựa cho tâm hồn

Nghệ thuật dùng từ láy âm “dờn dợn” lấy cái không có ngoại cảnh để nói cái có ở lòng người

Đánh giá nội dung và nghệ thuật đoạn thơ

+ Đoạn thơ nói lên nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình, cảm xúc hướng về quê hương

+ Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ở hình thức ngôn ngữ, ở bút pháp tả cảnh ngụ tình

KB: Đánh giá chung về đoạn thơ

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 2

Câu 1 (trang 85 SGK Ngữ văn 12 tập

1. Tìm hiểu đề và lập dàn ý

Lời giải chi tiết:

Đề 1: Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.

Đề 2: Phân tích đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.

Tìm hiểu đề

Lập dàn ý

Đề 1

+ Hoàn cảnh ra đời bài thơ: trong những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ yếu và cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến. Chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đã làm thất bại ý đồ của địch và tiêu diệt nhiều lực lượng của chúng. Bài thơ Cảnh khuya đã được Hồ Chí Minh viết trong những đêm sống tại núi rừng Việt Bắc để lãnh đạo chiến dịch.

+ Phân tích tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ trong hoàn cảnh lớn và hoàn cảnh nhỏ của bài thơ để thấy hết giá trị.

Mở bài: Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Thân bài:

+ Vẻ đẹp huyền ảo, lung linh của núi rừng đêm trăng (trăng, hoa, cây cổ thụ, tiếng suối).

+ Nhân vật trữ tình mải mê lo việc nước đến tận khuya, tình cờ bắt gặp tiếng suối dưới trăng (khác các ẩn sĩ tìm đến thiên nhiên để lánh đời, dưỡng tính).

+ Bài thơ hiện đại ở chỗ con người nổi bật giữa bức tranh thiên nhiên, cổ điển ở bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình.

Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp hài hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ và ý chí chiến sĩ trong bài thơ.

Đề 2

Khí thế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dũng mãnh, hào hùng (thể hiện qua lực lượng tham gia, những con đường và thời điểm tổng tiến công sôi nổi,…)

Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ (xuất xứ, trích dẫn nguyên văn đoạn thơ).

Thân bài:

+ Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc: 8 câu đầu.

+ Khí thế chiến thắng của các chiến trường khác: 4 câu sau.

+ Nghệ thuật sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ tài tình của tác giả trong đoạn thơ.

Kết bài: Đoạn thơ thể hiện thành công cảm hứng ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.


Câu 2 (trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1)

Từ các đề bài và kết quả thảo luận, anh (chị) hãy cho biết đối tượng, nội dung của bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.

Lời giải chi tiết:

– Đối tượng của bài nghị luận rất đa dạng (bài thơ/đoạn thơ/hình tượng thơ…).

– Nội dung bài nghị luận bao gồm: giới thiệu khái quát về bài thơ/đoạn thơ, bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ/đoạn thơ, đánh giá chung về bài thơ/đoạn thơ.


Luyện tập

Câu hỏi (trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1)

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lời giải chi tiết:

1. Mở bài: Giới thiệu chung

Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong sáng tác của Huy Cận. Tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi nhà thơ đứng bờ nam bến Chèm (Hà Nội), nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước bốn bề bao la thuần tuý tả cảnh thiên nhiên, mô tả cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đó là cái “thế giới bên trong”, cái linh hồn của tạo vật trong nỗi 1 xa vắng mênh mông. Khổ thơ kết cũng vừa là cảnh, vừa là tâm hồn.

2. Thân bài

Câu 1:

Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp…

Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.

Câu 2: Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông. Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).

Câu 3: Lòng quê: nỗi nhớ quê hương gợi lên theo sóng nước.

Câu 4: Xuất xứ từ câu thơ của Thôi Hiệu đời Đường: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (“Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Tản Đà dịch thơ). Tứ thơ mới mẻ, học tập thơ xưa và sáng tạo thêm cái mới.

=> Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.

Nét đặc sắc nghệ thuật: Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.

3. Kết bài

Tâm hồn nhà thơ đôn hậu, tinh tế. Đáng quý là cảnh vật và tâm trạng tác giả tuy buồn cô liêu nhưng rất đẹp, thể hiện tài năng và sự tinh tế trong cảm nhận thế giới tự nhiên và cuộc sống con người.

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 3

Kiến thức cơ bản về nghị luận một bài thơ, đoạn thơ

1. Thế nào là nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ ?

Nghị luận về thơ (tác phẩm hoặc đoạn thơ) là quá trình sử dụng những thao tác làm văn để làm rõ tư tưởng, phong cách nghệ thuật của thơ đã tác động tới cảm xúc thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.

2. Cách viết bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

a) Các thao tác cần thực hiện:

– Đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ, nắm chắc mục đích, hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn thơ, bài thơ.

– Đoạn thơ, bài thơ có dấu hiệu gì đặc biệt về ngôn ngữ, hình ảnh?

– Đoạn thơ, bài thơ thể hiện phong cách nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của tác giả như thế nào?

b) Cấu trúc bài làm

Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ thông thường gồm 3 phần:

– Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.

– Thân bài: Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.

– Kết bài: Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.

=> Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cũng có cấu trúc như các nghị luận khác. Nhưng trong phần thân bài, cần biết bám sát vào các yếu tố của thơ như: hình ảnh, cảm xúc, nhịp, vần,… để phân tích, từ đó phát hiện ra cảm xúc chủ đạo và sự độc đáo của nhà thơ trong cảm xúc, trong miêu tả.

Bài 1 trang 84 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Tìm hiểu đề và lập dàn ý cho 2 đề bài sau:
Đề 1
Phân tích bài thơ sau của Hồ Chí Minh
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(1947)
Đề 2:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Trả lời
Đề 1 :
a. Tìm hiểu đề:
– Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Địa điểm là vùng chiến khu Việt Bắc. Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ.
b. Lập dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
– Thân bài:
Gợi ý:
+ Vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng trong một đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc.
+ Nổi bật lên giữa bức tranh thiên nhiên là người chiến sĩ “nặng nỗi nước nhà” (khác với hình ảnh ẩn sĩ và thiên nhiên trong thơ cổ).
+ Tính cổ điển và hiện đại trong phong cách thơ HCM.
* Cổ điển: Thể thơ Đường luật, hình ảnh thiên nhiên (trăng, suối, hoa…)
* Hiện đại: Nhân vật trữ tình lo “nỗi nước nhà”
– Kết bài:
+ Sự hài hòa về tâm hồn nghệ sĩ và ý chí chiến sỹ trong bài thơ.
+ Đánh giá chung: Khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Đề 2 :
a. Tìm hiểu đề:
– Nhớ lại quang cảnh chiến đấu sục sôi, hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc với nhiều lực lượng tham gia.
– Nhớ lại niềm vui khi tin tức chiến thắng của mọi miền đất nước tiếp nối báo về. (4 câu cuối).
b. Lập dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ.
– Thân bài:
+ Triển khai các ý trong phần tìm hiểu đề.
+ Nghệ thuật điêu luyện trong việc sử dụng thể thơ lục bát:
* Cách dùng từ ngữ, hình ảnh.
* Cách vận dụng các biện pháp tu từ (so sánh, cường điệu).
* Giọng thơ hào hùng, sôi nổi.
– Kết bài:
Đoạn thơ thể hiện thành công cảm hứng ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.Soạn văn Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ lớp 12.

Bài 2 trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Từ các đề bài và kết quả thảo luận, anh (chị) hãy cho biết đối tượng, nội dung của bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Trả lời
– Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ, …). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ, … của bài thơ, đoạn thơ đó.
– Bài viết thường có các nội dung sau:
+ Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
+ Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
+ Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.

Bài luyện tập trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Câu hỏi: Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Trường Giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Gợi ý:
Các em có thể dựa vào mẫu dàn ý chi tiết sau đây để triển khai bài nghị luận:
1. Mở bài: Giới thiệu chung
Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong sáng tác của Huy Cận. Tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi nhà thơ đứng bên bờ nam bến Chèm (Hà Nội), nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước bốn bề bao la thuần tuý tả cảnh thiên nhiên, mô tả cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đó là cái “thế giới bên trong”, cái linh hồn của tạo vật trong nỗi xa vắng mênh mông. Khổ thơ kết cũng vừa là cảnh, vừa là tâm hồn.
2. Thân bài
– Câu thơ 1:
+ Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp…
+ Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.
– Câu thơ 2:
+ Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông.
=> Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).
– Câu thơ 3: Lòng quê: nỗi nhớ quê hương gợi lên theo sóng nước.
– Câu thơ 4: Xuất xứ từ câu thơ của Thôi Hiệu đời Đường: “Nhật mô hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (“Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Tản Đà dịch thơ). Tứ thơ mới mẻ, học tập thơ xưa và sáng tạo thêm cái mới.
=> Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
– Nét đặc sắc nghệ thuật: Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.
3. Kết bài
Tâm hồn nhà thơ đôn hậu, tinh tế. Đáng quý là cảnh vật và tâm trạng tác giả tuy buồn cô liêu nhưng rất đẹp, thể hiện tài năng và sự tinh tế trong cảm nhận thế giới tự nhiên và cuộc sống con người.

Tổng kết
– Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ,…). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ,… của bài thơ, đoạn thơ đó.
– Bài viết thường có các nội dung sau:
+ Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
+ Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
+ Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 4

I. Khái niệm

1. Nghị luận về thơ (đoạn thơ, bài thơ):

Là cách sử dụng tổng hợp những thao tác lí luận để làm rõ nội dung tư tưởng, phong cách nghệ thuật của thơ (đã tác động dưới cảm xúc thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.


II. Nghị luận về một bài thơ

1. Đề bài: Phân tích bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.

a. Tìm hiểu đề

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:
Thời gian: Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
Địa điểm: Chiến khu Việt Bắc. Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân ta.
Nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ
Nội dung:
Vẻ đẹp núi rừng đêm trăng chiến khu Việt Bắc
Hình ảnh người thi sĩ chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh (yêu thiên nhiên, nặng lòng lo nỗi nước nhà).
Nghệ thuật: Vẻ đẹp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại
b. Lập dàn ý:

Mở bài: Hoàn cảnh sáng tác, luận đề, trích dẫn bài thơ
Thân bài:
Luận điểm 1: Cảnh đẹp đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc
Luận cứ: Hai câu thơ đầu
Hình ảnh: đẹp
Thi vị: Trăng, hoa, cổ thụ, tiếng suối.
Luận điểm 2: Hình tượng nhân vật trữ tình: thi sĩ – chiến sĩ
Luận cứ: 2 câu cuối
Tâm trạng: chưa ngủ
Tình cảm: yêu thiên nhiên, lo nước
Luận điểm 3: Vẻ đẹp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại
Luận cứ:
Cổ điển: thể thơ tứ tuyệt, bút pháp miêu tả, hình ảnh thiên nhiên
Hiện đại: Nhân vật trữ tình không phải là ẩn sĩ lãnh đời mà là chiến sĩ (Cảm hứng chủ đạo là tình cảm đất nước).
Luận điểm 4: Đánh giá nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ
Kết bài:
Khẳng định bài thơ
Cảm nghĩ của bản thân về Bác.


Ghi nhớ:

Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ…). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ,…của bài thơ, đoạn thơ đó.
Bài viết thường có các nội dung sau:
Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ
Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ
Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.

Luyện tập

Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Tràng Giang của Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời non nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Trả lời:

Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng “ảo não” nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của con người này, Xuân Diệu viết: “Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thièn thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bồng lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thô thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?”

Chẳng cần tới tập Lứa thiêng, chí riêng bài thơ Tràng Giang cũng đủ làm nên hồn thơ “ảo não” – Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng Giang:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây

Nếu như trong ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn – “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa

“Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng”, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi “Tràng Giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Đó là cảnh thực, song cung là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng “núi bạc”, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh “núi bạc” ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ “đùn”: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp” (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự: Ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Ta thấy trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)… Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.

Trong thơ ca cổ điển cùng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiộp, gợi lên cái buồn vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó lại là một cánh chim “nghiêng cánh nhỏ” và đang chở nặng “bóng chiều sa” cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh “núi bạc” hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến cảnh “Tràng Giang” đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và “Tràng Giang” đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe thêm lời tự bình của tác giả:

“Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa”.

Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn “nghiêng cánh nhỏ” trong Tràng Giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo “cánh chim mỏi” cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:

“Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi”

(Bà Huyện Thanh Quan)

Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, “bóng chiều sa” ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét: “Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy – tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ…”.

Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Chữ “sa” rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” ấy, chứ không phải là “xa”, bởi nếu đó là “bóng chiều xa” thì nỗi buồn của thi nhân chỉ giản đơn là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi “sầu nhân thế” như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian của “bóng chiều sa” ấy, và nó còn thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Trong suốt hành trình “Tràng Giang”, ta luôn gặp những từ láy: “điệp điệp”, “song song”, “đìu hiu”, “lớp lớp”… tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết, và nốt nhạc kết thúc là “dợn dợn”, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng. “Dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tình riêng: ta với ta

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

hay:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

(Hoàng Hạc Lâu – Tản Đà dịch)

Gợi lên từ tứ thơ ấy của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Cũng là tấm “tình quê” của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm “tình quê” ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại ở cách nói trái ngược với ý Thôi Hiệu – một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy “lãng mạn”. Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt – không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng “tình quê” Huy Cận vẫn trào dâng:

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái “nhớ” ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn, mà “nhớ nhà” nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã nói: “Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật là sâu nặng.

Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu “dập dềnh như sóng nước Tràng Giang” của hai câu thơ cuối.

Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống – những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của thi nhân – “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim – lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:

Một chiếc linh hồn nhỏ

Mang mang thiên cổ sầu

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng “ảo não”, càng “buồn” bấy nhiêu.

Ai đó đã nói: Thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng Giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng, cao quí – tình yêu đất nước.

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 5

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cũng như cách làm các kiểu bài nghị luận khác gồm các bước sau :

a) Tìm hiểu đề và tìm ý;

b) Lập dàn bài;

c) Viết bài;

d) Đọc lại bài viết và sửa chữa.

2. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ vẫn phải đảm bảo bố cục ba phần :

a) Mở bài : Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ, nêu nhận xét khái quát về đoạn thơ, bài thơ đó.

b) Thân bài : Lần lượt trình bày những cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

c) Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

Cần nêu được những nhận xét, đánh giá và sự cảm nhận riêng của người viết về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ trên cơ sở phân tích, bình giá hình ảnh, ngôn từ, kết cấu và giọng điệu, nội dung, cảm xúc trong đoạn thơ, bài thơ đó.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

Câu 1. Tìm hiểu đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm : phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…

Một loại đề không có những từ ngữ định hướng : đề số 4, đề số 7.

b) Các từ ngữ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.

– Phân tích : yêu cầu phải phân tích đoạn thơ, bài thơ, đi sâu vào các phần nhỏ của nó để rút ra những nhận định cần thiết.

– Cảm nhận : lưu ý đến ấn tượng và cảm thụ riêng của người viết về đoạn thơ, bài thơ đó, nhấn mạnh đến yếu tố cảm thụ chủ quan.

– Suy nghĩ : nhằm nhấn mạnh tới những suy nghĩ riêng, những kết luận rút ra trên cơ sở suy luận về những yếu tố nội dung, nghệ thuật và kết luận lô-gíc rút ra từ đó.

Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Ví dụ đề số 4 là hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Đề số 7 là những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác. Vấn đề là phân tích hay cảm nhận, phân tích hay suy nghĩ, phân tích hay bình luận là do người viết tự chọn lựa. Cốt làm rõ được hình ảnh người chiến sĩ lái xe hay làm rõ được những đặc sắc của bài thơ.

Câu 2. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Tìm hiểu bài Quê hương trong tình thương, nỗi nhớ:

a) Trong văn bản trong SGK, phần Thân bài bắt đầu từ “Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết” cho đến “tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh”.

Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương nồng nàn, tha thiết của tác giả thể hiện trên các hình ảnh, cảm xúc :

– Trai làng ra khơi đánh cá mạnh mẽ, hào hứng.

– Thuyền đánh cá trở về trong sự chào đón của dân làng.

– Cảm nhận tinh tế về con người, cảnh vật của quê hương.

– Những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, rung động tinh tế.

Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu, những hình ảnh thơ đặc sắc.

Các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài gắn kết với nhau chặt chẽ, tự nhiên. Mở bài giới thiệu ấn tượng chung về bài thơ Quê hương. Thân bài triển khai những thành công của bài thơ về tình cảm quê hương. Kết bài khái quát giá trị bồi đắp tình yêu quê hương của bài thơ.

b) Nhìn chung vãn bản có tính thuyết phục. Người viết đã tập trung làm rõ tình yêu quê hương tha thiết của Tế Hanh được thể hiện bằng những hình ảnh đẹp, giàu sức gợi của làng chài. Trong khi nêu luận điểm, người viết đã chỉ ra sự đặc sắc của hình ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của những câu thơ dạt dào tình yêu quê hương. Người viết cũng thực sự xúc cảm, rung động với bài thơ, rung động với tình yêu quê hương.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Mở bài : Giới thiệu khổ thơ đầu.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Đây là khổ thơ nêu những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những dấu hiệu mùa thu đã về.

Thân bài :

– Phân tích những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu của mùa thu :

+ Hương ổi chín là hương quả mùa thu.

+ Gió se là gió heo may hanh và se se lạnh – gió của mùa thu.

+ Sương chùng chình qua ngõ là sương mùa thu.

– Phân tích giá trị gợi tả của các từ phả, chùng chình, hình như.

Những cảm nhận này kết hợp các giác quan : khứu giác, xúc giác, thị giác (mùi hương, cái lạnh se, sự chùng chình).

– Cảm nhận từ gần ra xa, từ bên người ra ngoài ngõ.

Kết bài : Nhấn mạnh sự tinh tế trong cảm nhận về dấu hiệu của mùa thu.

Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 6

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ, …). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ, … của bài thơ, đoạn thơ đó.
Bài viết thường có các nội dung sau:
Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1 (Trang 86 SGK) Hãy phân tích một đoạn thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Bài làm:
Mở bài
Giới thiệu Huy Cận, bài thơ Tràng giang và đoạn thơ phân tích.
Thân bài

1. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ, cảm xúc bao trùm bài thơ.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận, sáng tác năm 1939, rút từ tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của Huy Cận, sáng tác khoảng 1937- 1940. Tập thơ đã đưa Huy Cận trở thành một gương mặt tiêu biểu trong phong trào thơ mới thời kì đầu phát triển.
Huy Cận là thi sĩ thơ lãng mạn có nỗi buồn “ảo não”, “ngẩn ngơ” trước cái không gian bao la và thời gian thăm thẳm. Đó là nỗi buồn “sông núi”, nỗi buồn trước cảnh nước mất, nhà tan và nỗi buồn cô đơn của một thế hệ nhà “thơ mới” nằm tròn trong vòng một “chữ tôi” bế tắc, luôn luôn có niềm khao khát được hoà hợp cảm thông trong tình đất nước và tình nhân loại.

2. Nội dung đoạn thơ bao quát cảnh và tình trong toàn bộ bài thơ.
Bài thơ này là phân tích một bức tranh thiên nhiên sông nước hầu như đã trở thành cổ điển mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu mênh mang. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại vẫn là bát ngát, mênh mông mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn tạ, lụi tắt, cô đơn, bơ vơ, nổi trôi, chia lìa, phiêu dạt. Đây là nỗi buồn cô đơn rợn ngợp của cá thể trước cái không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khao khát được hoà hợp cảm thông giữa người và người trong tình đất nước và tình nhân loại.

3. Phân tích khổ thơ
Khổ thơ ta bình giảng là khổ thứ nhất của bài thơ. Nó mở ra bằng một hình ảnh sông nước mênh mông trước một bức tranh thiên nhiên “Tràng giang” tàn tạ, quạnh hiu, nổi trôi, chia lìa, phiêu dạt.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Câu 1: Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp… Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.
Câu 2: Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông. Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).
Hai câu sau thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê dâng ngập lòng người (tựa như con sóng bao phủ dòng sông). Đó là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống trải (nó không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê).
Nghệ thuật dùng từ láy âm “dợn dợn” lấy cái không có ở ngoại cảnh (không khói hoàng hôn) để nói cái có ở lòng người (nhớ nhà).


4. Đánh giá nội dung và nghệ thuật đoạn thơ.
Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.
Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ở hình thức ngôn ngữ, ở bút pháp tả cảnh, tả tình.
Kết bài
Đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật đoạn thơ

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cũng như cách làm các kiểu bài nghị luận khác cần nêu được những nhận xét, đánh giá và sự cảm nhận riêng của người viết về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ trên cơ sở phân tích, bình giá hình ảnh, ngôn từ, kết cấu và giọng điệu, nội dung, cảm xúc trong đoạn thơ, bài thơ đó. Bài học “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về điều này, từ đó rèn luyện kĩ năng thực hiện các bước khi làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, cách tổ chức, triển khai các luận điểm. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 1

I. Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì, … Một loại đề không đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh cụ thể (Đề 4, 7).

b. Khi đề bài yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.

+ Phân tích là muốn định hướng cụ thể về thao tác, khi đó phải phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng.

+ Cảm nhận và suy nghĩ là muốn nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng (cảm nhận) và nhận định, đánh giá (suy nghĩ) về đối tượng; đối với loại yêu cầu này, để thuyết phục, chứng minh được ý kiến của mình, người làm cũng phải tiến hành giảng giải bằng các thao tác như phân tích, giải thích…

+ Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.

II. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

1. Các bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đọc SGK

2. Cách tổ chức, triển khai luận điểm

a.

Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết về…” cho đến “…thành thực của Tế Hanh.”): Trình bày những cảm nhận, phân tích về tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, thơ mộng của nhà thơ qua bức tranh dân chài ra khơi và cảnh trở về bến cùng những hình ảnh đặc sắc thể hiện nỗi nhớ, tình thương của tác giả.

Các luận điểm chính của phần Thân bài:

+ Nhận định khái quát: Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình.

+ Cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ.

+ Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập, no ấm, yên bình.

+ Hình ảnh người dân chài được khắc hoạ nổi bật giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn.

+ Những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi.

Các luận điểm chính của phần Thân bài:

+ Nhận định khái quát: Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình.

+ Cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ.

+ Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập, no ấm, yên bình.

+ Hình ảnh người dân chài được khắc hoạ nổi bật giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn.

+ Những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi.

Giữa Mở bài, Thân bài và Kết bài có mối liên kết chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức.

b. Văn bản có sức thuyết phục, hấp dẫn:

+ Bố cục mạch lạc, sáng rõ.

+ Luận điểm được triển khai rõ ràng, từng luận điểm được chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong bài thơ.

+ Bài văn ngắn gọn, lời lẽ súc tích, thể hiện được rung động, đồng cảm của người viết trước vẻ đẹp và cảm xúc của bài thơ.

III. Luyện tập

Câu 1: Lập dàn bài cho bài văn với đề bài: Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Thực hiện theo trình tự các bước:

– Tìm hiểu đề và tìm ý:

+ Tìm hiểu đề: Vấn đề nghị luận là gì? (khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh). Yêu cầu (mệnh lệnh) làm gì? (phân tích).

+ Tìm ý: Nội dung cảm xúc của bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh là gì? Nội dung cảm xúc của khổ thơ đầu bài thơ này là gì? Cảm xúc của nhà thơ được gợi lên từ hương vị, đặc điểm gì của thiên nhiên? Khổ thơ có gì đặc sắc về hình ảnh thơ, ngôn từ?

– Lập dàn bài theo bố cục 3 phần: Chú ý xây dựng các luận điểm chính và chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong khổ thơ.

Ở phần Thân bài, có thể triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:

+ Cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng.

+ Cảm nhận tinh tế về hương vị: hương ổi phả vào trong gió se.

+ Hình ảnh sương đầu thu, nhẹ nhàng giăng mắc.

+ Hình ảnh thơ độc đáo được tạo nên bởi những từ ngữ giàu sức gợi cảm: bỗng, phả vào, gió se, chùng chình, hình như.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 2

Phần I: TÌM HIỂU ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Trả lời câu hỏi (trang 80 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

a. Các đề bài trong SGK có cấu tạo chia làm hai loại

– Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…

– Một loại đề không có những từ ngữ định hướng: đề số 4, đề số 7.

b. Các từ ngữ trong đề bài như: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.

– Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài.

Phần II: CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Trả lời câu hỏi (trang 83 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

a.

– Các phần của văn bản:

+ Mở bài (từ đầu đến “thành công khởi đầu rực rỡ”): giới thiệu về nhà thơ và bài thơ.

+ Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết” tới “thành thực của Tế Hanh”): phân tích vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về.

+ Kết bài (phần còn lại): nếu lên giá trị của bài thơ đối với người đọc trong việc bồi đắp tình yêu quê hương.

– Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu.

b. Văn bản có sức thuyết phục bởi vì:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, hợp lí.

– Người viết đã đưa ra những nhận xét, những cảm thụ của riêng mình.

– Giọng văn truyền cảm, lôi cuốn.


Phần III: LUYỆN TẬP

Trả lời câu hỏi (trang 84 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Bài tham khảo:

Mùa thu là một trong những đề tài được nhiều thi nhân viết đến. Tuy nhiên, mỗi bài thơ thu lại có những nét độc đáo và thi vị riêng. “Sang thu” của Hữu Thỉnh cũng là một bài thơ thu như thế. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa tinh tế của đất trời và của lòng người lúc sang thu. Mở đầu bài thơ, người đọc đã có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Ở đây đó chính là bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu. Cái hay và tinh tế nữa đó là, tác giả nhận thấy mùa thu không phải vì bầu trời cao xanh hơn hay hoa cúc nở vàng như trong các bài thơ ta thường thấy mà ở đây là vì “hương ổi phả vào trong gió se”. Sự tinh tế của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về. Không chỉ có “hương ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Với cách nhân hóa, từ láy “chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của màn sương giống như một nàng Thu yêu kiều đang bước tới. Sương bay qua ngõ, giăng mắc vào những giậu rào, trên những cành cây khô đầu ngõ cuối thôn. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (hương ổi – vị giác, gió se – xúc giác, sương chùng chình – thị giác) nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. “Hình như” là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng kì thực là tác giả đã tự khẳng định rằng: mùa thu về thật rồi.

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khác giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 3

I – Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ (trang 80 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi

Câu hỏi :

a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào ?

b) Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ (hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm ? (Gợi ý: Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiểu bài” khác nhau.)

Trả lời :

a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại :

– Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…

– Một loại đề không có những từ ngữ định hướng: đề số 4, đề số 7.

b) Các từ ngữ trong đề bài như phân tích, suy nghĩ, cảm nhận biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài :

– Phân tích : yêu cầu phải phân tích đoạn thơ, bài thơ, đi sâu vào các phần nhỏ của nó để rút ra những nhận định cần thiết.

– Cảm nhận : lưu ý đến ấn tượng và cảm thụ riêng của người viết về đoạn thơ, bài thơ đó, nhấn mạnh đến yếu tố cảm thụ chủ quan.

– Suy nghĩ : nhằm nhấn mạnh tới những suy nghĩ riêng, những kết luận rút ra trên cơ sở suy luận về những yếu tố nội dung, nghệ thuật và kết luận lô-gic rút ra từ đó.

Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Ví dụ đề số 4 là hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Đề số 7 là những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Vấn đề là phân tích hay cảm nhận, phân tích hay suy nghĩ, phân tích hay bình luận là do người viết tự lựa chọn. Cốt làm rõ được hình ảnh người chiến sĩ lái xe hay làm rõ những đặc sắc của bài thơ.


II – Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Câu 1 trang 80 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2 : Các bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Câu 2 trang 83 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2 : Cách tổ chức, triển khai luận điểm

Câu hỏi :

a) Trong văn bản nêu trên, đâu là phần Thân bài ? Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương ? Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao ?

b) Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không ? Vì sao ? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này ?

Trả lời :

a) Trong văn bản trong SGK, phần Thân bài bắt đầu từ “Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết” cho đến “tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh”.

Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương nồng nàn, tha thiết của tác giả thể hiện trên các hình ảnh, cảm xúc :

– Trai làng ra khơi đánh cá mạnh mẽ, hào hứng.

– Thuyền đánh cá trở về trong sự chào đón của dân làng.

– Cảm nhận tinh tế về con người, cảnh vật quê hương.

– Những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, rung động tinh tế.

Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu, những hình ảnh thơ đặc sắc. Các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài gắn kết với nhau chặt chẽ, tự nhiên. Mở bài giới thiệu ấn tượng chung về bài thơ “Quê hương”. Thân bài triển khai những thành công của bài thơ về tình cảm quê hương. Kết bài khái quát giá trị bồi đắp tình yêu quê hương của bài thơ.

b) Nhìn chung văn bản có tính thuyết phục. Người viết đã tập trung làm rõ tình yêu quê hương tha thiết của Tế Hanh được thể hiện bằng những hình ảnh đẹp, giàu sức gợi của làng chài. Trong khi nêu luận điểm, người viết đã chỉ ra đặc sắc của hình ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của những câu thơ dạt dào tình yêu quê hương. Người viết cũng thật sự xúc cảm, rung động với bài thơ, rung động với tình yêu quê hương.


Ghi nhớ:

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần được bố cục mạch lạc theo các phần :

+ Mở bài : Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nên nhận xét, đánh giá của mình. (Nếu phân tích một đoạn thơ cần nêu rõ vị trí củ đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó).

+ Thân bài : Lần lượt trình bàu những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

+ Kết bài : Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc … của tác phẩm

III – Luyện tập (trang 84 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Dàn ý

1. Mở bài :

– Giới thiệu khổ thơ đầu :

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

– Đây là khổ thơ nêu những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu mùa thu đã về.

2. Thân bài :

– Phân tích những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu của mùa thu :

+ Hương ổi chín là hương quả mùa thu.

+ Gió se là gió heo may hanh và se se lạnh – gió của mùa thu.

+ Sương chùng chình qua ngõ là sương mùa thu.

– Phân tích giá trị gợi tả của các từ phả, chùng chình, hình như.

– Những cảm nhận này kết hợp các giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác (mùi hương, cái lạnh se, sự chùng chình).

– Cảm nhận từ gần ra xa, từ bên người ra ngoài ngõ.

3. Kết bài : Nhấn mạnh sự tinh tế trong cảm nhận về dấu hiệu của mùa thu.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

I- ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Đề 1. Phân tích các tầng nghĩa trong đoạn thơ sau:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)

Đề 2. Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đề 3. Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng cuội.
Đề 4. Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Đề 5. Bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy gợi cho em những suy nghĩ gì?
Đề 6. Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh.
Đề 7. Những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Đề 8. Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài Nói với con của Y Phương.


Câu hỏi:
a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?
b) Các từ trong bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ ( hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu yêu cầu gì đối với bài làm?
Trả lời:
a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì, … Một loại đề không đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh cụ thể (Đề 4, 7).
b) Khi đề bài yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.
Phân tích là muốn định hướng cụ thể về thao tác, khi đó phải phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng.
Cảm nhận và suy nghĩ là muốn nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng (cảm nhận) và nhận định, đánh giá (suy nghĩ) về đối tượng; đối với loại yêu cầu này, để thuyết phục, chứng minh được ý kiến của mình, người làm cũng phải tiến hành giảng giải bằng các thao tác như phân tích, giải thích…
Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.


II- CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

1. Cách bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đề bài “Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh”, ta có trình tự các bước như sau:

Bước 1. Tìm hiểu đề và tìm ý

Đề bài đưa ra vấn đề nghị luận nào? (tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hươngcủa Tế Hanh).
Đề bài có đưa ra yêu cầu (mệnh lệnh) cụ thể không, nếu có thì yêu cầu ấy là gì? (Phân tích)

– Tìm ý:
Đọc kĩ lại bài thơ (nếu là đoạn thơ thì cũng phải đọc kĩ cả bài, đặt đoạn thơ đó vào bài thơ để tìm hiểu).
Tìm hiểu khái quát về tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ (nếu có): Tế Hanh sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ mới với những bài thơ mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê hương thắm thiết.
Sắc thái cảm xúc xuyên suốt bài thơ là gì (?): tha thiết, ngọt ngào.
Tìm hiểu những nét đặc sắc nổi bật nhất về nội dung và nghệ thuật của bài thơ: Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài được thể hiện bằng những vần thơ bình dị, giàu sức gợi cảm.
Sau khi đã nắm được những nét chung nhất về bài thơ, em hãy xác định những luận điểm chính gắn với vấn đề nghị luận mà đề bài đưa ra:
Trong cách xa, nhà thơ nhớ về quê hương như thế nào? Hình ảnh làng quê hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ có những đặc điểm và vẻ đẹp gì?
Bài thơ có những hình ảnh, câu thơ nào gây ấn tượng sâu sắc đối với em? Ngôn từ, giọng điệu của bài thơ có gì đặc sắc?

Bước 2. Lập dàn bài

Trình bày các luận điểm theo bố cục 3 phần:
Mở bài: Giới thiệu bài thơ, nêu khái quát nhận định của mình về vấn đề nghị luận: Giới thiệu sơ lược về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, nêu nhận định của em về tình yêu quê hương trong bài thơ.
Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận: Phân tích những biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương trong bài thơ.
Nêu nhận xét chung về bài thơ: Bài thơ Quê hương thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, đậm chất lí tưởng, lãng mạn.
Tình yêu quê hương biểu hiện cụ thể ở vẻ đẹp của cảnh ra khơi và cảnh trở về:
Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi: khoẻ khoắn, đầy sức sống
Cảnh đón thuyền cá về bến về: tấp nập, bình yên, no đủ
Tình yêu quê hương thể hiện ở nỗi nhớ: những hình ảnh của quê hương in đậm trong kí ức của nhà thơ.

Kết bài: Chốt lại vấn đề nghị luận, mở rộng liên tưởng: Khẳng định vẻ đẹp, tình yêu quê hương được gửi gắm trong bài thơ. Nêu lên ấn tượng mà vẻ đẹp của bài thơ đã để lại trong tâm trí em.
Bước 3. Viết bài
Bước 4. Đọc lại bài viết và sửa chữa


2.Cách tổ chức, triển khai luận điểm

Đọc và trả lời câu hỏi:
QUÊ HƯƠNG TRONG TÌNH THƯƠNG, NỖI NHỚ
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng chài nghèo ở một vùng cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ.
Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ :

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Tâm hồn nhà thơ náo nức những hình ảnh đầy sức mạnh :
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng máu chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiêng ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Bằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm ! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng : Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy. Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết :

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền hơi thơ băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương :

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Chỉ ai là người con của một vạn chài mới viết được những câu thơ như thế. Tế Hanh như khắc tạc bức tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn : bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muốn mặn mòi ấy thấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã thấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kỳ diệu ?

Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỷ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá – Câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh. Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.
(Bài làm của học sinh)

Câu hỏi:
a) Trong văn bản trên đâu là phần thân bài? Ở phần ngày người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương? Những suy nghĩ ý kiến ấy được dẫn dắt khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần mở bài và thân bài ra sao?
b) Văn bản có sức thuyết phục và hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì về cách làm bài nghị luận văn học này?
Trả lời:
a)
Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết về…” cho đến “…thành thực của Tế Hanh.”): Trình bày những cảm nhận, phân tích về tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, thơ mộng của nhà thơ qua bức tranh dân chài ra khơi và cảnh trở về bến cùng những hình ảnh đặc sắc thể hiện nỗi nhớ, tình thương của tác giả.
Những suy nghĩ ý kiến ấy được dẫn dắt khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần mở bài và thân bài được phân tích, bingh giảng cụ thể gắn liền với hình ảnh, ngôn từ giọng điệu của bài thơ. Phần thân bài kết nối với phần thân bài một cách chặt chẽ, đó chính là sự phân tích, chứng minh làm sáng tỏ nhận định, nhận xét bao quát ở mở bài. Từ đó dẫn đến kết bài nhằm đánh giá sức hấp dẫn, ý nghĩa của bài viết.

b) Văn bản có sức thuyết phục và hấp dẫn. Bởi vì:
Bố cục mạch lạc, sáng rõ.
Luận điểm được triển khai rõ ràng, từng luận điểm được chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong bài thơ.
Bài văn ngắn gọn, lời lẽ súc tích, thể hiện được rung động, đồng cảm của người viết trước vẻ đẹp và cảm xúc của bài thơ.
Rút ra bài học: Bài nghị luận về một đoạn thơ bài thơ cần nêu lên được các nhận xét đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải được gắn với sự phân tích, bình giá ngôn ngữ hình ảnh giọng điệu nội dung cảm xúc của tác phẩm.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

III- LUYỆN TẬP

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Sang thu Hữu Thỉnh

Bài làm:
Mùa thu mang đến cho tâm hồn con người những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất. Mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất khơi gợi nhiều những suy nghĩ tâm tư rung động của mỗi nhà văn nhà thơ. Nếu như mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời thì mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người đặc biệt biệt qua khổ thơ:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta. Khổ trện mở đầu cho bài thơ Sang thu là những cảm xúc khơi nguồn cảm hứng sáng tác của tác giả. Nếu như Xuân Diệu bắt đầu mùa thu với tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê dược “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.”

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .”Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê.“Hương ổi” được hữu hình trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm dà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Tác giả sử dụng thành công từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.

Đoạn thơ mở đầu diễn biến mạch theo mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả vào lúc sang thu.Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Cách sử dụng thể thơ ngũ ngôn thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Đoạn thơ với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 5

Kiến thức cơ bản

Những kiến thức quan trọng bạn cần ghi nhớ:

• Bài nghị luận tác phẩm văn học cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng

– Phần mở bài: giới thiệu tác phẩm và bước đầu nêu ý kiến đánh giá của mình.

– Phần thân bài: Lần lượt trình bày những ý kiến, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ, phân tích, chứng minh các luận điểm đã nêu ở phân mở bài bằng những luận cứ cụ thể, đáng tin cậy.

– Phần kết bài: khái quát, giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc… của tác phẩm.

• Lời văn của bài nghị luận một đoạn thơ, bài thơ cần phải tự nhiên, giàu cảm xúc, thể hiện sự tự tin, nhiệt tình trước vấn đề đang trình bày.

Hướng dẫn soạn bài cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Gợi ý trả lời câu hỏi sách giáo khoa.

Đề bài nghị luận về một đoạn thơ

Đọc các đề bài (tr 79;80 SGK Ngữ văn 9 tập 2 )và trả lời câu hỏi

a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?

b) Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ (hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm? (Gợi ý: Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làms bài. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiểu bài” khác nhau.)

Trả lời

a) Tám đề văn trong sách giáo khoa đều có cấu tạo giống nhau là yêu cầu người viết phải nêu lên cảm nhận, suy nghĩ của mình về đoạn thơ hoặc bài thơ. Những bài thơ có trong các đề này đều là những bài các em đã học qua trong chương trình ngữ văn 9.

b) Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ từ suy nghĩ nhấn mạnh đến nhận định, phân tích của người viết. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiều bài” khác nhau.

Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ

Câu 2 – Trang 83 SGK

Đọc văn bản Quê hương trong tình thương, nỗi nhớ (Tr 81 – 93 SGK)sau và trả lời câu hỏi:

a) Trong văn bản trên, đâu là phần Thân bài? Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương? Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao?

b) Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này?

Trả lời

a) – Các phần của văn bản:

+ Mở bài: từ đầu đến “thành công khởi đầu rực rỡ”: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.

+ Thân bài: Từ “nhà thơ đã viết” đến “thành thực của Tế Hanh”: Phân tích vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và cảnh đoàn thuyền đánh cả lúc trở về.

+ Kết bài: Phần còn lại: Nêu lên giá trị của bài thơ đối với người đọc trong việc bồi đắp tình yêu quê hương.

– Cách dẫn dắt khẳng định: tác giả nêu lên những nhận xét, đánh giá khái quát, sau đó nêu lên dẫn chứng và phân tích.

b) Văn bản có sức thuyết phục bởi:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, hợp lí.

– Có những nhận xét và cảm thụ riêng của tác giả.

– Giọng văn truyền cảm, lôi cuốn.

Luyện tập

Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

Bài làm tham khảo

Mùa thu đến với anh khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Bắt đầu không phải là những nét đặc trưng của trời mây sắc vàng hoa cúc như trong thơ cổ điển. Bắt đầu là hương ổi thơm nức. Một chữ “phả” kia đủ gợi hương thơm như sánh lại. Nó sánh bởi vì hương đậm một phần, sánh còn bởi tại hương gió se. Hương thơm lùa vào trong gió được tinh lọc, được cô đặc thêm. Gió mùa thu hào phóng đem chia hương mùa thu – bấy giờ là hương ổi chín tới khắp nơi trong vũ trụ. Tại một vùng quê nhỏ, trong một phút giây nào đó, người viết chợt bắt gặp hương thu và bỗng sững sờ.

Đã cảm được hương ổi, đã nhận ra gió se, hơn thế nữa, mắt lại còn nhìn thấy sương đang chùng chình qua ngõ. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế mà sao tác giả lại viết “hình như thu đã về”. Còn điều chi nữa mà ngờ? Thu đã vể thật đấy rồi, sao lại còn nghi hoặc? Như đã nói ở trên. Cái chính là sự bất ngờ, đột ngột. Do bất ngờ nên cả khứu giác (mùi hương ổi) cả xúc giác (hơi gió se) cả thị giác (sương chùng chình) đều mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, vẫn chưa dám chắc. Cái bảng lảng mơ hồ chính trong cảm giác “hình như” ấy đã tôn thêm vẻ khói sương lãng đăng lúc thu sang. Đó là một nguyên nhân. Nhưng sâu xa hơn, ở đây còn bộc lộ nét “sang thu” trong hồn người mà sau chúng ta sẽ nói tới.

Hình như thu đã về.

Đó là một ấn tượng tổng hợp từ những cảm giác riêng về hương, về gió, về sương. Từ hương nhận ra gió. Từ gió nhận ra sương. Nhưng khi phát hiện “sương chùng chình qua ngõ” thì trong sương cũng có hương, trong sương cũng có gió, và trong sương như còn có cả tình. “Chùng chình” hay chính là sự lưu luyến, bâng khuâng, ngập ngừng, bịn rịn? Cái ngõ mà sương đẫm hương, sương nương theo gió đang ngập ngừng đi qua vừa là cái ngõ thực, vừa là cải ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Phút giây giao mùa của thiên nhiên ấy, nhìn thấy rồi, cảm thấy rồi mà sững sờ tưởng khó tin. Do đó “hình như thu đã vể“ còn như là một câu thầm hỏi lại mình để có một sự khẳng định.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 6

I. Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Các đề bài trên chia làm hai loại :

Có đề bài không kèm theo lệnh cụ thể: đề 4, 7.., mà chỉ có yêu cầu ngầm.
Có đề bài kèm theo mệnh lệnh cụ thể như các đề còn lại.
b. Yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị :

Phân tích : phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng, nghiêng về nghị luận.
Cảm nhận: nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng.
Suy nghĩ : nhấn mạnh nhận định, đánh giá về đối tượng.
Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.

II. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

1. Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):

4 bước

Tìm hiểu đề, tìm ý
Lập dàn ý
Viết thành văn
Đọc và sửa chữa.


2. Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):

Bài văn: Quê hương trong tình thương nỗi nhớ.

a. Phần Thân bài của văn bản : “Nhà thơ đã viết về … thành thực của Tế Hanh”.

Nhận xét của người viết trong phần Thân bài : cảm nhận về cảm xúc nồng nàn, mạnh mẽ, lắng sâu của Tế Hanh.
Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt theo từng luận điểm từ khái quát đến chi tiết, những hình ảnh nổi bật. Giữa Mở bài, Thân bài và Kết bài có mối liên kết chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức. Thân bài phân tích làm rõ nhận định ở Mở bài, từ các luận điểm ở Thân bài dẫn đến kết luận ở Kết bài.
b. Văn bản hấp dẫn, thuyết phục bởi:

Bố cục mạch lạc rõ ràng.
VB tập trung trình bày nhận xét, đánh giá về những giá trị đặc sắc nổi bật về nội dung cảm xúc và nghệ thuật của bài thơ, người viết phân tích những đặc sắc vê h/ả và ngôn từ…
Qua VB thấy người viết trình bày cảm nghĩ bằng cả sự rung cảm thiết tha đối với quê hương.


III. Luyện tập Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Tìm hiểu đề và tìm ý:

Tìm hiểu đề: Vấn đề nghị luận là gì? (khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh). Yêu cầu (mệnh lệnh) làm gì? (phân tích).
Tìm ý: Nội dung cảm xúc chung của bài thơ Sang thu là gì? Nội dung của khổ thơ đầu bài thơ này là gì? Cảm xúc của nhà thơ được gợi lên từ hương vị, đặc điểm gì của thiên nhiên? Khổ thơ có gì đặc sắc về hình ảnh thơ, ngôn từ?
Lập dàn bài theo bố cục 3 phần: Chú ý xây dựng các luận điểm chính và chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong khổ thơ.
b. Ở phần Thân bài, có thể triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:

Cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng : bỗng, hình như.
Cảm nhận tinh tế về dấu hiệu mùa thu : hương ổi phả vào trong gió se, sương chùng chình, sông nước, chim, mây, nắng, mưa, sấm.
Hình ảnh thơ độc đáo và từ ngữ giàu sức gợi cảm

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.