Vũ Quần Phương Cùng Những Bài thơ Đi Vào Năm Tháng Phần 2

Vũ Quần Phương Cùng Những Bài thơ Đi Vào Năm Tháng Phần 2

Nhà thơ Vũ Quần Phương được bạn đọc biết đến nhờ những bài thơ nổi tiếng của ông. Ông là một nhà thơ với phong cách thơ phóng khoáng nhưng đan xen những cảm xúc mộc mạc của mình làm rung động trái tim người đọc. Ở bài viết trước Vũ Quần Phương Cùng Những Bài thơ Đi Vào Năm Tháng Phần 1 chúng tôi đã nhận được rất nhiều chia sẻ tích cực của quý độc giả.

Hôm nay không để các bạn phải chờ lâu, phongnguyet.info mời các bạn đón xem những bài thơ còn lại của Vũ Quần Phương ngay bây giờ!

Nơi này ai cũng quen
Ngay từ thời tấm bé
Khi tay bà, tay mẹ
Còn dắt vòng đi men

Nơi bố mẹ ngày đêm
Lúc nào qua cũng vội
Nơi bạn bé chạy tới
Thường lúc nào cũng vui

Nơi này đã đưa tôi
Buổi đầu tiên đến lớp
Nay con đường xa tắp
Vẫn đang chờ tôi đi

Ngày trôi mau, mùa trôi mau
Sao vết thời gian cứ nhói đau
Mẹ xa thăm thẳm bao mùa hạ
Vườn cũ ngời xanh tia lá cau

Một đứa con xa, hai đứa con xa
Trưa hạ chông chênh, nhà vắng nhà
Lòng cứ mềm dần theo tuổi tác
Tiếng còi xa lắc phía sân ga

Cái gậy có một chân
Biết giúp bà khỏi ngã
Chiếc com-pa bố vẽ
Có chân đứng, chân quay
Cái kiềng đun hằng ngày
Ba chân xoè trong lửa
Chẳng bao giờ đi cả
Là chiếc bàn bốn chân
Riêng cái võng Trường Sơn
Không chân đi khắp nước

Những cánh diều vướng trên dây điện
Giấc mơ bay dừng lại nửa chừng
Mùa đang gió, trời đang rộng thế!

Những chú nhỏ đòi gì cũng được
Lần đầu tiên bất lực đứng nhìn lên
Đôi tay non như lá im lìm

Những chú nhỏ thở dài, vĩnh biệt
Giấc mơ bay treo ở lưng trời
Giấc mơ khóc cùng mưa tháng chín:

– Những chú nhỏ kia đã lớn rồi!

Nếu nhắm mắt trong vườn lộng gió,
Sẽ được nghe thấy tiếng chim hay,
Tiếng lích chích chim sâu trong lá,
Con chìa vôi vừa hót vừa bay.

Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,
Thấy chú bé đi hài bảy dặm,
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.

Nếu nhắm mắt nghĩ về cha mẹ,
Đã nuôi em khôn lớn từng ngày,
Tay bồng bế, sớm khuya vất vả,
Mắt nhắm rồi, lại mở ra ngay.

Phải chăng trước gương em thoáng nét buồn:
tuổi trẻ xa rồi, nhan sắc đi đâu!
Nhan sắc thành đời anh và các con khôn lớn
Thành tháng ngày khuya sớm lo toan
Thuở sinh đứa con đầu
em tháo vội chiếc áo len duy nhất,
chiếc áo hồi môn một thời con gái
để đan thành tấm áo nhỏ cho con
Anh đã rét cái rét em trong mùa đông ấy
ấm cái ấm của con suốt cả đời người
Em thức trắng nhiều đêm để bây giờ tóc bạc
mỗi sợi ấy dệt anh vào với cuộc đời này
Những sợi bạc vì anh mà có
những sợi chiều xao xác heo may
Năm tháng hạt thành cây, cây thành mùa trĩu quả
năm tháng dắt em đi lên mẹ, lên bà,
lấy khuya sớm nắng mưa thành mùa ấm lạnh
lấy bước nhỏ chân mình đo mọi chặng đường xa
Đôi vai mảnh tảo tần thành nơi anh nương tựa
bàn tay khum che chở hóa căn nhà
sợi tóc bạc như một lời nói nhỏ
anh nghe thầm gian khổ những ngày qua!

Trực chiến về, mẹ hát ru con
Lối ngõ thôn thơm mùi ổi chín
Sau cơn mưa khí trời ngọt lịm
Đêm xanh ngời khi ngôi sao lên

Hai đầu kèo võng lại ru êm
Con lại ngủ yên trong vòng tay mẹ bế,
Cánh cò trắng bay ra trận địa
Nghe tiếng ru cò lại bay về.

Cò lại vào trong giấc con mơ
Xanh biếc tuổi thơ-con cò bay vồi vội
Nước chảy ngoài kia, bờ đê gió thổi
Xóm mạc êm đềm trong đêm ca dao.

Trăng đã ngời trên ngọn phi lao
Cát lại trắng như nghìn năm mộng ước
Mẹ hát ru con trong lòng đêm đất nước
Một cánh cò bay suốt canh khuya…

Đêm êm lành- con cứ ngủ ngoan đi
Cây súng mẹ đã treo trên đầu cột
Con cứ mơ theo cánh cò trắng muốt
Giấc mơ gần mơ tiếp giấc mơ xa.

Ngỡ hết đường đi, đi lại thấy
Con đường chỉ hiện lúc xe đi
Đất hoá làm mây, cây hoá khói
Sau phía sương kia có những gì

Chẳng ai thức cuối đêm
Đợi vầng trăng cuối tháng
Chỉ người già dậy sớm
Có trăng làm tri âm

Đất lắm đắng cay mà sao mía ngọt
Uống đắng cay mà cứ ngọt trong lòng
Mía ngọt thế mà người trồng cay đắng
Cay đắng người, như mía, lặn vào trong

Biển ầm ầm sóng ngoài kia
Lặng im viên gạch nói gì thời gian
Sự đời tan hợp, hợp tan
Còn thân còn một thi gan với trời

Tôi nắm bàn tay anh, đọc trong mắt nhớ
thuở bàn tay giật tung bẫy đá
bắn ná, giương cung
thuở Tây nguyên hào hùng
bàn chân băng mười rừng chín suối
ào ạt gió rừng thông
rừng khốp rừng le ngun ngút nắng
thấp thoáng hoa bay
trời An Khê đầy mây
đèo Măng Giang vi vút bóng thông gầy
thuở đất nước đứng lên rừng chông bẫy đá

Người anh hùng hôm nay nằm đó
nụ cười trẻ nhỏ
trắng xoá tóc râu
bệnh viện trưa vọng tiếng ngàn sâu
mơ hồ thiêm thiếp
ngoài phố chợ lao xao vụ mật
rượu cần đang độ men
cuộc đời như thuỷ triều đang lên
đường cao nguyên mịt mù bụi đỏ
bao bàn chân con gái con trai
khao khát những con đường viễn xứ

Anh đứng đây
mái tóc nhuộm màu mây
thịt da ôm màu đất
chân dừng lại để trái tim bước tiếp
mũi tên anh bắn đi ngày trước
bây giờ đang bay.

Trung thu trăng sáng khắp trời
Cuội ơi, sao Cuội phải ngồi gốc đa
Đêm khuya mình Cuội trông nhà
Trời im như cánh đồng xa vắng người
Đâu ai cắt cỏ trên trời?
Đâu ai cưỡi ngựa đi mời quan viên?

Trung thu nào bánh nào đèn
Chúng em phá cỗ trăng chen với người
Ngẩng lên thương Cuội góc trời
Đêm trung thu lặng lẽ ngồi giữ trăng !

Đời cứ mênh mông như thế thôi
Càng đi càng khát những chân trời
Mây bay trắng mãi bờ vô tận
Ngắn ngủi bao nhiêu một kiếp người

Muốn nối đời ra bằng câu thơ
Lơ mơ dòng chữ đậu trên tờ
Mỏng manh trang giấy bay trong gió
Tiếng gọi muôn đời mong tiếng thưa

Người ở đâu và ta ở đâu
Dẫu trong xa lắc vẫn chờ nhau
Hỡi ai tim đập bên trang giấy
Có thấy lòng tôi run xuống câu

Ngựa toả mười phương, tranh vẫn đây
Tranh lên tiếng gọi, ngựa về ngay
Bờm đẫm sương mai, tai đẫm gió
Những đại dương mờ, những bến mây

Nghìn ngựa ào qua đầu ngọn bút
Thân chưa khô mực, đã đường xa
Ngựa ơi đồng đất người thiên hạ
Cỏ nuôi mày vẫn cỏ lòng ta

Lòng ta thành bụi, thành trăng sáng
Núi lạ, đồng xa, ta với ngươi
Bụi theo nâng vó bay ngàn dặm
Trăng rọi đường phi đến tận trời

Chuột thổi kèn, chuột làm chú rể
Cô dâu ngồi kiệu, thẹn thò ghê
Có cả chú mèo nhưng chẳng sợ
Khi đã mùa xuân ở bốn bề

Này trái dừa cao, anh trèo em đỡ
Vạt váy, ô hay dám hứng trời
Khuôn ngực để trần – mùa xuân mà lị
Thầy đồ cóc nhỉ, thầy đồ cóc ơi!

Thầy dậy những gì? Chi hồ giả dã
Học trò nghiêng ngả khổ quá mùa xuân
Nước chảy ngoài sông, cánh đồng mát thế
Mà mặt thầy cau, mà thước thầy cầm.

Đã tưởng ngày xuân vui làng, vui xóm
Ai có hay đâu khổ một thân chàng
Thế đấy, một tình hai khối bự
Khối thì trợn mắt khối phồng mang

Ơi cái đời xuân tràn trề sức lực
Đời tươi như gấc, đời đỏ như son
Nét bút dám cười ngay nơi muốn khóc
Trong giấy xơ thô nhấp nháy hồn

Gà lợn ngựa voi con xanh con đỏ
Trăng lặn trăng lên khi tỏ khi mờ
Nào tất cả vào đây cả mây cả gió
Em gõ nhịp sênh tiền anh hát í ơ.

Cô gái thời gian
Vai gánh mùa hoa đang độ thắm
Mưa bụi đang bay với cánh đồng
Chim về gọi lá cho cành biếc
Cá lượn làm duyên với khúc sông

Mùa xuân như một phong thư ngỏ
Tôi đọc lời cha ông đất đai
Ruộng xưa về lại tay cày cuốc
Người trĩu mồ hôi, cây trĩu sai

Tôi đọc trên đường hy vọng cỏ
Phủ ngát chân người đi ước ao
Đất thuộc người làm sinh sôi đất
Tôi thuộc người đi với gian lao

Hương ngát về khuya thơm khắp am
Trăng nghiêng trên mặt Phật thư nhàn
Hai hàng tề chỉnh râu im phắc
Mắt nghĩ trầm ngâm, lo thế gian

Không biết từ đâu tiếng mọt lên
Nghe như cưa nghiến xiến vào đêm
Bao nhiêu xà cột tan thành bụi
Phật vẫn mơ màng với đức tin

Tôi ngước nhìn lên Tam Bảo nghiêm
Hương bay như ướp giấc tham thiền
Chong chong mắt thức mà như ngủ
Gỗ mít ngồi lâu biết có yên

Tôi đi với sông Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dòng

Nhưng sớm nay cuối xuân
Bổn đỏ bừng thân đuốc
Một cây gạo ven bờ
Cháy cả trời lẫn nước
Cái tiếng hát bất ngờ
Ào vào tôi bất chợt!

Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà
Nước là bầu là bạn
Tôi nhìn nước trên sông
Gắng hiểu dòng dưới đáy
Sau ánh mắt lặng yên
Vui buồn đâu dễ thấy
Sông Đà quen thuộc ấy
Nói hết cùng tôi chưa?

Giá tiếng lóc bóc con suối chảy sau nhà
là tiếng nước ruộng cao tràn ruộng thấp
Giá cánh rừng huy hoàng trước mặt
là cánh đồng lúa chiêm chín rực
Chiếc cổng chống nhà mình nhìn về phía Sài Sơn

Nắng đã chấm giọt gianh
Tiếng gà giữa ngọ
Tiếng cu gáy chập chờn
từ những mảnh vườn trong xóm nhỏ
Tiếng mẹ về đầu ngõ
gọi tên tôi

Tôi dạvội. Mừng. Rồi lặng ngắt
Mẹ đã xa hơn ba chục năm rồi
Tôi đã bạc trên đầu mái tóc
Và nơi đây là đất đai xứ khác
Mái tóc bạc có còn được bạc ở quê hương

Vì thiếu thời gian nên phải có đồng hồ
Hay tại lắm đồng hồ người ta mới vội
Cái kim con làm rung cả loài người
Từ siêu thanh, siêu tốc đến siêu… đời
Vội đến mức người ta không kịp sống

Tiếng tích tắc vang tận vào cõi mộng
Toát mồ hôi, mê hoảng, bàng hoàng
Những nhân sâm, tê giác với ngưu hoàng
Uống từng cốc rồi đem thời gian giết

Ai giết thời gian thì người ấy chết
Thời gian cười rung bụng những kim giây

Tháng chạp như gốc cây khô
Tháng giêng lá lộc xanh nhô giữa trời
Người đi ríu rít phố người
Pháo như con trẻ reo rồi ại im

Có gì lay động trong tim
Rẽ đôi mái tóc mà tìm tuổi thơ
Lòng như sóng giữa hai bờ
Xôn xao xuân trước bây giờ lại xuân

Vẫn là mưa bụi lâm thâm
Mơ mơ nắng nhạt, lâng lang ánh ngày.
vẫn là đồng ruộng trời mây
Con sông chảy, bãi sông đày phù sa.

Người thì cũng vẫn người ta
Chanh chua, muối mặn vẫn là thế thôi
Mà đi bao quãng đường rồi
Vẫn khao khát những đoạn đời chưa đi.

Mùa xuân quen tự ngày xưa
Sớm nay bỗng hiểu mình chưa biết gì
Cây đang xuân, lá đang thì
Lòng như trang giấy, viết gì hỡi em.

Trên đây phongnguyet.info đã tiếp nối bài viết Vũ Quần Phương Cùng Những Bài thơ Đi Vào Năm Tháng Phần 1 bằng những bài thơ còn lại của ông. Thơ ông dạt dào cảm xúc mang trong mình những màu sắc mới mẻ cho những người yêu thơ. Chúng tôi luôn cập nhật liên tục những bài viết hấp dẫn hằng ngày. Hãy theo dõi chúng tôi và cảm nhận nhé! 

Nhà thơ Huy Cận và những bài thơ hay đặc sắc để đời phần 4

Huy Cận được đánh giá là một nhà thơ có cấu trúc phân cực như vũ trụ và nhân gian, sự sống và cả cái chết, nỗi buồn và niềm vui… Tuy nhiên ở đó ta vẫn cảm nhận được những sự đa dạng trong các sắc thái cảm xúc của nhà thơ. Và hạt nhân chính xác đó là cảm nhận vũ trụ hòa cùng với cảm quan vũ trụ. Hãy cùng tìm hiểu các tác phẩm của Huy Cận hay nhất bạn nhé!

Nội Dung

Tích luỹ nghìn năm hồn dân tộc
Bạch Đằng phục sẵn sóng gầm reo
Cọc lim nhọn hoắt chí thù địch
Đuổi giặc băng băng thế thuỷ triều

Tặng bà mẹ Miện, nhà thơ dân gian của xã Diễn Minh, huyện Diễn Chau, Nghệ An.

Nghe bà chậm rãi nói thơ
Như tằm chậm rãi nhả tơ óng vàng

Ý thơ chắc thiệt xốn xang
Lời thơ mộc mạc lại càng thiết tha
Yêu đời làm đẹp đời ra
Như cây ấm nhựa làm hoa tặng đời
Nghe thơ tôi hiểu ra rồi
Nỗi chi chất chứa vạn lời ca dao
Nghe bà chậm dãi từng câu
Tưởng như cuộc sống chờ nhau chuyến đò
Sông sâu tưởng đợi ai dò
Biển sâu tưởng đợi ai mò đáy kim
Vần thơ vừa nói vừa tìm
Kín như cầu ghép khôn chìm thời gian
Hỡi người thi sĩ dân gian
Đêm nay trăng mọc thơ man mác trời.

Mỗi sáng mặt anh trong mặt gương
Thẫn thờ còn vắng mặt em thương
Bấy lâu bóng lặng buồn đơn chiếc
Kính lặng buồn xa hơ đại dương.

Ví bằng mở được ngực anh ra
Anh cất em vào trong thịt da
Khi ngủ có em trong nhịp thở
Chiêm bao tỉnh giấc khỏi buồn xa.

Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn – Bố đi xa
Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh
Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà.

Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc
Thương con lúc ấy biết gì hơn ?
Nước mà cao nữa không bè thúng
Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con.

Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn
“Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng “ời

Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau
Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn
Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu.

Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ
Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan
Nuôi con lớn giữa bao cay cực
Nước lụt đời lên mẹ cắn răng.

Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.

Mười năm hương vẫn còn đưa
Hôn em thuở ấy bây giờ còn say
Hôn đầu lòng rụng, hồn bay
Về sau bao nỗi đoạ đày tấm thương

Yêu nhau chưa gặp trên chăn gối
Hương phấn chưa từng rụng xuống tay

Chiêm bao em chết, ôm lòng khóc
Tỉnh dậy em còn, dạ quặn đau

Biển giai nhân nằm bát ngát mơ chi
Mà sao đa tình thổn thức si ?

Vách đá bài thơ vạn thuở bền
Bút nghiên trời đất nét thiên nhiên
Khắc sâu lòng đá là chi nữa?
– Sóng gió, nào thơ có ngả nghiêng

Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Có ông cả Soạn đánh cờ cao
Lắm khi một buổi đi vài nước
Để bạn bè vây nghĩ nát đầu.

Ông lại đàn hay, Nguyệt tiếng tơ
Hồn ve dắng dỏi dưới trăng mờ
Mòn tay tài tử năm cung nhấn
Nghe cả trời thu nức nở mưa….

Chẳng được phong lưu như bác Cả
Chú Kình cúp tóc cũng đàn khua
Lanh tanh đàn đoản cần trun cổ
Như chú Kình hay rụt cổ rùa.

Ông Lạng làm chuồng chim bán rong
Suốt ngày khoan đục giữa mây song
Đàn bầu một chiếc khi tiêu khiển
Vừa gẩy vừa ca thật não nùng.

Anh Cháu đàn tranh mù một mắt
Khi thì hầu cúng khi hầu đò
Hồn anh là mảng trăng khuya khoắt
Một nửa đen sầm, nửa ánh mơ.

Cuối phố gốc cây chiều chủ nhật
Là ông xẩm chợ với hai con
“Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc
Lớn nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn.

Ấy phố Đông Ba nghèo ảm đạm
Chút vui nghệ thuật cũng bồi hồi
Bốn lăm năm trước đời u ám
Trời nghẹn hoàng hôn trên phố tôi.

Quốc Học trường ta, Quốc Học ơi!
Thầy xưa bạn cũ nhớ xuyên đời,
Thầy xưa từng gợi lòng yêu nước,
Bạn cũ thân tình biết mấy mươi.

Thú Pháp văn và mê Quốc văn,
Tiếng nhà yêu bội mấy trăm lần,
Ngậm ngùi giờ học An-na-mít,
Tiếng của hồn ta, ta phải chăm.

Thầy Diệu, thầy Phương, thầy Bửu Cân,
Thầy Nồng, thầy Dụ với thầy Lân,
Thầy Hào, thầy Thuý rèn khoa toán,
Thầy Quả đôi khi dạo tiếng đàn.

Ít nói là thầy Thân Trọng Hy,
Phi-lô thầy Bảo giảng thầm thì,
Cụ Đôn chữ Hán thường đi ngựa,
Thầy Thứ nhìn thôi chẳng nói chi.

Mỗi thầy để lại ở trong tôi,
Cái vốn yêu thương cái vốn người
Nghĩa bạn, ơn thầy lòng mãi nặng,
Ngàn năm Quốc Học của ta ơi!

Sáng nay gió loáng trên đường
Cây phơi phới lá, dễ thường sang xuân.
Nhà ai đào nở tươi sân?
Trông vô: em bé tung tăng áo hồng.
Gặt xong tạnh ráo cánh đồng,
Gió se luống đất ủ vồng khoai lang.
Được mùa to, mái rạ vàng,
Đông rét muộn, tưởng xóm làng sang xuân.

Sau giông trời mát, mặt người thương
Như đón từ xa ánh đại dương
Chiều xuống trải hoa lưng đậu biếc
Chờ ai cây đứng ngẩn bên đường.

Có những giờ xuôi mà chẳng trôi
Đang đi sự sống tự bồi hồi
Nhìn vô tâm tưởng nghe ai khác
Đối thoại cùng ta mấy thuở rồi.

Ôi mùa hè sao mà rạo rực
Đã ve kêu: dầu phượng đỏ chưa về
Không khí bỗng xôn xao náo nức
Và lòng ta cũng thao thức trăm bề.

Những búp đa trên lề đường rụng thắm
Gọi trẻ em từ xa lắm, hè ơi!
Trời đất gọi, dẫu nhà cha mẹ cấm
Cũng ra đi – ve giục giã bồi hồi.

Yêu mùa xuân, lòng ta yêu lắm chứ
Nhưng mùa hè người mới thật mùa say
Trưa của ngày mặt trời cao tột đỉnh
Trưa của mùa, trời đất chín muồi đây.

Đời thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Để ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nắm đất quen như hạt chín sang mùa.

Mỗi sáng mặt anh trong mặt gương
Thẫn thờ còn thiếu mặt em thương
Bấy lâu bóng lạnh buồn đơn chiếc
Kính lạnh buồn xa hơn đại dương

Luật của tế bào chẳng để ta
Trẻ hoài với nước, với mây qua
Với làn gió sớm mơn cành lá
Với ánh trời xanh ngọc bốn mùa

Nhưng trẻ một lần, trời đất trẻ
Trong ta, nảy nở xứ tâm hồn
Cây trưa tròn bóng, sông ra cửa
Biển lại dào lên những chiếc hôn

Em quý, em yêu, em của anh
Tên em mát dịu, dáng em lành
Tên em làm tổ mùa anh sống
Nước mát mùa đi những bước xanh

Sống một đời, ta ham vạn đời
Bởi vì thế giới đẹp, em ơi!
Nhưng vì đẹp quá ta giao lại
Chớ để người sau phải thiệt thòi

Tiếng gà gáy ơi! Gà gáy ơi!
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp
Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi

Cha dậy đi cày trau kịp vụ,
Hút vang điếu thuốc khói mù bay.
Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu,
Chút cá kho tương mẹ vội bày.

Gà gáy nhà ta, gáy làng giềng
Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen…
– Cha ơi, con chửa nghe gà chú!
– Nó cũng như mày hay ngủ quên.

Hàng cau mở ngọn đón ngày vào
Xóm nhỏ nép bên triền núi cao.
Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa.
Nắng lên xoè quạt đỏ như mào.

Gà gáy ơi! Tiếng gà gáy ơi!
Nghe sao rạo rực buổi mai đời!
Thương cha lủi thủi không còn nữa
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui…

Ta viết bài thơ gọi biển về
Nghìn năm dào dạt sóng say mê
Hoàng hôn khép nhẹ hàng mi tím
Xanh biếc bình minh buổi gió se

Ta, Biển sinh đôi tự thuở nào?
Sóng ngầm bao đợt nhói lòng đau
Cái vui đầu sóng, buồn chân sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au.

Rồi một ngày kia hết ở đời
Cho ta theo biển khoả chân trời
Điều chi chưa nói xin trao sóng
Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi.

Tạo hoá sinh em đẹp thế kia
Để rồi lại sẽ xoá em đi
Sinh anh yêu đắm, yêu da diết
Để một ngày kia hết biết gì

Như nhựa hè lên chín trái cây
Cho anh ôm ngực tròn đầy
Anh ôm đôi gót hây hây đỏ
Như sớm chân trời mọc đỏ hây.

Anh tặng em buổi sáng hôm nay
Có hoa sen nở Hồ Tây trắng hồng
Tặng em trời mát như sông
Trong veo chảy giữa hai dòng cây xanh

Anh tặng em buổi sáng lòng anh
Có cây có nước có cành có hoa,
Có mình và lại có ta
Trong hương sen ngát nở xoà lòng sen.

Anh tặng em cả những ưu phiền
Trong câu hát cũ nghe bên Chợ Cầu,
Còn hằn trong chữ, trong câu.
Nỗi đau ngày trước cày sâu mặt người.

Anh tặng em buổi sáng mai đời
Bước chân quen thuộc, tiếng người lại qua
Mây phồng buồm bạc xa xa,
Ngày lên gió mới, lòng ta tặng mình.

Cây đẹp thân cây, đẹp lá cành
Em yêu! Em đẹp cả âm thanh
Của tên em nữa, lòng vương vấn
Thoáng đọc lên là xúc động anh

Anh viết trăm lần nắn nót tên
Tưởng như em đẹp hiện dần lên
Theo tay anh vuốt ve từng nét
Em đẹp nghìn thu với chữ bền

Rộn rực lòng anh bởi quá yêu
Yêu em quy tụ đủ trăm điều
Đẹp trong đời đẹp, lòng ta đẹp
Phơi phới trời xuân nắng gió reo

Đất này đất vại đất chum
Đất này đất cũ lửa nung ngàn đời
Vại chum từ thuở xa khơi
Rắn như từng mảnh mặt trời nguội đen
Chum sâu giữ hạt giống bền
Ngô xanh tự bấy, lúa lên đều mùa.
Nước trong lòng vại mát chưa!
Vại chum vững chãi trụ bờ sông xanh
Nghìn năm tròn trĩnh vại sành
Ngày xuân trẻ lại dáng hình ban sơ.

Tiếng biển về khuya như tiếng lụa
Non tơ, êm ả, lại bền hơi
Lao xao vũ trụ chồi đang nhú
Trăng bạch quang mây lọc ánh ngời

Ta nằm tiếng sóng cuốn bờ mây
Ta khoát mênh mông mở ánh ngày
Biển nở hoa cườm thơm gió mặn
Buồm lên theo cánh hải âu bay

Nổi yên tâm lớn trong trời đất
Biển gọi trăng sao thở nhịp thầm
Nghiêng gối tao phùng cùng tạo vật
Anh em từ thưở mịt mù tăm.

Tình em như một đám cháy rừng
Bùng đột ngột vào đời anh nóng bỏng.
Sườn núi, sườn đồi lửa cháy nhanh
Anh nghe nóng sâu trong tiềm thức
Những đám cháy rừng thuở nhỏ
Anh gặp em, rừng cũng là anh
Lửa là em, lửa cũng là anh.

Mắt em khi đi vào giấc ngủ
Mênh mông yên lắng đất trời
Cây gọi chim về làm tổ
Biển trải sóng làm xa khơi
Yên lặng của lửa
Anh nghe từ chiều thơ ấu
Anh nghe trong đáy chiêm bao
Yên lắng của mặt người
Anh nghe đến mai sau

Tóc em toả xuống mặt anh
Như mưa xuống tự trời xanh mát rờn
Tay em ngón ngón phím thon
Đàn lên da thịt bồn chồn tháng năm
Nhớ em khi đứng khi nằm
Thẹn thùng dáng sống in thầm chiêm bao.
Trời xanh thăm thẳm đôi sao
Dặm trường ánh biếc soi vào đời anh.

(Tâm sự yêu nước của kiều bào tại Pháp)
Yêu mến tặng kiều bào ở nước ngoài

Việt Nam ơi! Mẹ nghìn đời yêu dấu
Tên thiêng liêng đau đáu lòng con
Mẹ có biết tâm hồn con chảy máu
Thuở đau thương, mẹ nuốt tủi, nuôi hờn.

Tổ quốc ơi! Bởi vì sao mỗi bước
Chân con đi xa mẹ nhói bàn chân
Cũng ánh sáng, cũng trời mây, gió nước
Xa quê hương sao nhạt nhẽo muôn phần!

Ai có biết làm sao nói được
Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương
Mắt có ngủ mà hồn ta vẫn thức
Tình non sông da diết máu xương.

Đêm khuya vắng, bỗng nhớ mùi hương bưởi
Ướt ánh trăng thơm suốt mấy canh gà
Cả tuổi nhỏ lại trở về mát rượi
Bóng dừa xanh, hàng tre mượt quê ta.

Những đứa con phải xa rời Tổ Quốc
Mẹ biết chăng, chỉ sống nửa tâm hồn
Một nửa khác gửi với theo sóng nước
Về quê cha đặng giữ thắm lòng son.

Việt Nam ơi! Nuôi đàn con những thuở
Mẹ cắn răng không cho nước mắt trào
Mẹ lấy sức vùng lên trong biển lửa
Mẹ hôm nay sừng sững giữa trời cao.

Vẫn xa nước lòng nay sao rạng rỡ
Lửa quê hương soi ấm tấm lòng con
Bao con mẹ bấy nhiêu hòn máu đỏ
Mẹ lại cho con vẹn cả tâm hồn.

Anh em ơi, bởi vì sao mỗi bước
Chân ta đi ngang dọc khắp trời tây
Không lủi thủi, chẳng ngỡ ngàng như trước
Cái thuở cha, anh lê gót đoạ đày.

Mẹ Việt Nam, mẹ nghìn đời yêu dấu
Ôi quê hương, máu của máu lòng ta
Lòng yêu nước bốn nghìn năm nung nấu
Chia đều con như sữa mẹ cơm cha.

Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới
Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà.

Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi
Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.

Trái đất còn quay, mãi mãi quay
Hai thân chiếc áo nối đêm ngày
Như người xứ Huế lòng tươi trẻ
Nhịp bước đường xa áo bối vai.

Đất trẻ trung hoài quay nhịp múa
Trên lưng hoa trái bốn mùa reo
Lòng ta một thuở là hoa trái
Cuống bám cành tươi nắng gió reo

Rồi chẳng còn ta ở cõi này
Đất quay quay mãi nhịp nồng say
Người sau sẽ đến vui hơn chút
Vui Đất nghìn năm vất vả xây.

Ta sẽ ra đi chẳng ngậm ngùi
Yêu đời đến rốt giữa lòng vui.
Vào đời ta đã buồn da diết
Khỏi phải buồn chi lúc cáo lui

Ta đi, trăng mọc theo cùng
Trăng lên mơn mởn giữa vòng tay ta.
Trăng gần thơm mát như hoa,
Hoa trăng nở giữa phù sa mới cày.

Trên đây là các bài thơ của Huy Cận hay mà chúng tôi muốn chia sẻ và giới thiệu với bạn. Qua các sáng tác này ta cũng hiểu thêm về phong cách của ông. Đó chính là cảm nhận vũ trụ. Trong cảm nhận ấy ta tìm về được trí tuệ, cảm xúc, lý trí và tình cảm của mình. Và hai cực hấp dẫn nhất trong thơ của Huy Cận vẫn là cuộc đời và vũ trụ.

Xem thêm: Nhà thơ Huy Cận và những bài thơ hay đặc sắc để đời phần cuối

Chọn Lọc Những Bài Thơ Hay Của Bùi Minh Quốc (Phần 3)

Ở mảnh đất Hà Tây, mảnh đất địa linh nhân kiệt, Bùi Minh Quốc được người đời nhắc đến với những cái tên thân thương. Ông là nhà thơ của cách mạng, vì dân tộc. Những bài thơ của ông như lời cổ vũ tinh thần chống lại Mỹ tàn bạo, xâm lược. Tiếp nối bài chọn lọc những bài thơ hay của Bùi Minh Quốc (phần 2), ngay dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn tiếp phần 3 đã ghi dấu ấn riêng, tên tuổi của người trong nền văn học Việt Nam.

Nội Dung

Ôi đoá tường vi ngan ngát hương
Lẫn trong bờ bụi giữa vô thường
Anh đi không mỏi đường muôn dặm
Em nở lặng thầm tan gió sương.

Thiên thai của anh đây chăng
Những tháng năm
Những tháng năm
Ngắc ngoải
Hồn tắc nhạc
Thân tàn
Mắt dại
Cái huân chương
Báo hiệu liệt giường
Cái nấm mồ
Cao sang
Muốn sánh cùng kiệt tác
Có bù đắp nổi chăng
Những tháng năm
Hồn anh tắc nhạc ?
Ơi thiên thai
Ðất nước khôn nguôi khóc hận một thiên tài.

Tổ quốc trong anh máu thắm tận nguồn
Tổ quốc chúng gào đầu lưỡi
Hãy cảnh giác!
Khi anh đầm mình máu mê trận mạc
Chúng đưa con du học nước ngoài
rúc kín lâu đài du hý trên ngai
Hãy cảnh giác!
Bọn mặt bự dẻo mồm
thời nào chẳng nhân danh Tổ quốc
cao giọng hùng hồn không tiếc máu xương
máu xương lầy đỏ nghiệp đế vương
Hãy cảnh giác!
Sau chiến tranh chúng lại chiến tranh
cuộc chiến tranh một phía
Người sống sót trở về oằn lưng sưu thuế
Chúng lấy máu đúc vàng
độc quyền ngự trị nghênh ngang
độc quyền nghĩ
độc quyền nói
độc quyền ráo trọi
Dân đen chỉ một quyền được …đói
và thêm nữa là quyền sợ hãi
triền miên…
Hãy cảnh giác!
Dân đen
Cảnh giác!
Lòng ta yêu vô cùng Tổ quốc
Chúng luôn moi làm bẫy đánh lừa
sập lại chính đời ta
đến con cháu ta
vào kiếp chó
canh túi vàng chúng nó.

Chủ nghĩa này chủ nghĩa kia
Chẳng qua cũng thế đôi hia ta xài
Rách mòn cứ vá lai rai
Xài chắc dài dài là món nhân dân
Tay đè miệng tụng cho nhuần
Thì yên chí lớn vững chân ngai mình.

Em đem tuổi ngọc học trò mua chữ mua điểm
thầy cô vô tư bán chữ bán điểm
bao khoá bao niên mua bán dài dài
bao bãi mìn gài vào tương lai!

Những đứa trẻ lớn lên đi mua luận án
mua thầy hướng dẫn mua thầy phản biện
các hội đồng vô tư bán mua
tiến sĩ mua
giáo sư mua
đất Việt ngàn năm văn hiến như đùa!

Vô tận cuộc đùa lây nhây ma quái
mìn xé ngầu hiện tại
gài tiếp vào tương lai.

Ta có nhau ơn trời xui đất khiến
Tất cả mịt mùng trước phút lạ lùng kia
Ta có nhau chẳng mưu cầu tìm kiếm
Mà nẻo tình biến hiện bỗng giao thoa

Phút ấy hương hoa ngọc ngà toả quyện
Ôi hồng hoang hiền hậu hiến dâng nhau
Ôi réo thác ôi dậy ngàn động biển
Ôi loé ngời quẫy cuộn đến đâu đâu…

Ôi thế thế thế là ta thế thế
Như thể muôn xưa đã có nhau rồi
Có nhau có nhau trong mỗi thầm thoảng nghĩ
Mỗi bâng khuâng dự cảm kkhông lời

Có nhau có nhau trong nỗi đời kẻ khác
Trong nỗi buồn nhân thế nặng lòng chung
Có nhau có nhau bình yên hay bão táp
Bao chồi non cần che chở, ta cùng…

Từng nguy nan, từng lo toan, bươn chải
Có nhau hoài dù xa ngái đôi nơi
Dù chỉ vọng mơ hồ qua muôn trùng khoảnh khắc
Vẫn trong nhau tự cuối đất đầu trời.

(“Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
Hõi nhân dân hãy đứng cả lên”
-Marat, Tố Hữu dịch-)

Vì ta cúi nên ta nhìn chúng lớn
Ta thẳng lưng thấy chúng cũng thường thôi
Và chính lúc chúng mang phồng mắt trợn
Lại là khi chúng sợ sắp tiêu đời.

Kính dâng anh linh các liệt sĩ
vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển
Hoàng Sa Trường Sa

Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa

Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa

Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa

Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa

Ê a bên thềm miệng sữa ê a
Vỗ lòng tôi tựa sóng
Hoàng Sa
Trường Sa

Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà
Âm âm
rền
Hoàng Sa
Trường Sa.

Tuổi thơ ta: chiến tranh
Tuổi trẻ ta: chiến tranh
Tuổi già ta: áp bức
Thơ ơi thơ! giông bão dồn trong ngực!

Vòng tay đồng chí giang ra thành còng sắt
Lưỡi đồng chí nỉ non thành lưỡi rắn phun người
Ngoài bảy mươi mới chợt bừng mở mắt
Trước đảo điên sự đời.

Em ngồi đó, quên cả ngày tàn quên đêm khuya khoắt
Mười ngón tay, lau một thế giới dịu hiền
Những con búp bê kia muôn màu lung linh ánh mắt
Em lẳng lặng đẩy lùi cơn bão dập đời anh.
Gầm rít quanh ta cơn bão phũ phàng
Cuộc vây hãm dằng dai của mắt cú miệng hùm lưỡi rắn
Em ngồi đó, mười ngón tay lau đằm thắm
Một thế giới dịu hiền – thông điệp của hồn em.
Cái thời nhố nhăng cặn bã hóa vương quyền
Rồi lọc hết qua bàn tay em – chỉ sau cùng còn lại
Chỉ sau cùng còn lại
Một thế giới dịu hiền nâng giấc mãi thơ anh.

Anh ghi vội trên tờ giấy gói thịt
Những câu thơ vừa đến bất ngờ
Miếng đậu phụ đang xào trên bếp
Mắt ngó chừng hồn vẫn đòi thơ.
Em từng biết
Vì độc lập anh đâu nề sống chết
Và bây giờ vào bếp chẳng xoàng chi
Vì tự do anh lại ra đi
Dẫu chỉ bằng đôi cánh thơ từ xó bếp.
Em bươn chải phố phường
Nuôi chồng không uốn cong ngòi bút
Anh thủ gôn xó bếp
Hầu em chăm con.
Có vui nào vui hơn
Chiều nay được tặng em
Món riêu cua món đậu chiên em thích
Và món nữa tuyệt vời là bài thơ ngỗ nghịch
Thơ giành tự do.

Xuân hổn hển ngực đồi cỏ thắm
Ðà Lạt dậy mùa hoa
Anh nghiến răng trong phòng thẩm vấn
Giữa ban ngày mà ngập đêm đen.

Những câu hỏi làm anh lộn mửa
– Bài thơ này anh gửi cho ai ?
– Ai gửi cho anh bài này bài nọ ?
Trái tim thơ muốn nổ chuỗi cười dài!…

Thật dễ quá đầu môi yêu Tổ Quốc
Ðây tình yêu như máu cuộn không lời
Người quằn quại người nát thây lầm đất
Vẫn người đi, người tiếp mãi bên người.

Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy
Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh
Ôi Tổ Quốc vào tay quỉ dữ
Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.

Con đối diện những tia nhìn cú vọ
Cả một thời xung trận lại trào sôi
Ðôi cánh thơ vẫy vùng trong bão tố
Tiếng hát tự do trong biếc mãi dâng đời.

Trên đây, là những bài thơ hay có chọn lọc của nhà thơ Bùi Minh Quốc. Những bài thơ này đã góp phần vẽ nên một bức tranh đầy màu sắc về cuộc đời của ông, phản ánh phần nào cuộc sống hiện thực của dân tộc phải đối mặt. Cùng nhau chia sẻ những bài thơ này đến tay nhiều người yêu văn học hơn để thấm nhuần tư tưởng và những điều nhắn nhủ của người đối với thế hệ sau.

Tập thơ Nam trung tạp ngâm – Nguyễn Du

Tập thơ Nam trung tạp ngâm là một trong những tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Du. Tập thơ gồm 40 bài được nguyễn Du sáng tác trong thời gian ông giữ chức quan ở Phú Xuân và Quảng Bình trong khoảng thời gian từ 1804 đến 1820. Đây là tập thơ cuối đời của nhà thơ Nguyễn Du được cụ Lê Thước dịch. Hãy cùng nhau theo dõi ngay bây giờ nhé!

Nội Dung

鳳凰路上早行
征夫懷往路,
夜色尚蒙蒙。
月落猿聲外,
人行虎跡中。
力衰常畏露,
髮短不禁風。
野宿逢樵者,
相憐不在同。

Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
Chinh phu hoài vãng lộ,
Dạ sắc thượng mông mông.
Nguyệt lạc viên thanh ngoại,
Nhân hành hổ tích trung.
Lực suy thường uý lộ,
Phát đoản bất cấm phong.
Dã túc phùng tiều giả,
Tương liên bất tại đồng.

Dịch nghĩa
Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăn lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau

Phượng Hoàng: từ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng. Năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du đương làm tri phủ Thường Tín thì bị bệnh, xin từ chức. Về quê nghỉ được hơn một tháng lại có chỉ gọi vào kinh. Bài này làm trên đường tới kinh và mở đầu cho tập Nam trung tạp ngâm.

夢得採蓮其一
緊束蛺蝶裙,
採蓮棹小艇。
湖水何浺瀜,
水中有人影。

Mộng đắc thái liên kỳ 1
Khẩn thúc giáp điệp quần,
Thái liên trạo tiểu đĩnh.
Hồ thuỷ hà xung dung,
Thuỷ trung hữu nhân ảnh.

Dịch nghĩa
Buộc chặt váy cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ sao lai láng
Trong nước có bóng người

Theo Hoàng Xuân Hãn, bài này làm lúc Nguyễn Du đã được phong tước hầu, làm quan to ở Huế, để tưởng nhớ người yêu cũ là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Trong bài Ngẫu hứng, Nguyễn Du đã nhắc đến 4 chữ “Xuân, Hương, Xuân Hương”. Có người cho rằng trong thi đàn với nữ sĩ Hồ Xuân Hương lúc đó, ông Chiêu Hổ có tài văn chương ứng đố lưu loát chính là Nguyễn Du vì trong gia đình của cụ gọi cụ là cậu Chiêu Bảy.

夢得採蓮其二
採採西湖蓮,
花實俱上船。
花以贈所畏,
實以贈所憐。

Mộng đắc thái liên kỳ 2
Thái thái Tây Hồ liên,
Hoa thực câu thướng thuyền.
Hoa dĩ tặng sở uý,
Thực dĩ tặng sở liên.

Dịch nghĩa
Hái, hái sen Hồ Tây
Hoa và gương sen đều để trên thuyền
Hoa để tặng người mình trọng
Gương để tặng người mình thương

Mộng đắc thái liên kỳ 3 夢得採蓮其三 • Mộng thấy hái sen kỳ 3

夢得採蓮其三
今晨去採蓮,
乃約東鄰女。
不知來不知,
隔花聞笑語。

Mộng đắc thái liên kỳ 3
Kim thần khứ thái liên,
Nãi ước đông lân nữ.
Bất tri lai bất tri,
Cách hoa văn tiếu ngữ.

Dịch nghĩa
Sớm nay đi hái sen
Nên hẹn với cô láng giềng
Chẳng biết đến lúc nào không biết
Cách hoa nghe tiếng cười

夢得採蓮其四
共知憐蓮花,
誰者憐蓮幹。
其中有真絲,
牽連不可斷。

Mộng đắc thái liên kỳ 4
Cộng tri liên liên hoa,
Thuỳ giả liên liên cán.
Kỳ trung hữu chân ti,
Khiên liên bất khả đoạn.

Dịch nghĩa
Mọi người đều biết yêu hoa sen
Nhưng ai là kẻ yêu thân sen
Trong thân cây sen thật có tơ sen
Vương vấn không đứt được

夢得採蓮其五
蓮葉何青青,
蓮花嬌盈盈。
採之勿傷藕,
明年不復生。

Mộng đắc thái liên kỳ 5
Liên diệp hà thanh thanh,
Liên hoa kiều doanh doanh.
Thái chi vật thương ngẫu,
Minh niên bất phục sinh.

Dịch nghĩa
Lá sen sao mà xanh xanh
Hoa sen đẹp đầy đặn
Hái sen chớ làm tổn thương ngó sen
Sang năm sen không mọc lại được

秋至
香江一片月,
今古許多愁。
往事悲青塚,
新秋到白頭。
有形徒役役,
無病故拘拘。
回首藍江浦,
閒心謝白鷗。

Thu chí (I)
Hương Giang nhất phiến nguyệt,
Kim cổ hứa đa sầu.
Vãng sự bi thanh trủng,
Tân thu đáo bạch đầu.
Hữu hình đồ dịch dịch,
Vô bệnh cố câu câu.
Hồi thủ Lam Giang phố,
Nhàn tâm tạ bạch âu.

Dịch nghĩa
Một mảnh trăng trên sông Hương,
Mà xưa tới nay đã gợi không biết bao nhiêu mối sầu.
Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh,
Thu mới tới trên đầu tóc bạc.
Có hình nên phải chịu vất vả,
Không bệnh mà lưng vẫn khom khom.
Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam,
Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng.

悼犬
駿馬不老死,
烈女無善終。
凡生負奇氣,
天地非所容。
念爾屬所畜,
與人毛骨同。
貪進不知止,
隕身寒山中。
隕身勿嘆惋,
數試無全功。

Điệu khuyển
Tuấn mã bất lão tử,
Liệt nữ vô thiện chung.
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung.
Niệm nhĩ thuộc sở súc,
Dữ nhân mao cốt đồng.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển,
Sổ thí vô toàn công.

Dịch nghĩa
Ngựa hay không chết già
Người trinh liệt không chết yên lành
Phàm người sinh ra có khí phách khác thường
Trời đất không có chỗ dung túng
Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng đồng với loài người
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh
Bỏ mình chớ than tức
Bao lần thử sức không thành công

偶書公館壁
朝餐一盂飯,
暮浴一盆水。
閉門謝知交,
開窗見荊杞。
窗外荊杞蔓且長,
美人悠悠隔高牆。
杜宇一聲春去矣,
魂兮歸來悲故鄉。

Ngẫu thư công quán bích
Triêu xan nhất vu phạn,
Mộ dục nhất bồn thuỷ.
Bế môn tạ tri giao,
Khai song kiến kinh kỷ.
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường,
Mĩ nhân du du cách cao tường.
Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.

Dịch nghĩa
Sớm ăn một bát cơm
Chiều tắm một bồn nước
Đóng cửa tạ người quen
Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ
Ngoài cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan
Người đẹp vòi vọi cách tường cao
Cuốc kêu một tiếng xuân đi mất
Hồn ơi về đi thương cố hương

偶題公館壁其一
閶闔門前春色闌,
隔江遙對御屏山。
春從江上來何處,
人倚天涯滯一官。
滿地繁聲聞夜雨,
一床孤悶敵春寒。
桃花莫仗東君意,
傍有風姨性最酸。

Ngẫu đề công quán bích kỳ 1
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan,
Cách giang diêu đối Ngự Bình san.
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ,
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan.
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ,
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn.
Đào hoa mạc trượng đông quân ý,
Bàng hữu phong di tính tối toan.

Dịch nghĩa
Trước cửa rồng sắc xuân sắp tàn
Cách sông xa nhìn núi Ngự Bình
Xuân theo dòng sông đi về đâu ?
Người nương chân trời lụn trệ vì một chúc quan
Đêm nghe tiếng mưa ồn ào đầy đất
Trên một giường, nỗi buồn cô đơn chống với khí lạnh của xuân
Hoa đào chớ cậy được Chúa Xuân yêu
Bên cạnh có Dì Gió tánh rất chua chua ngoa

偶題公館壁其二
東望江頭望故交,
浮雲無定水滔滔。
風吹古塚浮榮盡,
日落平沙戰骨高。
山月江風如有得,
岩棲谷飲不辭勞。
平生已絕雲霄夢,
怕見傍人問羽毛。

Ngẫu đề công quán bích kỳ 2
Đông vọng giang đầu vọng cố giao,
Phù vân vô định thuỷ thao thao.
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận,
Nhật lạc bình sa chiến cốt cao.
Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi,
Nham thê cốc ẩm bất từ lao.
Bình sanh dĩ tuyệt vân tiêu mộng,
Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.

Dịch nghĩa
Đầu sông trông xuống đông là đất cũ
Đám mây lang thang, nước cuồn cuộn
Gió thổi nơi mồ xưa, bao nhiêu vinh hoa hư ảo tan hết
Bóng chiều trên bãi cát, xương chiến sĩ vun cao
Trăng núi gió sông như có lòng chờ đợi
Ở hang uống hố cũng không nề gian lao
Bình sinh đã dứt hẳn mộng lên mây xanh
Sợ thấy có người ở bên hỏi đến lông cánh

送人
香芹官道柳青青,
江北江南無限情。
上苑鶯嬌多妒色,
故鄉蓴老尚堪羹。
朝庭有道成君孝,
竹石多慚負爾盟。
惆悵深宵孤對影,
滿床滯雨不堪聽。

Tống nhân
Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh
Giang bắc giang nam vô hạn tình
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc
Cố hương thuần lão thượng kham canh
Triều đình hữu đạo thành quân hiếu
Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh
Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh

Dịch nghĩa
Trên đường cái quan Hương Cần liễu xanh xanh
Kẻ phía bắc sông, người phía nam sông, tình vô hạn
Những con oanh đẹp trong vườn vua ghen nhau vì sắc đẹp
Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh được
Triều đình có đạo khiến anh tròn chữ hiếu
Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi lời thề
Bồi hồi ảo não, đêm sâu một mình đối bóng
Tiếng mưa dầm đầy giường nghe không chịu nổi

偶興其一
三月春時長豆苗,
黃狐肥滿白狐驍。
主人在旅不歸去,
可惜鴻山屬晚樵。

Ngẫu hứng kỳ 1
Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu,
Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu.
Chủ nhân tại lữ bất quy khứ,
Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều.

Dịch nghĩa
Tháng ba mùa xuân đậu non mọc,
Cáo vàng béo mập, cáo trắng nhanh mạnh.
Chủ nhân đi xa không về,
Đáng tiếc buổi chiều núi Hồng Lĩnh thuộc về bác tiều phu.

偶興其二
蘆花初白菊初黃,
千里鄉心夜共長。
強起推窗望明月,
綠陰重疊不遺光。

Ngẫu hứng kỳ 2
Lô hoa sơ bạch, cúc sơ hoàng,
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt,
Lục âm trùng điệp bất di quang.

Dịch nghĩa
Hoa lau mới trắng, cúc mới vàng,
Vạn dặm lòng quê cùng chung đêm dài.
Cố dậy đẩy song cửa sổ xem trăng sáng,
Bóng xanh trùng điệp không lọt ánh sáng.

偶興其三
一帶芭蕉綠覆階,
半間煙火雜塵埃。
可憐庭草芟除盡,
他日春風何處來。

Ngẫu hứng kỳ 3
Nhất đới ba tiêu lục phúc giai,
Bán gian yên hoả tạp trần ai.
Khả liên đình thảo sam trừ tận,
Tha nhật xuân phong hà xứ lai?

Dịch nghĩa
Một dãy chuối xanh phủ kín thềm,
Nửa gian bếp lửa khói hỗn tạp bụi bặm.
Đáng thương đám cỏ trong sân đã bị cắt trụi,
Ngày sau gió xuân tới thổi chỗ nào.

偶興其四
故鄉亢旱久妨農,
十口孩兒菜色同。
譬似蒪鱸最關切,
懷歸原不待秋風。

Ngẫu hứng kỳ 4
Cố hương cang hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng.
Thí tự thuần lô tối quan thiết,
Hoài quy nguyên bất đãi thu phong.

Dịch nghĩa
Cố hương quá hạn hán từ lâu đã hại nhà nông,
Mười miệng trẻ con cùng mầu với rau.
Ví như quan thiết tới rau thuần cá lô,
Thì muốn về quê không cần chờ tới gió thu.

偶興其五
有一人焉良可哀,
破衣殘笠色如灰。
避人但覓道傍走,
知是升龍城裏來。

Ngẫu hứng kỳ 5
Hữu nhất nhân yên lương khả ai,
Phá y tàn lạp sắc như hôi.
Tị nhân đản mịch đạo bàng tẩu,
Tri thị Thăng Long thành lý lai.

Dịch nghĩa
Có một người sao rất đáng thương,
Áo rách, nón rách, sắc mặt như tro.
Tránh người khác thà tìm vào lề đường mà đi,
Biết đó là người từ thành Thăng Long lại.

偶題
白地庭墀夜色空,
深堂悄悄下簾櫳。
丁東砧杵千家月,
蕭索芭蕉一院風。
十口啼饑橫嶺北,
一身臥病帝城東。
知交怪我愁多夢,
天下何人不夢中。

Ngẫu đề
Bạch địa đình trì dạ sắc không,
Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm long.
Đinh đông châm xử thiên gia nguyệt,
Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong.
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh Đế Thành đông.
Tri giao quái ngã sầu đa mộng,
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.

Dịch nghĩa
Thềm sân trống trơn chỉ có màu đêm bàng bạc
Nhà sâu thăm thẳm, rèm buông xuống
Dưới bóng trăng của nghìn nhà, tiếng chày dập vải nghe rộn rã
Một viện gió thổi, tàu chuối khua xào xạc tiêu điều
Phía bắc Hoành Sơn, mười miệng kêu đói
Gó đông thành vua, một thân nằm bệnh
Các bạn quen biết lấy làm lạ tại sao ta sầu mộng
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng ?

水連道中早行
悲莫悲兮行道難,
草頭露宿犯衰顏。
百年古道皆成壑,
一帶平林不見山。
多病一身供道路,
五更殘夢續鄉關。
偶逢歸客向余話,
昨歲朝天乍放還。

Thuỷ Liên đạo trung tảo hành
Bi mạc bi hề hành đạo nan,
Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan.
Bách niên cổ đạo giai thành hác,
Nhất đới bình lâm bất kiến san.
Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ,
Ngũ canh tàn mộng tục hương quan.
Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại,
Tạc tuế triều thiên xạ phóng hoàn.

Dịch nghĩa
Không gì buồn hơn là đi đường khó khăn,
Gối cỏ ngủ ngoài sương phạm tới sắc mặt suy tàn.
Một trăm năm đường cũ đều thành hang vũng,
Một dải rừng bằng phẳng mênh mông, không thấy núi.
Một thân nhiều bệnh dâng cho đường lộ,
Năm canh tàn mộng tiếp tục thấy cổng làng.
Tình cờ gặp một người đang trên đường về nói cho ta biết,
Năm ngoái triều đình chợt tha cho về nhà.

新秋偶興
江城一臥閱三周,
北望家鄉天盡頭。
麗水錦山皆是客,
白雲紅樹不勝秋。
此身已作樊籠物,
何處重尋汗漫遊。
莫向天涯嘆淪落,
何南今是帝王州。

Tân thu ngẫu hứng
Giang thành nhất ngoạ duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.
Lệ Thuỷ, Cẩm Sơn giai thị khách,
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu.
Thử thân dĩ tác phàn lung vật,
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du.
Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc,
Hà Nam kim thị đế vương châu.

Dịch nghĩa
Nằm ở thành bên sông chốc đã ba năm tròn
Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời
Ở Lệ Thuỷ, Cẩm Sơn vẫn chỉ là khách
Mây trắng cây hồng bao xiết vẻ thu
Thân này đã làm vật trong lồng trong chậu
Còn tìm đâu lại cuộc chơi phóng đãng
Chớ nhìn chân trời mà than thân lưu lạc
Phía nam sông nay đã là đất của vua rồi.

夜坐
四壁蛩聲鬧夜眠,
矮床移向曲欄邊。
微風不動霜垂地,
斜月無光星滿天。
今古閒愁來醉後,
蓴鱸鄉思在秋先。
白頭所計惟衣食,
何得狂歌似少年?

Dạ toạ
Tứ bích cùng thanh náo dạ miên,
Ải sàng di hướng khúc lan biên.
Vi phong bất động sương thuỳ địa,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên.
Kim cổ nhàn sầu lai tuý hậu,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
Bạch đầu sở kế duy y thực,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!

贈人
盈盈一水對孤村,
中有高人不出門。
蕉鹿夢場心不競,
秦隋往事口能言。
春雲滿徑群麋鹿,
秋稻登場督子孫。
我欲掛冠從此逝,
與翁壽歲樂琴樽。

Tặng nhân
Doanh doanh nhất thuỷ đối cô thôn,
Trung hữu cao nhân bất xuất môn.
Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh,
Tần Tuỳ vãng sự khẩu năng ngôn.
Xuân vân mãn kính quần my lộc,
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn.
Ngã dục quải quan tòng thử thệ,
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.

Dịch nghĩa
Một dòng sông đầy ngăn một xóm hẻo lánh
Trong đó có một cao sĩ không ra khỏi cửa
Giấc mộng “lá chuối dấu hươu” lòng không tranh đua
Chuyện cũ đời tần đời Tuỳ miệng vẫn kể lại được
Mây mùa xuân phủ đầy lối đi, làm bạn cùng hươu nai
Lúa mùa thu đầy đồng, lo đôn đốc con cháu
Ta muôan treo mũ ra về theo ý nguyện
Để cùng ông gảy đàn uống rượu vui hưởng tuổi già.

再次原韻
湛原流水發山村,
日麗潮頭湧海門。
清渭濁涇同不息,
黃花綠竹兩忘言。
歲收秫米堪供客,
天假松年及抱孫。
浮世幾經桑鹵變,
床頭依舊酒盈樽。

Tái thứ nguyên vận
Trạm nguyên lưu thuỷ phát sơn thôn,
Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn.
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất túc,
Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn.
Tuế thu thuật mễ kham cung khách,
Thiên giả tùng niên cập bão tôn.
Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến,
Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn.

雜吟
白雲初起麗江城,
暑氣纔秋天氣清。
城外山山皆暮色,
江頭樹樹各秋聲。
他鄉白髮老不死,
昨歲黃花今更生。
為我鴻山謝松石,
再無面目見同盟。

Tạp ngâm (II)
Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành,
Thử khí tài thu, thiên khí thanh.
Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc,
Giang đầu thụ thụ các thu thanh.
Tha hương bạch phát lão bất tử,
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh.
Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch,
Tái vô diện mục kiến đồng minh.

Dịch nghĩa
Mây trắng mới nổi trôi trên thành sông Lệ
Hơi trắng vừa hết khí trời trong
Ngoài thành núi núi đều là sắc chiều hôm
Đầu sông cây cây đều vang tiếng gió thu
Đầu bạc ở quê người, già mà chẳng chết
Hoa cúc vàng năm ngoái nay lại sinh
Hay vì ta tạ lỗi với cây tùng và tảng đá ở non Hồng
Ta hông còn mặt mũi nào lại trông thấy bạn đồng minh nữa

江頭散步其一
散髮狂歌恣所之,
綠蘋風起多陽微。
白雲流水同無盡,
魚父浮鷗兩不疑。
無累未應招鬼責,
不才多恐速官非。
年年秋色渾如許,
人在他鄉不自知。

Giang đầu tản bộ kỳ 1
Tản phát cuồng ca tứ sở chi
Lục tần phong khởi, tịch dương vi
Bạch vân lưu thuỷ đồng vô tận
Ngư phủ phù âu lưỡng bất nghi
Vô luỵ vị ưng chiêu quỷ trách
Bất tài đa khủng tốc quan phi
Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri

江頭散步其二
促歌聲短漫聲長,
白髮蕭蕭古道旁。
細澗水聲流積雨,
平沙人影在斜陽。
涓埃莫報生何補,
兒女成群死不妨。
回首故鄉秋色遠,
橫山雲樹正蒼蒼。

Giang đầu tản bộ kỳ 2
Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường,
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng.
Tế giản thuỷ thanh lưu tích vũ,
Bình sa nhân ảnh tại tà dương.
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ,
Nhi nữ thành quần tử bất phương.
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn,
Hoành sơn vân thụ chính thương thương.

偶得
孤城日暮起陰雲,
青草漫漫到海濱。
曠野遍埋無主骨,
殊方獨托有官身。
事來徒隸皆驕我,
老去文章亦避人。
望外鴻山三百里,
相從何處問前鄰。

Ngẫu đắc
Cô thành nhật mộ khởi âm vân,
Thanh thảo man man đáo hải tần.
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt,
Thù phương độc thác hữu quan thân.
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân.
Vọng ngoại Hồng sơn tam bách lý,
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.

炮臺
南北書車慶大同,
炮臺虛設土城東。
山崩石裂城猶壯,
漢奪秦爭事已空。
昨者大虧生物德,
邇來不貴殺人功。
清平時節無爭戰,
牛犢耰耡正重農。

Pháo đài
Nam bắc xa thư khánh đại đồng,
Pháo đài hư thiết thổ thành đông.
Sơn băng thạch liệt thành do tráng,
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không.
Tạc giả đại khuy sinh vật đức,
Nhĩ lai bất quý sát nhân công.
Thanh bình thì tiết vô tranh chiến,
Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.

Pháo đài đặt ở Luỹ Thầy trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi Nguyễn Du làm cai bạ Quảng Bình thì việc phân tranh đã chấm dứt, pháo đài tuy còn, nhưng không cần đến nữa.

城下棄馬
誰家老馬棄城陰,
毛暗皮乾瘦不禁。
石壘秋寒經草短,
沙場日暮陣雲深。
饑來不作求人態,
老去終懷報國心。
耐得風霜全爾性,
莫教羈縶再相侵。

Thành hạ khí mã
Thuỳ gia lão mã khí thành âm,
Mao ám bì can sấu bất câm.
Thạch luỹ thu hàn kinh thảo đoản,
Sa trường nhật mộ trận vân thâm.
Cơ lai bất tác cầu nhân thái,
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.
Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính,
Mạc giao ky trập tái tương xâm.

Dịch nghĩa
Con ngựa già nhà ai bỏ dưới bóng thành ?
Lông nám da gô gầy không thể tả
Nơi thạch lũy thu lạnh, lối cỏ cằn cỗi
Chốn sa trường trời chiều, lớp mây dày dặc
Bụng đói, không học thói cầu cạnh người
Tuổi già, vẫn giữ lòng mong đền ơn nước
Chịu được phong sương, trọn tánh trời
Chớ để cương dàm phạm vào thân một lần nữa

望天台寺
天台山在帝城東,
隔一條江似不通。
古寺秋埋黃葉裏,
先朝僧老白雲中。
可憐白髮供驅驛,
不與青山相始終。
記得年前曾一到,
景興猶掛舊時鐘。

Vọng Thiên Thai tự
Thiên Thai sơn tại đế thành đông
Cách nhất điều giang tự bất thông
Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung.

Dịch nghĩa
Núi Thiên Thai nằm phía cuối thành đông
Cách một nhánh sông nhỏ, tưởng chừng chẳng có lối sang
Ngôi chùa cổ (ở đó) bị mùa thu vùi trong đám lá vàng
Triều vua trước vị sư già đi giữa áng mây trắng
Thương thay (cho mình) tóc đã bạc mà còn phải làm lụng vất vả
Chẳng thể cùng với non xanh giữ vẹn nghĩa thủy chung
Nhớ năm trước (ta) đã từng đến đấy
Còn trông thấy chiếc chuông cổ đúc từ thời Cảnh Hưng

Núi Thiên Thai ở phía đông thành Huế.

柬工部詹事陳其一
青山外有不歸人,
山北山南盡白雲。
七月又逢秋到眼,
天涯空帶老隨身。
百年古壘煙霞合,
一帶寒沙草樹分。
倚遍欗干無與語,
幾回驚坐憶陳遵。

Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 1
Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân,
Sơn bắc sơn nam tẫn bạch vân.
Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn,
Thiên nhai không đới lão tuỳ thân.
Bách niên cổ luỹ yên hà hợp,
Nhất đới hàn sa thảo thụ phân.
Ỷ biến lan can vô dữ ngữ,
Kỷ hồi kinh toạ ức Trần Tuân.

柬工部詹事陳其二
清風裊裊自江濱,
明月青山上海瀕。
難得相逢如此夜,
可憐同是未歸人。
陰符歲晚生仙蠹,
幽室秋寒現鬼燐。
夜讀明明招隱賦,
鴻山慚負一山雲。

Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 2
Thanh phong niểu niểu tự giang tân,
Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần.
Nan đắc tương phùng như thử dạ,
Khả liên đồng thị vị quy nhân.
“Âm phù” tuế vãn sinh tiên đố,
U thất thu hàn hiện quỷ lân.
Dạ độc minh minh “Chiêu Ẩn phú”,
Hồng sơn tàm phụ nhất sơn vân.

秋日寄興
西風纔到不歸人,
頓覺寒威已十分。
故國山河看落日,
他鄉身世托浮雲。
忽驚老境今朝是,
何處秋聲昨夜聞。
自哂白頭欠收入,
滿庭黃葉落紛紛。

Thu nhật ký hứng
Tây phong tài đáo bất quy nhân,
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc sơn hà khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn.
Tự sẩn bạch đầu khiếm thu nhập,
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.

Dịch nghĩa
Gió tây mới đến cùng người không về nhà được
Mà đã thấy khí lạnh mười phần ghê gớm
Non sông nước cũ trông bóng chiều tà
Thân thế chốn tha hương gởi cho đám mây nổi
Sáng hôm nay chợt thấy cảnh già mà kinh
Đêm qua nghe tiếng thu ở nơi nào nổi dậy
Cười mình đầu đã bạc mà thiếu tài thu xếp
Đầy sân lá vàng rụng bời bời

山中即事
疊疊層巒石作堆,
煙蘿布地密難開。
忽逢駭獸樹間出,
知有樵夫林下來。
燒野新痕青草盡,
倚山舊徑白雲催。
山靈故絕輕肥路,
遍列危岡與險涯。

Sơn trung tức sự
Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi,
Yên la bố địa mật nan khai.
Hốt phùng hãi thú thụ gian xuất,
Tri hữu tiều phu lâm hạ lai.
Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận,
Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi.
Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ,
Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai.

渡靈江
平沙盡處水天浮,
浩浩煙波古渡秋。
一望津涯通巨海,
歷朝彊界在中流。
三軍舊壁飛黃葉,
百戰殘骸臥綠蕪。
北上土民莫相避,
卅年前是我同州。

Độ Linh giang
Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,
Hạo hạo yên ba cổ độ thu.
Nhất vọng tân nhai thông cự hải,
Lịch triều cương giới tại trung lưu.
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp,
Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu.
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị,
Táp niên tiền thị ngã đông chu.

瀰江口鄉望
望望家鄉似日邊,
橫山只隔一山巔。
可憐歸路纔三日,
獨抱鄉心已四年。
鷰島秋寒青入海,
瀰江潮漲白函天。
外州今與吾州別,
看看人風不似前。

Nễ giang khẩu hương vọng
Vọng vọng gia hương tự nhật biên,
Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên.
Khả liên quy lộ tài tam nhật,
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên.
Yến đảo thu hàn thanh nhập hải,
Nễ giang triều trướng bạch hàm thiên.
Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt,
Khán khán nhân phong bất tự tiền.

Dịch nghĩa
Nhìn vọng về quê nhà như ở bên mặt trời,
Chỉ cách có một đỉnh núi Hoành Sơn thôi.
Khá thương đường về chỉ có ba ngày,
Mà một mình ôm lòng nhớ quê đã bốn năm.
Hơi thu lạnh nơi Hòn Én, sắc xanh chiếu xuống bể.
Nước triều dâng ở cửa sông Ròn khiến bọt trắng nổi lên trời.
Châu ngoài nay đã khác với châu ta rồi,
Hãy xem phong tục của người dân không giống trước nữa.

Nễ Giang: tên một con sông ở phía bắc tỉnh Quảng Bình từ đèo Ngang đi vào, tức sông Ròn.

依元韻寄青威吳四元
一夜西風到海湄,
同年交誼尚依依。
代耕有舌生常足,
去國何心老不歸。
消渴日增司馬病,
夢魂夜入少陵詩。
臨江未敢題鸚鵡,
還有中原一大兒。

Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên
Nhất dạ tây phong đáo hải mi,
Đồng niên giao nghị thượng y y.
Đại canh hữu thiệt sinh thường túc,
Khứ quốc hà tâm lão bất quy.
Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh,
Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi.
Lâm giang vị cảm đề Anh Vũ,
Hoàn hữu trung nguyên nhất đại nhi.

Thanh Oai: tên huyện ở Hà Đông (nay thuộc Hà Tây), quê của Ngô Tứ Nguyên (không rõ tên thật là gì). Trong tập này, tác giả không ghi bài nguyên xướng.

送吳汝山公出乂安
錦羅江上扣征安,
拜會非難惜別難。
八大奇文花兩國,
一車膏雨潤全驩。
人從淡泊斯為政,
天為黔黎不放閒。
北望鴻山開德曜,
天涯舉酒客鄉關。

Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất Nghệ An
Cẩm La giang thượng khấu chinh an,
Bát hội phi nan tích biệt nan.
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc,
Nhất xa cao vũ nhận toàn Hoan.
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính,
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn.
Bắc vọng Hồng sơn khai đức diệu,
Thiên nhai cử tửu khách hương quan.

Ngô Nhữ Sơn tức Ngô Nhân Tĩnh, tự Nhữ Sơn, nguyên người Trung Quốc sang ở Gia Định, thành người Việt Nam. Ông học giỏi thơ hay. Ông và Nguyễn Du từng là bạn thân thiết. Tháng giêng năm Gia Long thứ 10 (1811), ông đang làm quan tham trị Bộ Hộ ở Huế, được bổ hiệp trấn Nghệ An. Lúc đó Nguyễn Du đang làm cai bạ Quảng Bình, có thơ này tiễn ông.

代作久戍思歸其一
關外秋風送笛吹,
班超頭白未城歸。
十年許國君恩重,
千里離家旅夢遲。
夜繡榮花身外幻,
朝雲名利眼前非。
隴阡歲歲瓜田熟,
苦盡甘來尚有期。

Đại tác cửu thú tư quy kỳ 1
Quan ngoại thu phong tống địch xuy,
Ban Siêu đầu bạch vị thành quy.
Thập niên hứa quốc quân ân trọng,
Thiên lý ly gia lữ mộng trì.
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn,
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi.
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục,
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ.

Dịch nghĩa
Gió thu ngoài ải đưa tiếng địch đi xa
Ban Siêu đầu bạc vẫn chưa được về
Mười năm dâng mình cho nước, ơn vua nặng
Nghìn dặm lìa nhà, giấc mộng lữ thứ kéo dài
Vinh hoa như áo gấm đi đêm, chỉ là ảo ảnh ngoài thân
Danh lợi như bóng mây buổi sáng, đổi khác ngay trước mắt
Bên đường đất Lũng, năm này sang năm khác ruộng dưa lại chín
Hết khổ đến sướng còn có ngày về

代作久戍思歸其二
千仞橫山一帶河,
白雲回首隔天涯。
新秋氣候催寒杵,
故國關山寄夜笳。
天地一身中易孝,
風塵萬里國忘家。
月中橫笛太無賴,
半夜江城吹落花。

Đại tác cửu thú tư quy kỳ 2
Thiên nhận Hoành Sơn nhất đới hà,
Bạch vân hồi thủ cách thiên nha (nhai).
Tân thu khí hậu thôi hàn chử,
Cố quốc quan san ký dạ già.
Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu,
Phong trần vạn lý quốc vong gia.
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại,
Bán dạ giang thành xuy “Lạc hoa”.

Trên đây là toàn bộ toàn bộ 40 bài thơ của tập thơ Nam trung tạp ngâm của nhà thơ Nguyễn Du. Tập thơ được viết trong khoảng thời gian rất dài cho đến khi nhà thơ qua đời. Mời quý độc giả tiếp tục theo dõi trang thơ Nguyễn Du ở những bài viết tiếp theo nhé. Đồng hành cùng phongnguyet.info để theo dõi những bài viết đặc sắc nhất nhé! 

Nhà thơ Văn Công Hùng và những bài thơ hay đặc sắc nhất

Văn Công Hùng sinh năm 1958 quê ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Ông đã sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa sau đó tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế. Ông là người có tài năng sáng tác và chất thơ độc đáo. Chính điều này cũng đã làm nên tên tuổi của nhà thơ. Để hiểu thêm về phong cách sáng tác thơ của Văn Công Hùng. Hãy cùng chúng tôi đón đọc các bài thơ hay nhất của ông bạn nhé!

Tây Nguyên tháng ngày nhạt nhoà mưa nắng
con sông viên đá cuội cựa mình
chiều như bão rớt
những con đường lạc nhau

những mùa cỏ xanh
những vùng lá chết
tôi có em những đêm một mình mất ngủ
vút nỗi buồn chênh vênh

tiếng người chơi vơi
ngôi nhà treo đầy gió
giọt nước khô như số phận
bước chân nào lấn bấn tìm nhau

Tây Nguyên một đời
một người chờ đợi
tôi gặp bụi cỏ lông chồn
vươn giữa chiều thông trắng
rơi nỗi mình chưa kịp tiếc
cầm nhau mà đi…

những ngọn lau xơ xác đến nghẹn lòng
núi cứ thẫm như là không phải thế
tận cùng im lặng
như tiếng gì thanh thản vọng lên…

mẹ mất rồi mới thấy mình già
không còn nơi để dựa
những buổi chiều hoang hoải
ngóng vào đâu vào đâu

mất mẹ rồi mới nhận ra mình ích kỷ
bao nhiêu năm ỷ lại
tấm lưng như dấu hỏi
mẹ chống thời gian để đợi ta về

ta về
dăm câu
có khi còn sẵng
mẹ rộng lượng cười ta nhào đi bù khú
khuya về mẹ lại bôi vôi

mẹ chưa nhờ ta điều gì
kể cả giặt cái khăn
con mắc nợ mẹ không là chủ nợ
chỉ chú mèo già chứng kiến mẹ buồn thôi

những cuộc con đi giữa nóng lạnh cuộc đời
mẹ buôn buốt ruột
con tung tẩy chữ
có chữ nào rơm rớm mẹ đâu?

khi thấy mẹ cô đơn
con cũng vào thì sấp bóng
vô định rợn người cát trắng
mẹ nằm hun hút gió hàng dương

giờ thấm nghĩa mồ côi
con đã non sáu chục
những buổi chiều ân hận
chân trời mướt mải cát bay…

chuyến bay chở ta về với mẹ
mây trắng tóc mẹ bay
phía ấy đang mưa mẹ chờ ta im lặng
ta cũng lặng thầm trong ý nghĩ lang thang

ta lớn lên thì mẹ bé lại
vòng vọng những buổi chiều tựa cửa ngóng con
cả hai đứa con trai ngun ngút lớn
một thời mơ cơm trắng thịt kho

bốn đứa cháu nội xoè đi bốn hướng
lập cập thềm nhà nhìn nắng đoán mưa
những giấc mơ ngắn dần
mẹ như hơi thở dài cuối nắng

chuyến bay chở ta về với mẹ
nặng nề như mang bom
“mẹ đang chờ” em trai gọi thế
“chuối chín rồi” bạn nhắn tận trời xa

ta sẽ thấy mẹ nhỏ bé trên giường
hai thằng con cúi đầu bên cạnh
mẹ sẽ có một giấc mơ đẹp và dài, con tin là thế
về với ba, ba đợi lâu rồi

chúng con những gã trai trên năm mươi đầy tội lỗi
vòng tay xin mẹ đừng buồn
mẹ thanh thản cho con không bật khóc
lưng chừng trời con gọi mẹ ơi

máy bay đang hạ độ cao
con sắp về bên mẹ
con sẽ vụng về ôm mẹ lần cuối
có những điều không thể nói mẹ ơi.

Trước cuộc bia kỷ niệm Quân đoàn
bạn tôi trang nghiêm thắp nhang
khấn đồng đội
trước khi say cùng gào lên và hát
chân nhang im lìm cứa ngang niềm vui

Nghĩa trang Ayun Pa
mộ chí đè lên mộ chí
viên đạn xuyên qua cuộc đời rất trẻ
trước giờ chiến thắng chỉ vài giây

Từ mọi miền đất nước các anh về đây
nuôi cỏ mềm quấn tượng đài cao vút
và trời xanh cứ như là không có thật
cứ như là vô tận cõi bình yên

Nghĩa trang Pleiku
ông bố vượt trên ngàn cây số vào đào trộm xác con để mang về gần họ hàng xóm mạc
tưởng chúng tôi là người gác nghĩa trang ông quỳ xuống lạy và hối lộ bao thuốc Zet
“các anh ơi tha cho cháu nó về!…”

Những chiếc xe du lịch loáng qua
xe cup loáng qua
ông bố già quỳ như tượng
tay ông lạy rạch ngang trời như chớp giật
nước mắt không còn để ông khóc cùng tôi
Bạn ơi tượng đài kia thiếu dáng quỳ hôm ấy
để thêm một lần ta hiểu giá chiến tranh…

Cho Mai Hương
ngày mai con đi lấy chồng
tự nhiên ba khó ngủ
không lo vì con phải làm dâu
dâu hay rể thì cũng con mình cả
mà cứ lan man nghĩ
thế là con có thêm những mối bận tâm
ngoài ba mẹ…

luôn luôn nghĩ là con bé bỏng
té ra nó đã ra khỏi mình
cầm cương một gia đình
như ba bị cầm cương ba mươi năm trước
sợi dây lúc nào cũng căng…

cũng không đến nỗi là biển đâu
vẫn là mái nhà ta cả
chỉ là chia ra
để mỗi người là mình hơn
và cũng để yêu hơn những gì ta có

ngày mai con đi lấy chồng
lại có thêm ba mẹ
và ba cũng có thêm một đứa con
như con và chị
có thêm những người thân yêu
là có thêm một phần mình đáng sống…

ngày mai
những ngày mai đáng sống…

Cũng không nghĩ là mình còn nông nổi
khi những buổi chiều cứ lặng lẽ đi
hàng nghìn buổi chiều buốt giá
hé một ban mai sương đẫm gió khuya

còn những Pleiku thao thức
thông non ngơ ngác
em đến như định mệnh
mơ xanh nào buôn buốt
bàn tay đầy hương

không hề nghĩ là mình còn nông nổi
bồ câu thì gù, sói thì tru…
con sông trôi mê mải
chiều này hương xưa

cứ tưởng tượng sẽ xa nhau
đã thấy trái tim không trọng lượng
nhói buốt câm như lá thông chiều đứng gió
những hoang mang mỏng mảnh giăng diều

Pleiku như chân trời định mệnh
xa ngái nào cũng thấp thoáng mây trôi…

Cho Hương Giang
Rồi con sẽ lên ba lên năm
còn bây giờ thì ba mươi ngày nữa con mới đầy hai tuổi
ba không mong con lớn nhanh như thổi
chỉ cần con lớn đúng sức mình…

Ở ngoài kia là trời và biển mênh mông
con lẫm chẫm trong phòng môi cười như nắng
ba không muốn con là dòng sông phẳng lặng
dù tên con là dòng sông đau đáu của đời cha

sau này lớn lên con sẽ đi xa
hãy mang theo bước chân ngập ngừng nhỏ xiu hôm nay con nhé
dẫu là Hương Giang cũng có ngày cồn lên bão tố
và người dắt tay con chính là con trên từng chặng cuộc đời

sống hết mình nên nói chẳng hết lời
bao nhiêu lần làm thơ mà đành bỏ dở
đã có ai lớn lên mà không qua thời tuổi trẻ
viết cho con đâu ngoài nghĩa con người

vì thơ con ơi là chính cuộc đời
người ta khóc người ta cười còn ba thì viết
ba vẫn tin rằng cho đến khi chấm hết
mọi con người lại chập chững như con

sẽ đến lúc ba xuôi về hoàng hôn
con hãy nhận lấy trang thơ đời danh dở
con ơi dù nắng mưa dù gió
chân trời là của con…

Ba nằm một cõi một mình
hình như cơn gió thình lình vụt qua
trắng cồn bãi trắng cơn mưa
cuối năm chiếc lá cũng vừa kịp xanh
chân trời mỏng phía mong manh
mùa xuân ẩn dụ tơ mành mù sa

nén hương thắc thỏm nhạt nhoà
con châm lửa thắp khói và cát bay
nửa đời ngang dọc lắt lay
chiều nay run rẩy cuối ngày đầu năm
bàn tay xoắn nỗi lặng thầm
cúi đầu chớp một xa xăm kiếp người…

Ba nằm lại nhé ba ơi
con đi
trời vẫn bời bời nắng mưa…

Sẽ xa nhau ư
chẳng nỗi buồn nào hơn thế
cứ tưởng trái đất này hoàn hảo
ai ngờ vẫn hun hút lỗ đen

mà mùa xuân đang tràn phố
mà những trái tim đang đập như chồi non ứ nhựa
mà giấc mơ đang mở ra đêm mới
hoa cát đằng rắc khuya

đã qua những hạ những thu những đông để giờ nhen
vào nhau hy vọng
mơn man giọt sương nhói lên khúc xạ lần cuối
thì hãy vì mùa xuân mà nắng
mơ hồ nhang nhãng khuya

sẽ xa nhau ư
những hạt muối mặn nhau chở nặng nề xa nhói
rồi mất hút
bỏ lại ngày lăng lắc bên sông…

chậm lại nào cái màu trắng ánh lên từ cúc áo
chuyến xe cuối năm chênh vênh trên đường…

Trên đây là những bài thơ hay nhất của Văn Công Hùng mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn. Thông qua bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác. Cũng như chất thơ rất riêng của ông. Và ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong văn nghệ và Hội nhà văn. Điều này cũng phản ánh được tài năng của nhà thơ này.

Lý Bạch – Nhà thơ Đường nổi tiếng về Uống rượu ngâm thơ

Lý Bạch một nhà thơ lỗi lạc của nền văn học Trung Hoa, với tài năng thiên phú về thơ ca, Lý Bạch có đóng góp vô cùng to lớn đối với sự nghiệp thơ ca Trung Quốc. Lý Bạch nổi tiếng với phong cách uống rượu ngâm thơ hiếm có. Ông có nhiều thi phẩm vang danh đồ sộ được nhiều người ngưỡng mộ, mỗi một bài thơ là một kiệt tác phản ánh tâm tư, tình cảm của nhà thơ. Cùng tìm hiểu về nhà thơ Lý Bạch và những áng thơ bất hủ của ông nhé.

Nội Dung

-Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương)

-Ông sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ ông ưa thích học võ, học ca múa, lớn lên ông thích ngao du sơn thủy, ngắm trăng, làm thơ.

-Sau đó ông được một người bạn tiến cử vào cung, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân ngự dụng” nên ông bất mãn và rời khỏi cung. Ông kết bạn với Đỗ Phủ, với sở thích giống nhau thường thích ngắm trăng, săn bắt. Sau đó ông lại tiếp tục đi ngao du sơn thủy và những năm cuối đời ông ở ẩn tại Lư Sơn.

-Có sự tích lưu truyền về cái chết của Lý Bạch như sau: ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Sự nghiệp sáng tác thơ của Lý Bạch

-Sau khi nhà thơ Lý Bạch mất, Lý Đăng Dương đã sưu tầm thơ ông có khoảng 20.000 bài nhưng hiện nay chỉ còn giữ được 1.800 bài.
Thơ của Lý Bạch với nhiều chủ đề khác nhau đó là cảnh đẹp ánh trăng, vịnh cảnh, nỗi đau khổ của người dân… mỗi một áng thơ đều chất chứa những tâm tư, tình cảm của nhà thơ.

Lý Bạch là một thi sĩ vang danh với nhiều bài thơ đặc sắc và giá trị. Để giúp các bạn hiểu thêm về phong cách thơ ông thì ngay bây giờ chúng ta hãy cùng nhau theo dõi bài viết này ngay nhé!

鸚鵡洲
鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?

Anh Vũ châu
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?

Dịch nghĩa
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.

(Năm 760)

Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.

灞陵行送別
送君灞陵亭,
灞水流浩浩。
上有無花之古樹,
下有傷心之春草。
我向秦人問路跂,
雲是王粲南登之古道。
古道連綿走西京,
紫闕落日浮雲生。
正當今夕斷腸處,
驪歌愁絕不忍聽。

Bá Lăng hành tống biệt
Tống quân Bá Lăng đình,
Bá thuỷ lưu hạo hạo.
Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ,
Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo.
Ngã hướng Tần nhân vấn lộ kỳ,
Vân thị Vương Xán nam đăng chi cổ đạo.
Cổ đạo liên miên tẩu Tây kinh,
Tử khuyết lạc nhật phù vân sinh.
Chính đương kim tịch đoạn trường xứ,
“Ly ca” sầu tuyệt bất nhẫn thính.

Dịch nghĩa
Tiễn ông nơi đình Bá Lăng,
Sông Bá chảy mênh mông.
Trên cây cổ thụ không thấy hoa,
Dưới đất cỏ xuân như lộ vẻ thương tâm.
Tôi hỏi đường người đất Tần tại ngã rẽ chia tay,
Đáp rằng chính là con đường xưa Vương Xán đi về nam.
Đường cũ xa vời vợi dẫn tới Tây kinh,
Mây chiều đang nổi trên hoàng cung.
Đúng vào lúc chiều tà chia tay buồn đứt ruột,
Ai hát bài “Ly Ca” không còn lòng dạ đâu mà nghe.

Bá Lăng ở hướng đông nam, cách kinh thành Trường An khoảng 30 dặm, có sông Bá chảy qua. Trên bờ khúc sông này có lăng vua Hán Văn Đế, nên chỗ này kêu là Bá Lăng.

巴女詞
巴水急如箭,
巴船去若飛。
十月三千里,
郎行幾時歸?

Ba nữ từ
Ba thuỷ cấp như tiễn,
Ba thuyền khứ nhược phi.
Thập nguyệt tam thiên lý,
Lang hành kỷ thì quy?

Dịch nghĩa
Sông xứ Ba chảy xiết như tên bắn,
Thuyền nhỏ xứ Ba lướt như bay.
Chàng đi có ba ngàn dặm, mà đã mười tháng rồi,
Bao giờ chàng mới trở về?

Ba là tên một nước thời cổ, nay là huyện Ba Trung, tỉnh Tứ Xuyên.

把酒問月
青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.

白頭吟
錦水東北流,
波蕩雙鴛鴦。
雄巢漢宮樹,
雌弄秦草芳。
寧同萬死碎綺翼,
不忍雲間兩分張。
此時阿嬌正嬌妒,
獨坐長門愁日暮。
但愿君恩顧妾深,
豈惜黃金買詞賦。
相如作賦得黃金,
丈夫好新多異心。
一朝將聘茂陵女,
文君因贈白頭吟。
東流不作西歸水,
落花辭條羞故林。
兔絲固無情,
隨風任傾倒。
誰使女蘿枝,
而來強縈抱。
兩草猶一心,
人心不如草。
莫卷龍須席,
從他生網絲。
且留琥珀枕,
或有夢來時。
覆水再收豈滿杯,
棄妾已去難重回。
古來得意不相負,
只今惟見青陵臺。

Bạch đầu ngâm
Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch nghĩa
Dòng nước như gấm trôi về đông bắc
Trên sóng chấp chới đôi uyên ương
Con trống đậu trên cây ở Hán cung
Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần
Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh
Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây
Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy
Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn
Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn
Há tiếc hoàng kim mua từ phú
Tương Như làm phú được hoàng kim
Trượng phu ưa mới sinh lòng khác
Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”
Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây
Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ
Cỏ thố ty vốn vô tình
Theo gió mà ngả nghiêng
Ai xui khiến dây cỏ nữ la
Tìm tới quấn quýt không rời
Hai loài cỏ, chung một tấm lòng
Lòng người sao chẳng như cỏ ấy
Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng)
Mặc cho tơ nhện chăng đầy
Hãy để lại chiếc gối hổ phách
Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ
Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao
Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại
Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau
Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi

白鷺鷥
白鷺下秋水,
孤飛如墜霜。
心閑且未去,
獨立沙洲旁。

Bạch lộ tư
Bạch lộ há thu thuỷ,
Cô phi như truỵ sương.
Tâm nhàn thả vị khứ,
Độc lập sa châu bàng.

Dịch nghĩa
Con cò trắng đáp xuống làn nước mùa thu,
Bay một mình như cụm sương rơi.
Với dáng điệu an nhàn nó chưa đi đâu cả,
Nó đứng một mình trên bãi cát bìa cù lao.

白雲歌送劉十六歸山
楚山秦山皆白雲,
白雲處處長隨君。
長隨君,
君入楚山裏,
雲亦隨君渡湘水。
湘水上,
女蘿衣,
白雲堪臥君早歸。

Bạch vân ca tống Lưu thập lục quy sơn
Sở sơn Tần sơn giai bạch vân,
Bạch vân xứ xứ trường tuỳ quân,
Trường tuỳ quân.
Quân nhập Sở sơn lý,
Vân diệc tuỳ quân độ Tương thuỷ.
Tương thuỷ thượng,
Nữ la y,
Bạch vân kham ngoạ quân tảo quy.

Dịch nghĩa
Núi Sở hay núi Tần cũng đều có mây trắng,
Mây trắng ở nơi nào cũng theo ông mãi.
Theo ông mãi,
Nên khi ông vào núi Sở,
Mây vẫn theo ông qua sông Tương.
Trên sông Tương,
Có con quỷ núi,
Mây ráng nằm lại, nên ông sớm quy ẩn.

(Năm 744)

Lưu thập lục thân thế không rõ, có lẽ là một người bạn của tác giả. Bài này làm để tiễn tặng họ Lưu từ kinh đô Trường An về quy ẩn ở một ngọn núi bên bờ sông Tương, tỉnh Hồ Nam.

白微時,募縣小吏入令臥內,嘗驅牛經堂下令妻怒將加詰責白亟以詩謝雲
素面倚欄鉤,
嬌聲出外頭。
若非是織女,
何得問牽牛。

Bạch vi thì mộ huyện tiểu lại nhập lệnh ngoạ nội, thường khu ngưu kinh đường hạ lệnh thê nộ tương gia cật trách, Bạch cức dĩ thi tạ vân
Tố diện ỷ lan câu,
Kiều thanh xuất ngoại đầu.
Nhược phi thị Chức Nữ,
Hà đắc vấn Khiên Ngưu?

Dịch nghĩa
Mặt ngọc tựa lan can
Cất giọng thánh thót ló đầu ra ngoài
Nếu không phải là nàng Chức Nữ
Hà cớ chi hỏi đến chàng Ngưu Lang?

北風行
燭龍棲寒門,
光曜猶旦開。
日月照之何不及此,
惟有北風號怒天上來。
燕山雪花大如席,
片片吹落軒轅臺。
幽州思婦十二月,
停歌罷笑雙蛾摧。
倚門望行人,
念君長城苦寒良可哀。
別時提劍救邊去,
遺此虎紋金鞞革叉。
中有一雙白羽箭,
蜘蛛結網生塵埃。
箭空在,
人今戰死不復回。
不忍見此物,
焚之已成灰。
黃河捧土尚可塞,
北風雨雪恨難裁。

Bắc phong hành
Chúc long thê hàn môn,
Quang diệu do đán khai.
Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,
Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
Ỷ môn vọng hành nhân,
Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.
Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
Di thử hổ văn kim bính cách xoa.
Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
Tri thù kết võng sinh trần ai.
Tiễn không tại,
Nhân kim chiến tử bất phục hồi.
Bất nhẫn kiến thử vật,
Phần chi dĩ thành khôi.
Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,
Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

Dịch nghĩa
Đuốc rồng mà đến nhà nghèo
Ánh nắng buổi mai cũng chiếu sáng
Trời trăng soi rọi sao đến chốn này được
Chỉ có gió bấc từ trời cao giận dữ gầm thét
Núi Yên Chi hoa tuyết lớn như những chiếc chiếu (cuốn hết mọi thứ)
Từng mãng từng mãng thổi sập đài Hiên Viên
Tháng 12 người thiếu phụ đất U Châu tư lự
Không còn ca hát cười đùa, đôi mày ngài tiều tuỵ
Tựa cửa trông người đi
Nhớ chàng ở Trường Thành khổ lạnh thật đáng thương
Hồi đó chia tay chàng mang gươm đi cứu nguy biên ải
Để lại túi đựng tên (chĩa ba) vằn da hổ
Trong đó thường có một cặp tên đuôi buộc lông chim trắng
Bây giờ nhện giăng đầy bụi bặm
Cặp tên không còn nữa
Và chinh phu đã chết vì chiến đấu, không trở về
Nàng không cam lòng nhìn những vật ấy
Nên muốn đốt cháy thành tro
Sông Hoàng Hà đất đào đem đi chỗ khác có thể lấp được
Còn gió bấc tuyết mưa đầy hờn oán kia làm sao dập đứt nổi

Bài này viết khoảng năm 752, trong giai đoạn từ quan (745) sống đời phiêu bạt giang hồ cho tới khi vào núi Lư sơn ẩn cư (755). Năm đó, bước chân giang hồ của ông phiêu bạt tới U châu.

悲歌行
悲來乎。
悲來乎。
主人有酒且莫斟。
聽我一曲悲來吟。
悲來不吟還不笑。
天下無人知我心。
君有數斗酒。
我有三尺琴。
琴鳴酒樂兩相得。
一杯不啻千鈞金。
悲來乎。
悲來乎。
天雖長。
地雖久。
金玉滿堂應不守。
富貴百年能几何。
死生一度人皆有。
孤猿坐啼墳上月。
且須一盡杯中酒。
悲來乎。
悲來乎。
鳳凰不至河無圖。
微子去之箕子奴。
漢帝不憶李將軍。
楚王放卻屈大夫。
悲來乎。
悲來乎。
秦家李斯早追悔。
虛名撥向身之外。
范子何曾愛五湖。
功成名遂身自退。
劍是一夫用。
書能知姓名。
惠施不肯干萬乘。
卜式未必窮一經。
還須黑頭取方伯。
莫謾白首為儒生。

Bi ca hành
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Chủ nhân hữu tửu thả mạc châm
Thính ngã nhất khúc bi lai ngâm
Bi lai bất ngâm hoàn bất tiếu
Thiên hạ vô nhân tri ngã tâm
Quân hữu sổ đấu tửu
Ngã hữu tam xích cầm
Cầm minh tửu lạc lưỡng tương đắc
Nhất bôi bất thí thiên quân kim
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Thiên tuy trường
Địa tuy cửu
Kim ngọc mãn đường ưng bất thủ
Phú quý bách niên năng kỹ hà
Tử niên nhất độ nhân giai hữu
Cô viên tọa đề phần thượng nguyệt
Thả tu nhất tận bôi trung tửu
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Phượng hoàng bất chí hà vô đồ
Vi Tử khứ chi Kỳ Tử nô
Hán Đế bất ức Lý Tướng Quân
Sở Vương phóng khước Khuất Đại Phu
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Tần gia Lý Tư tảo truy hối
Hư danh bát hướng thân chi ngoại
Phạm tử hà tằng ái ngũ hồ
Danh thành công toại thân tự thoái
Kiếm thị nhất phu dụng
Thư năng tri tánh danh
Huệ thi bất khẳng can vạn thừa
Bốc thức vị tâm cùng nhất kinh
Hoàng tu hắc đầu thủ phương bá
Mạc man bạch thủ vi nho sinh.

別東林寺僧
東林送客處,
月出白猿啼。
笑別盧山遠,
何煩過虎溪。

Biệt Đông Lâm tự tăng
Đông Lâm tống khách xứ,
Nguyệt xuất bạch viên đề.
Tiếu biệt Lư sơn viễn,
Hà phiền quá Hổ khê.

別內赴徵其一
王命三徵去未還,
明朝離別出吳關。
白玉高樓看不見,
相思須上望夫山。

Biệt nội phó trưng kỳ 1
Vương mệnh tam trưng khứ vị hoàn,
Minh triêu ly biệt xuất Ngô quan.
Bạch ngọc cao lâu khan bất kiến,
Tương tư tu thướng Vọng phu san.

Dịch nghĩa
Được lệnh vua viết ba bài thơ từ biệt mà vẫn chưa đi được,
Sáng mai sẽ ra khỏi cửa thành đất Ngô.
Từ lầu cao nhà ta không thấy được kinh thành đâu,
Có nhớ nhau, phải lên hòn Vọng phu để trông.

(Năm 756)

Ba bài này viết vào thời điểm An Lộc Sơn vây hãm hai kinh. Vĩnh vương Lý Lân, con thứ 16 của Huyền Tông, làm Giang Lăng đô đốc, sung tiết độ sứ các đạo Sơn Nam đông lộ, Lĩnh Nam Kiềm Trung và Giang Nam tây lộ. Trọng tài danh của Lý Bạch, Vĩnh vương mời ông tới làm liêu tá trong phủ. Khi Lý Lân làm phản, tự đem thuyền đi xuống phía đông, Lý Bạch cũng bị bức bách đi theo.

別內赴徵其二
出門妻子強牽衣,
問我西行几日歸。
歸時儻佩黃金印,
莫學蘇秦不下機。

Biệt nội phó trưng kỳ 2
Xuất môn thê tử cưỡng khiên y,
Vấn ngã tây hành kỷ nhật quy.
Quy thời thảng bội hoàng kim ấn,
Mạc học Tô Tần bất há ky.

別內赴徵其三
翡翠為樓金作梯,
誰人獨宿倚門啼?
夜坐寒燈連曉月,
行行淚盡楚關西。

Biệt nội phó trưng kỳ 3
Phỉ thuý vi lâu kim tác thê,
Thuỳ nhân độc túc ỷ môn đề?
Dạ toạ hàn đăng liên hiểu nguyệt,
Hàng hàng lệ tận Sở quan tê (tây).

Dịch nghĩa
Vàng chế ra thang, ngọc thuý tạo nên lầu,
Ai người một mình tựa cửa khóc sầu?
Đêm ngồi dưới ngọn đèn lạnh cùng với mảnh trăng sớm,
Hàng hàng dòng lệ rơi ở ải tây thành Sở.

(Năm 756)

平虜將軍妻
平虜將軍婦,
入門二十年。
君心自有悅,
妾寵豈能專。
出解床前帳,
行吟道上篇。
古人不唾井,
莫忘昔纏綿。

Bình lỗ tướng quân thê
Bình lỗ tướng quân thê,
Nhập môn nhị thập niên.
Quân tâm tự hữu duyệt,
Thiếp sủng khởi năng chuyên?
Xuất giải sàng tiền trướng,
Hành ngâm đạo thượng thiên.
Cổ nhân bất thoá tỉnh,
Mạc vong tích triền miên.

Dịch nghĩa
Vợ của bình lỗ tướng quân,
Tới làm dâu đã hai mươi năm.
Nay chàng có niềm vui khác,
Thiếp há còn được yêu mến mãi?
Ra đi tháo bức màn trước giường xuống (xưa mang đến lúc về làm dâu, nay ra đi thì tháo mang đi),
Trên đường ngâm một bài thơ.
Người xưa không nhổ xuống giếng cũ,
Xin chớ quên bao ngày tháng bên nhau.

菩薩蠻
平林漠漠煙如織,
寒山一帶傷心碧。
暝色入高樓,
有人樓上愁。
玉階空佇立,
宿鳥歸飛急。
何處是歸程,
長亭更短亭。

Bồ tát man
Bình lâm mạc mạc yên như chức,
Hàn san nhất đới thương tâm bích.
Minh sắc nhập cao lâu,
Hữu nhân lâu thượng sầu.
Ngọc giai không trữ lập,
Túc điểu quy phi cấp.
Hà xứ thị quy trình,
Trường đình cách đoản đình.

Dịch nghĩa
Cảnh rừng phẳng lặng, khói dày bay lên uốn lượn như dệt,
Núi lạnh một dải xanh biếc nhìn thấy thê lương.
Bóng tối lọt vào lầu cao,
Có người trên lầu đang buồn.
Thềm ngọc đứng mãi một mình,
Chim tối bay về tổ vội vã.
Đường về là nơi nào?
Trường đình lại đến đoản đình.

陪侍郎叔遊洞庭醉後其三
剗却君山好,
平铺湘水流。
巴陵无限洒,
醉杀洞庭秋。

Bồi thị lang thúc du Động Đình tuý hậu kỳ 3
Sản khước Quân sơn hảo,
Bình phô Tương thuỷ lưu.
Ba Lăng vô hạn tửu,
Tuý sát Động Đình thu.

Dịch nghĩa
(Giá như) đem bỏ được núi Quân đi,
Sẽ chỉ còn dòng sông Tương phẳng lặng chảy dài.
Rượu uống trên núi Ba Lăng tha hồ,
Vẻ thu ở hồ Động Đình đẹp mê hồn khiến người say.

Thị lang thúc là người chú tên Diệp, giữ chức Hình bộ thị lang của tác giả. Hồ Động Đình là một thắng cảnh nổi tiếng, nay trong huyện Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam.

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其一
洞庭西望楚江分,
水盡南天不見雲。
日落長沙秋色遠,
不知何處弔湘君。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 1
Động Đình tây vọng Sở giang phân,
Thuỷ tận nam thiên bất kiến vân.
Nhật lạc Trường Sa thu sắc viễn,
Bất tri hà xứ điếu Tương quân.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其二
南湖秋水夜無煙,
耐可乘流直上天。
且就洞庭賒月色,
將船買酒白雲邊。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 2
Nam hồ thu thuỷ dạ vô yên,
Nại khả thừa lưu trực thướng thiên.
Thả tựu Động Đình xa nguyệt sắc,
Tương thuyền mãi tửu bạch vân biên.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其三
洛陽才子謫湘川,
元禮同舟月下仙。
記得長安還欲笑,
不知何處是西天。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 3
Lạc Dương tài tử trích tương xuyên,
Nguyên lễ đồng chu nguyệt hạ tiên.
Ký đắc Trường An hoàn dục tiếu,
Bất tri hà xứ thị tây thiên.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其四
洞庭湖西秋月輝,
瀟湘江北早鴻飛。
醉客滿船歌白苧,
不知霜露入秋衣。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 4
Động Đình hồ tây thu nguyệt huy,
Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi.
Tuý khách mãn thuyền ca Bạch trữ,
Bất tri sương lộ nhập thu y.

Dịch nghĩa
Mé tây hồ Động Đình, trăng thu sáng
Phía bắc sông Tiêu, Tương, chim hồng sớm bay về
Đầy thuyền khách say hát bài ca Bạch trữ
Chẳng biết sương móc thấm vào áo mùa thu

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其五
帝子瀟湘去不還,
空余秋草洞庭間。
淡掃明湖開玉鏡,
丹青畫出是君山。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 5
Đế tử Tiêu Tương khứ bất hoàn,
Không dư thu thảo Động Đình gian.
Đạm tảo minh hồ khai ngọc kính,
Đan thanh hoạ xuất thị Quân san.

Dịch nghĩa
Con gái vua Nghiêu tới Tiêu Tương rồi không về nữa,
Bỏ lại cỏ thu cho vùng Động Đình bao la này.
Gió thổi quang sương trên mặt hồ sáng như tấm gương ngọc,
Núi Quân đẹp như bức tranh màu sắc xanh đỏ.

(Năm 759)

戰城南
去年戰,桑乾源。
今年戰,蔥河道。
洗兵條支海上波,
放馬天山雪中草。
萬里長征戰,
三軍盡衰老。
匈奴以殺戮為耕作,
古來唯見白骨黃沙田。
秦家築城避胡處,
漢家還有烽火燃。
烽火燃不息,
征戰無已時。
野戰格鬥死,
敗馬號鳴向天悲。
鳥鳶啄人腸,
銜飛上挂枯樹枝。
士卒塗草莽,
將軍空爾為。
乃知兵者是兇器,
聖人不得已而用之。

Chiến thành nam
Khứ niên chiến, Tang Càn nguyên,
Kim niên chiến, Thông Hà đạo.
Tẩy binh Điều Chi hải thượng ba,
Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Vạn lý trường chinh chiến,
Tam quân tận suy lão.
Hung Nô dĩ sát lục vi canh tác,
Cổ lai duy kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa nhiên bất tức,
Chinh chiến vô dĩ thì.
Dã chiến cách đấu tử,
Bại mã hào minh hướng thiên bi.
Ô diên trác nhân trường,
Hàm phi thướng quải khô thụ chi.
Sĩ tốt đồ thảo mãng,
Tướng quân không nhĩ vi.
Nãi tri binh giả thị hung khí,
Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi.

Dịch nghĩa
Vừa năm ngoái đánh nhau ở đầu sông Tang Càn
Đến năm nay lại đánh nhau tại miền sông Thông Hà
Dùng sóng biển Điều Chi để rửa giáo gươm
Thả ngựa về núi Thiên Sơn cho ăn cỏ tuyết
Đán nhau dai dẳng bên ngoài muôn dặm
Hết thảy ba quân đều ốm và già yếu
Rợ Hồ thì lấy sự giết chóc thay cho việc cày bừa
Từ xưa chỉ thấy xương trắng trên cánh đồng cát vàng
Nhà Tần xây thành phòng ngự giặc Hồ,
Nhà Hán đốt lửa hiệu còn cháy rực.
Lửa báo động cháy không hề tắt,
Chiến chinh chẳng bao giờ ngừng.
Kẻ tử trận trong cuộc đánh giáp nơi đồng nội
Ngựa thua trận nhìn trời hí vang thảm thiết
Diều quạ mổ ruột người
Ngậm tha bay treo lơ lững trên cây khô
Binh lính chết trên đồng cỏ,
Tướng quân một mình thơ thẩn lơ láo.
Mới biết rằng binh đao là vật gở,
Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng tới.

(Năm 747)

古朗月行
小時不識月,
呼作白玉盤。
又疑瑤臺鏡,
飛在白雲端。
仙人垂兩足,
桂樹作團團。
白兔搗藥成,
問言與誰餐。
蟾蜍蝕圓影,
大明夜已殘。
羿昔落九烏,
天人清且安。
陰精此淪惑,
去去不足觀。
憂來其如何,
淒愴摧心肝。

Cổ lãng nguyệt hành
Tiểu thì bất thức nguyệt,
Hô tác bạch ngọc bàn.
Hựu nghi Dao Đài kính,
Phi tại bạch vân đoan.
Tiên nhân thuỳ lưỡng túc,
Quế thụ tác đoàn đoàn.
Bạch thố đảo dược thành,
Vấn ngôn dữ thuỳ xan.
Thiềm thừ thực viên ảnh,
Đại minh dạ dĩ tàn.
Nghệ tích lạc cửu ô,
Thiên nhân thanh thả an.
Âm tinh thử luân hoặc,
Khứ khứ bất túc quan.
Ưu lai kỳ như hà,
Thê sảng tồi tâm can.

Dịch nghĩa
Thuở nhỏ không biết trăng,
Gọi là mâm ngọc sáng.
Lại ngờ là gương ở Dao Đài,
Bay tít tầng mây trắng.
Người tiên buông đôi chân,
Cây quế tròn xum xuê.
Thỏ trắng giã thuốc đã xong,
Hỏi biết cùng ai mà nếm.
Con cóc gặm ảnh tròn,
Ánh sáng về đêm đã tàn lụi.
Hậu Nghệ xưa bắn rơi chín mặt trời,
Người trời trong sạch và yên ổn.
Vầng trăng của đêm chìm trong thương cảm,
Trôi trôi không nhìn thấy nữa.
Buồn lo đến thế sao,
Xót xa bời bời gan ruột.

古風其二
蟾蜍薄太清,
蝕此瑤臺月。
圓光虧中天,
金魄遂淪沒。
螮蝀入紫微,
大明夷朝暉。
浮雲隔兩曜,
萬象昏陰霏。
蕭蕭長門宮,
昔是今已非。
桂蠹花不實,
天霜下嚴威。
沈嘆終永夕,
感我涕沾衣。

Cổ phong kỳ 02
Thiềm thừ bạc Thái Thanh,
Thực thử Dao Đài nguyệt.
Viên quang khuy trung thiên,
Kim phách toại luân một.
Đế đông nhập Tử Vi,
Đại minh di triêu huy.
Phù vân cách lưỡng diệu,
Vạn tượng hôn âm phi.
Tiêu tiêu Trường Môn cung,
Tích thị kim dĩ phi.
Quế đố hoa bất thực,
Thiên sương hạ nghiêm uy.
Trầm thán chung vĩnh tịch,
Cảm ngã di triêm y.

古風其三
秦皇掃六合,
虎視何雄哉。
揮劍決浮雲,
諸侯盡西來。
明斷自天啟,
大略駕群才。
收兵鑄金人,
函谷正東開。
銘功會稽嶺,
騁望琅琊臺。
刑徒七十萬,
起土驪山隈。
尚采不死葯,
茫然使心哀。
連弩射海魚,
長鯨正崔嵬。
額鼻象五岳,
揚波噴雲雷。
鬈鬣蔽青天,
何由睹蓬萊。
徐市載秦女,
樓船幾時迴。
但見三泉下,
金棺葬寒灰。

Cổ phong kỳ 03
Tần hoàng tảo lục hiệp,
Hổ thị hà hùng tai.
Huy kiếm quyết phù vân,
Chư hầu tận tây lai.
Minh đoạn tự thiên khởi,
Đại lược giá quần tài.
Thu binh chú kim nhân,
Hàm Cốc chính đông khai.
Minh công hội Kê Lĩnh,
Sính vọng Lang Nha đài.
Hình đồ thất thập vạn,
Khởi thổ ly sơn ôi.
Thượng thái bất tử dược,
Mang nhiên sử tâm ai.
Liên nỗ xạ hải ngư,
Trường kình chính thôi ngôi.
Ngạch tỵ tượng Ngũ Nhạc,
Dương ba phún vân lôi.
Quyền liệp tế thanh thiên,
Hà do đổ Bồng Lai.
Từ thị tải Tần nữ,
Lâu thuyền kỷ thì hồi.
Đán kiến Cam Tuyền hạ,
Kim quan táng hàn hôi.

(Năm 751)

古風其八
天津三月時,
千門桃與李。
朝為斷腸花,
暮逐東流水。
前水複後水,
古今相續流。
新人非舊人,
年年橋上遊。
雞鳴海色動,
謁帝羅公侯。
月落西上陽,
餘輝半城樓。
衣冠照雲日,
朝下散皇州。
鞍馬如飛龍,
黃金絡馬頭。
行人皆辟易,
志氣橫嵩丘。
入門上高堂,
列鼎錯珍羞。
香風引趙舞,
清管隨齊謳。
七十紫鴛鴦,
雙雙戲庭幽。
行樂爭晝夜,
自言度千秋。
功成身不退,
自古多愆尤。
黃犬空歎息,
綠珠成釁仇。
何如鴟夷子,
散發棹扁舟。

Cổ phong kỳ 08
Thiên tân tam nguyệt thì,
Thiên môn đào dữ lý.
Triêu vi đoạn trường hoa,
Mộ trục đông lưu thuỷ.
Tiền thuỷ phức hậu thuỷ,
Cổ kim tương tục lưu.
Tân nhân phi cựu nhân,
Niên niên kiều thượng du.
Kê minh hải sắc động,
Yết đế la công hầu.
Nguyệt lạc tây Thượng Dương,
Dư huy bán thành lâu.
Y quan chiếu vân nhật,
Triều hạ tán hoàng châu.
Yên mã như phi long,
Hoàng kim lạc mã đầu.
Hành nhân giai tịch dị,
Chí khí hoành Tung khâu.
Nhập môn thướng cao đường,
Liệt đỉnh thác trân tu.
Hương phong dẫn triệu vũ,
Thanh quản tuỳ Tề âu.
Thất thập tử uyên ương,
Song song hí đình u.
Hành lạc tranh trú dạ,
Tự ngôn độ thiên thu.
Công thành thân bất thoái,
Tự cổ đa khiên vưu.
Hoàng khuyển không thán tức,
Lục Châu thành hấn cừu.
Hà như si di tử,
Tán phát trạo biển chu.

古風其十
齊有倜儻生,
魯連特高妙。
明月出海底,
一朝開光耀。
卻秦振英聲,
後世仰末照。
意輕千金贈,
顧向平原笑。
吾亦澹蕩人,
拂衣可同調。

Cổ phong kỳ 10
Tề hữu thích thảng sinh,
Lỗ Liên đặc cao diệu.
Minh nguyệt xuất hải để,
Nhất triêu khai quang diệu.
Khước Tần chấn anh thanh,
Hậu thế ngưỡng mạt chiếu.
Ý khinh thiên kim tặng,
Cố hướng Bình Nguyên tiếu.
Ngô diệc đạm đãng nhân,
Phất y khả đồng điệu.

Dịch nghĩa
Nước Tề có nhiều người tài ba lỗi lạc,
Trong đó đặc biệt Lỗ Trọng Liên cao minh hơn cả.
Như ngọc dạ quang lấy từ đáy biển,
Một sớm mang lên bờ phát ra ánh sáng.
Lời khước từ đầu hàng vua Tần làm chấn động anh hào,
Đời sau mãi còn ngưỡng mộ.
Không nhận một ngàn lượng vàng tặng,
Cười thản nhiên trước Bình Nguyên Quân.
Ta là kẻ vốn bình dị không ham danh lợi,
Xin rũ áo đứng lên nhận là người đồng điệu.

Thời Chiến Quốc, vua Tần cho quân vây kinh đô Hàm Đan nước Triệu, rồi cho thuyết khách khuyên Triệu đầu hàng. Lỗ Trọng Liên gặp tướng giữ thành bên Triệu là Bình Nguyên Quân khuyên không nên hàng và gay gắt tranh luận với thuyết khách bên Tần. Vừa lúc đó, Tín Lăng Quân nước Nguỵ đem quân đến giải vây, quân Tần phải rút về. Bình Nguyên Quân tặng Liên một ngàn lạng vàng nhưng Liên không nhận.

古風其十一
黃河走東溟。
白日落西海。
逝川與流光。
飄忽不相待。
春容舍我去。
秋髮已衰改。
人生非寒松。
年貌豈長在。
吾當乘雲螭。
吸景駐光綵。

Cổ phong kỳ 11
Hoàng Hà tẩu Đông minh,
Bạch nhật lạc Tây hải
Thệ xuyên dữ lưu quang
Phiêu hốt bất tương đãi
Xuân dung xả ngã khứ
Thu phát dĩ suy cải
Nhân sinh phi hàn tùng
Niên mạo khởi trường tại
Ngô đương thừa vân ly
Hấp ảnh trụ quang thái

Dịch nghĩa
Dòng nước sông Hoàng Hà chạy xuống biển Đông,
Vầng mặt trời trắng rụng xuống biển Tây,
Dòng nước và ánh sáng
Vùn vụt đi không chờ ai cả.
Cái vẻ xuân tươi đã bỏ ta đi mất.
Tóc về thu đã biến đổi màu xưa.
Đời người ta nào phải đâu cây thông
Chịu lạnh sao có thể còn mãi được ?
Ta nên cưỡi rống lên trời,
Hút lấy ánh sáng của Mặt trời, Mặt trăng để giữ lấy cái tươi trẻ lâu dài.

古風其十五
燕昭延郭隗,
遂筑黃金臺。
劇辛方趙至,
鄒衍復齊來。
奈何青雲士,
棄我如塵埃。
珠玉買歌笑,
糟糠養賢才。
方知黃鵠舉,
千里獨徘徊。

Cổ phong kỳ 15
Yên Chiêu diên Quách Ngỗi,
Toại trúc hoàng kim đài.
Kịch Tân phương Triệu chí,
Trâu Diễn phục Tề lai.
Nại hà thanh vân sĩ,
Khí ngã như trần ai.
Châu ngọc mãi ca tiếu,
Tao khang dưỡng hiền tài.
Phương tri “Hoàng hộc cử”,
Thiên lý độc bồi hồi.

Dịch nghĩa
Yên Chiêu Vương mời Quách Ngỗi giúp việc nước,
Nên xây đài bằng vàng.
Được Kịch Tân từ nước Triệu qua,
Và Sô Diễn từ nước Tề tới.
Đường Huyền Tông chỉ dùng bọn tầm thường,
Coi ta như cát bụi.
Tiền bạc chỉ dùng để mua tiếng cười câu hát,
Còn đãi hiền tài rất bần tiện.
Cũng biết đến điển “Hoàng hộc cử”,
Nhưng trước tiền đồ ngàn dặm chẳng biết đi đâu.

古風其十八
孤蘭生幽園,
眾草共蕪沒。
雖照陽春暉,
復悲高秋月。
飛霜早淅瀝,
綠艷恐休歇。
若無清風吹,
香氣為誰發。

Cổ phong kỳ 18
Cô lan sinh u viên,
Chúng thảo cộng vu một.
Tuy chiếu dương xuân huy,
Phục bi cao thu nguyệt.
Phi sương tảo tích lịch,
Lục diễm khủng hưu tiết.
Nhược vô thanh phong xuy,
Hương khí vị thuỳ phát?

古風其十九
西嶽蓮花山,
迢迢見明星。
素手把芙蓉,
虛步躡太清。
霓裳曳廣帶,
飄拂升天行。
邀我登雲臺,
高揖衛叔卿。
恍恍與之去,
駕鴻淩紫冥。
俯視洛陽川,
茫茫走胡兵。
流血塗野草,
豺狼盡冠纓。

Cổ phong kỳ 19
Tây nhạc Liên Hoa sơn,
Điều điều kiến Minh Tinh.
Tố thủ bả phù dung,
Hư bộ nhiếp thái thanh.
Nghê thường duệ quảng đới,
Phiêu phất thăng thiên hành.
Yêu ngã đăng Vân Đài,
Cao ấp vệ Thúc Khanh.
Hoảng hoảng dữ chi khứ,
Giá hồng lăng tử minh.
Phủ thị Lạc Dương xuyên,
Mang mang tẩu Hồ binh.
Lưu huyết đồ dã thảo,
Sài lang tận quan anh.

古風其二十三
秋露白如玉,
團團下庭綠。
我行忽見之,
寒早悲歲促。
人生鳥過目,
胡乃自結束。
景公一何愚,
牛山淚相續。
物苦不知足,
得隴又望蜀。
人心若波瀾,
世路有屈曲。
三萬六千日,
夜夜當秉燭。

Cổ phong kỳ 23
Thu lộ bạch như ngọc,
Đoàn đoàn há đình lục.
Ngã hành hốt kiến chi,
Hàn tảo bi tuế xúc.
Nhân sinh điểu quá mục,
Hồ nãi tự kết thúc.
Cảnh Công nhất hà ngu,
Ngưu sơn lệ tương tục.
Vật khổ bất tri túc,
Đắc Lũng hựu vọng Thục.
Nhân tâm nhược ba lan,
Thế lộ hữu khuất khúc.
Tam vạn lục thiên nhật,
Dạ dạ đương bỉnh chúc.

古風其二十四
大車揚飛塵,
亭午暗阡陌。
中貴多黃金,
連雲開甲宅。
路逢鬥雞者,
冠蓋何輝赫。
鼻息幹虹蜺,
行人皆怵惕。
世無洗耳翁,
誰知堯與蹠。

Cổ phong kỳ 24
Đại xa dương phi trần,
Đình ngọ âm thiên mạch.
Trung quý đa hoàng kim,
Liên vân khai giáp trạch.
Lộ phùng đấu kê giả,
Quan cái hà huy hách.
Tỵ tức cán hồng nghê,
Hành nhân giai truật dịch.
Thế vô tẩy nhĩ ông,
Thuỳ tri Nghiêu dữ Chích?

Dịch nghĩa
Xe lớn chạy làm bụi đường tung bay,
Giữa trưa mà đại lộ cũng u ám.
Bọn hoạn quan chuyên quyền tiền nhiều,
Dinh thự nối liên tiếp cao tới mây.
Trên đường còn gặp “quan gà chọi”,
Ngựa xe mũ mão cũng như ai.
Mũi phổng như thở ra cầu vồng,
Người trên đường ai cũng phải kinh sợ.
Đời bây giờ không còn “ông rửa tai”,
Nên không ai biết là vua Nghiêu hay đạo tặc.

Lý Bạch trong thời gian giữ một chức quan nhỏ ở Trường An (742-744) đã chứng kiến triều chính hủ bại, ông viết bài này rồi từ quan để tiếp tục cuộc sống lãng du.

古風其三十一
鄭客西入關,
行行未能已。
白馬華山君,
相逢平原里。
璧遺鎬池君,
明年祖龍死。
秦人相謂曰,
吾屬可去矣。
一往桃花源,
千春隔流水。

Cổ phong kỳ 31
Trịnh Khách tây nhập quan,
Hành hành vị năng dĩ.
Bạch mã Hoa Sơn quân,
Tương phùng bình nguyên lý.
Bích di Cảo Trì quân,
Minh niên Tổ long tử.
Tần nhân tương vị viết,
Ngô thuộc khả khứ hĩ.
Nhất vãng đào hoa nguyên,
Thiên xuân cách lưu thuỷ.

Dịch nghĩa
Trịnh Khách từ phía tây đi vào cửa ải,
Sau nhiều ngày đi mãi mới tới.
Đạo sĩ Hoa Sơn quân đi ngựa trắng,
Trịnh Khách gặp được nơi đồng bằng.
Trao Hoa Sơn quân miếng ngọc của Cảo Trì quân,
Tiên đoán sang năm Tổ long sẽ chết.
Dân Tần nghe lỏm được lời tiên đoán bàn tán rằng:
Tôi và quyến thuộc phải đi lánh nạn thôi!
Một khi đã vượt suối hoa đào rồi,
Thì ngàn năm sống xa lánh sông hồ.

古風其三十四
羽檄如流星,
虎符合專城。
喧呼救邊急,
群鳥皆夜鳴。
白日曜紫微,
三公運權衡。
天地皆得一,
澹然四海清。
借問此何為,
答言楚徵兵。
渡瀘及五月,
將赴雲南征。
怯卒非戰士,
炎方難遠行。
長號別嚴親,
日月慘光晶。
泣盡繼以血,
心摧兩無聲。
困獸當猛虎,
窮魚餌奔鯨。
千去不一回,
投軀豈全生。
如何舞幹戚,
一使有苗平。

Cổ phong kỳ 34
Vũ hịch như lưu tinh,
Hổ phù hợp chuyên thành.
Huyên hô cứu biên cấp,
Quần điểu giai dạ minh.
Bạch nhật diệu tử vi,
Tam công vận quyền hành.
Thiên địa giai đắc nhất,
Đạm nhiên tứ hải thanh.
Tá vấn thử hà vị,
Đáp ngôn Sở trưng binh.
Độ Lô cập ngũ nguyệt,
Tương phó Vân Nam chinh.
Khiếp tốt phi chiến sĩ,
Viêm phương nan viễn hành.
Trường hiệu biệt nghiêm thân,
Nhật nguyệt thảm quang tinh.
Khấp tận kế dĩ huyết,
Tâm tồi lưỡng vô thanh.
Khốn thú đương mãnh hổ,
Cùng ngư nhị bôn kình.
Thiên khứ bất nhất hồi,
Đầu khu khởi toàn sinh.
Như hà vũ cán thích,
Nhất sử Hữu Miêu bình.

古風其三十九
登高望四海,
天地何漫漫!
霜被群物秋,
風飄大荒寒。
榮華東流水,
萬事皆波瀾。
白日掩徂輝,
浮雲無定端。
梧桐巢燕雀,
樴棘栖鵷鸞。
且復歸去來,
劍歌行路難。

Cổ phong kỳ 39
Đăng cao vọng tứ hải
Thiên địa hà man man
Sương bị vật quần thu
Phong phiêu đại hoang hàn
Vinh hoa đông lưu thuỷ
Vạn sự giai ba lan
Bạch nhật yểm tồ huy
Phù vân vô định đoan.
Ngô đồng sào yến tước
Chỉ cức thê uyên loan
Thả phục qui khứ lai
Kiếm ca hành lộ nan.

(Năm 744)

古風其四十七
桃花開東園,
含笑誇白日。
偶蒙東風榮,
生此豔陽質。
豈無佳人色,
但恐花不實。
宛轉龍火飛,
零落早相失。
詎知南山松,
獨立自蕭飋。

Cổ phong kỳ 47
Đào hoa khai đông viên,
Hàm tiếu khoa bạch nhật.
Ngẫu mông đông phong vinh,
Sinh thử diễm dương chất.
Khởi vô giai nhân sắc,
Đãn khủng hoa bất thực.
Uyển chuyển long hoả phi,
Linh lạc tảo tương thất.
Cự tri nam sơn tùng,
Độc lập tự tiêu sắt.

Dịch nghĩa
Hoa đào nở ở vườn phía đông,
Mỉm cưởi khoe nụ vừa hé trong ánh nắng.
May nhờ được gió xuân,
Nên có sắc đẹp kiều diễm.
Tuy không phải nhan sắc của người đẹp,
Cũng e hoa không sống lâu dài.
Uốn éo bay như rồng lửa,
Tất cả đã sớm theo nhau rơi rụng.
Há không biết có cây thông ở núi nam kia,
Đứng một mình cam chịu cô đơn giá rét.

古意
君為女蘿草,
妾作菟絲花。
輕條不自行,
為逐春風斜。
百丈託遠松,
纏綿成一家。
誰言會面易,
各在青山崖。
女蘿發馨香,
菟絲斷人腸。
枝枝相糾結,
葉葉競飄揚。
生子不知根,
因誰共芬芳。
中巢雙翡翠,
上宿紫鴛鴦。
若識二草心,
海潮易可量。

Cổ ý
Quân vi nữ la thảo,
Thiếp tác thố ti hoa.
Khinh điều bất tự hành,
Vị trục xuân phong tà.
Bách trượng thác viễn tùng,
Triền miên thành nhất gia.
Thuỳ ngôn hội diện dị,
Các tại thanh sơn nha (nhai).
Nữ la phát hinh hương,
Thố ty đoạn nhân trường.
Chi chi tương củ kết,
Diệp diệp cánh phiêu dương.
Sinh tử bất tri căn,
Nhân thuỳ cộng phân phương.
Trung sào song phỉ thuý,
Thượng túc tử uyên ương.
Nhược thức nhị thảo tâm,
Hải triều diệc khả lường.

Dịch nghĩa
Chàng là loài cỏ nữ la
Thiếp là loài hoa thố ti
Cành nhỏ nhắn không thể tự đi
Nghiêng ngả theo gió xuân
Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi
Lâu ngày thành chung một nhà
Ai bảo gặp nhau đã dễ
Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh
Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát
Hoa thố ti làm người ta đứt ruột
Cành cành kết lại với nhau chằng chịt
Lá lá phất phơ theo gió
Sinh con chẳng biết đến rễ
Nhờ ai mà cùng thơm
Bên trong là tổ phỉ thuý
Bên trên đôi uyên ương đậu
Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy
Thì có thể đo được nước triều ở biển.

(Năm 762)

宮中行樂其一
小小生金屋,
盈盈在紫微。
山花插寶髻,
石竹繡羅衣。
每出深宮里,
常隨步輦歸。
只愁歌舞散,
化作彩雲飛。

Cung trung hành lạc kỳ 1
Tiểu tiểu sinh kim ốc,
Doanh doanh tại Tử Vi.
Sơn hoa sáp bảo kết,
Thạch trúc tú la y.
Mỗi xuất thâm cung lý,
Thường tuỳ bộ liễn quy.
Chỉ sầu ca vũ tán,
Hoá tác thái vân phi.

Dịch nghĩa
Nho nhỏ sống ở trong nhà vàng,
Nhởn nhơ vui đùa trong cung vua.
Hoa núi cài lên búi tóc,
Trúc đá thêu trên áo lụa.
Mỗi khi ra khỏi cung cấm,
Thường đi bộ về cùng với xe vua.
Chỉ buồn rằng khi ca múa hết,
Lại hoá thành mây sớm bay đi.

(Năm 743)

Tương truyền Đường Huyền Tông nhân vui đùa trong cung, sai Lý Bạch chế ca từ. Lý Bạch khi đó đang say, xin Huyền Tông không câu nệ chuyện huý kị. Sau khi được chấp thuận, Lý Bạch viết một mạch 10 bài “Cung trung hành lạc” nói về những thú vui ở trong cung, nay chỉ còn lại 8 bài, được chép trong “Nhạc phủ thi tập”.

宮中行樂其二
柳色黃金嫩,
梨花白雪香。
玉樓巢翡翠,
金殿鎖鴛鴦。
選妓隨雕輦,
徵歌出洞房。
宮中誰第一,
飛燕在昭陽。

Cung trung hành lạc kỳ 2
Liễu sắc hoàng kim nộn,
Lê hoa bạch tuyết hương.
Ngọc lâu sào phí thuý,
Kim điện toả uyên ương.
Tuyển kỹ tuỳ điệu liễn,
Trưng ca xuất động phòng.
Cung trung thuỳ đệ nhất?
Phi Yến tại Chiêu Dương.

Dịch nghĩa
Sắc liễu nõn nà như vàng ròng
Hoa lê trắng như tuyết ngát hương thơm
Chim bói cá làm tổ trên lầu ngọc
Điện vàng khoá kín chim uyên ương
Lựa kỹ nữ đi theo xe chạm trổ
Lấy ca nhi ra khỏi phòng riêng
Ai là người đẹp nhất trong cung?
Chính là nàng Phi Yến ở cung Chiêu Dương

(Năm 743)

宮中行樂其三
盧橘為秦樹,
蒲萄出漢宮。
煙花宜落日,
絲管醉春風。
笛奏龍吟水,
蕭鳴鳳下空。
君王多樂事,
還與萬方同。

Cung trung hành lạc kỳ 3
Lô quất vi Tần thụ,
Bồ đào xuất Hán cung.
Yên hoa nghi lạc nhật,
Ty quản tuý xuân phong.
Địch tấu long ngâm thuỷ,
Tiêu minh phụng hạ không.
Quân vương đa lạc sự,
Hoàn dữ vạn phương đồng.

Dịch nghĩa
Lô quất kết quả trên cây điện Tần,
Rượu bồ đào bày tiệc cung nhà Hán.
Khói hoa trong buổi chiều tà,
Đàn ca say ngọn gió xuân.
Tiếng sáo thổi như rồng ngâm nga trong nước,
Tiếng tiêu ngân như phượng hót trên tầng không.
Quân vương có nhiều thú vui,
Mà vẫn cùng với nhân dân vui hoà.

(Năm 743)

宮中行樂其四
玉樹春歸日,
金宮樂事多。
後庭朝未入,
輕輦夜相過。
笑出花間語,
嬌來竹下歌。
莫教明月去,
留著醉嫦蛾。

Cung trung hành lạc kỳ 4
Ngọc thụ xuân quy nhật,
Kim cung lạc sự đa.
Hậu đình triêu vị nhập,
Khinh liễn dạ tương qua.
Tiếu xuất hoa gian ngữ,
Kiều lai trúc hạ ca.
Mạc giao minh nguyệt khứ,
Lưu trước tuý Thường Nga.

Dịch nghĩa
Trên cây ngọc xuân đã về,
Trong cung vàng nhiều tiệc vui.
Tại sân sau, ánh sáng sớm chưa vào tới,
Trên xe vua, đêm đang trôi qua.
Tiếng cười nói vọng ra từ trong khóm hoa,
Dáng tha thướt hát dưới bụi trúc.
Đừng để cho trăng sáng đi mất,
Hãy giữ lại nàng Hằng Nga đang say.

(Năm 743)

宮中行樂其五
繡戶春風暖,
紗窗曙色新。
宮花爭笑日,
池草暗生春。
綠樹聞歌鳥,
青樓見舞人。
昭陽桃李月,
羅綺自相親。

Cung trung hành lạc kỳ 5
Tú hộ xuân phong noãn,
Sa song thự sắc tân.
Cung hoa tranh tiếu nhật,
Trì thảo ám sinh xuân.
Lục thụ văn ca điểu,
Thanh lâu kiến vũ nhân.
Chiêu Dương đào lý nguyệt,
La ỷ tự tương thân.

Dịch nghĩa
Gió xuân ấm áp thoảng bên cửa có rèm thêu
Bình minh chiếu trên màn lụa che cửa sổ
Hoa trong cung đua cười dưới nắng
Cỏ bên bờ ao âm thầm biểu hiện mùa xuân
Có tiếng chim hót trên cây xanh
Còn trên lầu xanh thấp thoáng bóng dáng vũ công
Cung Chiêu Dương đầy trăng, đào, mận…
Tự chung đụng trong lụa là

(Năm 743)

宮中行樂其六
今日明光裏,
還須結伴遊。
春風開紫殿,
天樂下朱樓。
艷舞全知巧,
嬌歌半欲羞。
更憐花月夜,
宮女笑藏鉤。

Cung trung hành lạc kỳ 6
Kim nhật minh quang lý,
Hoàn tu kết bạn du.
Xuân phong khai tử điện,
Thiên nhạc hạ chu lâu.
Diễm vũ toàn tri xảo,
Kiều ca bán dục tu.
Cánh liên hoa nguyệt dạ,
Cung nữ tiếu tàng câu.

Dịch nghĩa
Hôm nay dưới ánh trăng sáng,
Còn đợi gì hãy kết bạn cùng vui.
Ngọn gió xuân mở cửa điện tía,
Nhạc trời xuống nơi lầu đỏ.
Điệu múa tha thướt, ai cũng khéo léo,
Người đẹp hát, nửa dường như xấu hổ.
Càng tiếc cho đêm trăng vui vầy,
Cung nữ cười chơi trò giấu móc câu.

(Năm 743)

宮中行樂其七
寒雪梅中盡,
春風柳上歸。
宮鶯嬌欲醉,
簷燕語還飛。
遲日明歌席,
新花艷舞衣。
晚來移綵杖,
行樂泥光輝。

Cung trung hành lạc kỳ 7
Hàn tuyết mai trung tận,
Xuân phong liễu thượng quy.
Cung oanh kiều dục tuý,
Thiềm yến ngữ hoàn phi.
Trì nhật minh ca tịch,
Tân hoa diễm vũ y.
Vãn lai di thái trượng,
Hành lạc nê quang huy.

Dịch nghĩa
Tuyết lạnh không còn đọng trên cây mai nữa
Gió xuân đã như trở về trên ngọn liễu
Chim oanh trong cung đẹp đến say đắm lòng người
Chim yến vừa bay vừa hót líu lo ngoài thềm
Nắng chiều vương trên bữa tiệc có ca múa
Hoa mới nở cài vào làm thêm đẹp áo vũ công
Xẩm tối dẹp bỏ các nghi trượng lộng lẫy
Vui chơi thoả thích dưới ánh sáng đèn đuốc

(Năm 743)

宮中行樂其八
水綠南薰殿,
花紅北闕樓。
鶯歌聞太液,
鳳吹繞瀛洲。
素女鳴珠佩,
天人弄彩球。
今朝風日好,
宜入未央遊。

Cung trung hành lạc kỳ 8
Thuỷ lục nam huân điện,
Hoa hồng bắc khuyết lâu.
Oanh ca văn Thái dịch,
Phụng xuý nhiễu Doanh châu.
Tố nữ minh châu bội,
Thiên nhân lộng thái cầu.
Kim triêu phong nhật hảo,
Nghi nhập Vị Ương du.

Dịch nghĩa
Nước biếc ở điện phía nam,
Hoa hồng tại cửa lầu bắc.
Tiếng oanh ca ở Thái Dịch cũng nghe thấy,
Phượng hót nhiễu loạn cả Doanh Châu.
Mỹ nữ rung rinh tiếng ngọc bội,
Người trời (chỉ những người thanh tao) đùa giỡn với những quả cầu rực rỡ.
Gió sớm nay mát lành,
Vào cung Vị Ương chơi.

(Năm 743)

久別離
別來幾春未還家,
玉窗五見櫻桃花。
況有錦字書,
開緘使人嗟。
至此腸斷彼心絕,
雲鬟綠鬢罷梳結,
愁如回飆亂白雪。
去年寄書報陽臺,
今年寄書重相催。
東風兮東風,
爲我吹行雲使西來,
待來竟不來,
落花寂寂委蒼苔。

Cửu biệt ly
Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
Huống hữu cẩm tự thư,
Khai giam sử nhân ta.
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt,
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết.
Khứ niên ký thư báo Dương Đài,
Kim niên ký thư trùng tương thôi.
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai!
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài.

Dịch nghĩa
Từ chàng ra đi đã mấy xuân không về,
Trước cửa ngọc đã năm lần thấy hoa anh đào nở.
Huống lại có thư chữ gấm,
Mở ra khiến lòng đau xót.
Tới nay ruột đứt, lòng như cắt lìa,
Tóc mây quên bện, tóc mai biếng tết,
Buồn như cơn gió thổi tung tuyết trắng.
Năm trước đã gửi thư nhắn chốn Dương Đài,
Năm nay lại gửi thư giục giã.
Gió đông chừ gió đông!
Hãy vì ta thổi mây bay về tây,
Đợi hoài mà vẫn chưa thấy người về,
Hoa rơi lặng lẽ phủ rêu xanh.

九月十日即事
昨日登高罷,
今朝更舉觴。
菊花何太苦,
遭此兩重陽。

Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi,
Kim triêu cánh cử thương.
Cúc hoa hà thái khổ,
Tao thử lưỡng trùng dương.

Dịch nghĩa
Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương.

Ngày 9 tháng 9 là lễ hội Trùng Dương bên Trung Hoa. Trong ngày này, mọi người giắt lá cây thù du trong mình, lên cao, uống rượu cúc với nhau. Họ cho rằng làm như thế để được may mắn. Ngày hôm sau, tức 10 tháng 9, vẫn có nơi còn làm như thế. Tác giả làm bài này tỏ ý mình.

九日龍山飲
九日龍山飲,
黃花笑逐臣。
醉看風落帽,
舞愛月留人。

Cửu nhật Long sơn ẩm
Cửu nhật Long sơn ẩm,
Hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khan phong lạc mạo,
Vũ ái nguyệt lưu nhân.

Dịch nghĩa
Ngày trùng cửu uống rượu trên núi Rồng,
Hoa vàng cười với kẻ bị ruồng bỏ.
Say nhìn gió thổi rơi nón,
Múa may dưới ánh trăng mời mọc.

(Năm 761)

夜泊牛渚懷古
牛渚西江夜,
青天無片雲。
登舟望秋月,
空憶謝將軍。
余亦能高詠,
斯人不可聞。
明朝挂帆席,
楓葉落紛紛。

Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ
Ngưu Chử tây giang dạ,
Thanh thiên vô phiến vân.
Đăng chu vọng thu nguyệt,
Không ức Tạ tướng quân.
Dư diệc năng cao vịnh,
Tư nhân bất khả văn.
Minh triều quải phàm khứ,
Phong diệp lạc phân phân.

Dịch nghĩa
Đêm ở Ngưu Chử, mé tây sông Trường Giang
Thời xanh không một áng mây
Lên thuyền ngắm trăng thu
Không tưởng đến Tạ tướng quân
Tôi cũng hay cao giọng ngâm thơ
Mà (chờ) không biết có người nào nghe được không
Sáng mai buồm kéo lên lại đi
Lá phong rơi rụng lả tả

(Năm 739)

夜下征虜亭
船下廣陵去,
月明征虜亭。
山花如繡頰,
江火似流螢。

Dạ há Chinh Lỗ đình
Thuyền há Quảng Lăng khứ,
Nguyệt minh Chinh Lỗ đình.
Sơn hoa như tú giáp,
Giang hoả tự lưu huỳnh.

Dịch nghĩa
Thuyền xuôi xuống Quảng Lăng,
Trăng sáng chiếu trên đình Chinh Lỗ.
Hoa rừng như những đôi má đủ màu sắc,
Lửa chài trên sông như những con đom đóm đang di chuyển.

Chinh Lỗ đình là ngôi đình trên đảo Thạch Đầu ở Quảng Lăng, do Chinh Lỗ tướng quân dựng nên, trong đó trưng rất nhiều tranh vẽ sơn hà cẩm tú để biểu hiện lòng yêu nước của ông.

夜宿山寺
危樓高百尺,
手可摘星辰。
不敢高聲語,
恐驚天上人。

Dạ túc sơn tự
Nguy lâu cao bách xích,
Thủ khả trích tinh thần.
Bất cảm cao thanh ngữ,
Khủng kinh thiên thượng nhân.

Dịch nghĩa
Lầu cao vòi vọi trăm thước,
Tay có thể hái được trăng sao tinh tú.
Không dám nói lớn tiếng,
Sợ làm kinh động đến người trên trời.

游泰山其一
四月上泰山,
石平禦道開。
六龍過萬壑,
澗穀隨縈回。
馬跡繞碧峰,
於今滿青苔。
飛流灑絕巘,
水急松聲哀。
北眺崿嶂奇,
傾崖曏東摧。
洞門閉石扇,
地底興雲雷。
登高望蓬瀛,
想象金銀台。
天門一長嘯,
萬里清風來。
玉女四五人,
飄搖下九垓。
含笑引素手,
遺我流霞杯。
稽首再拜之,
自愧非仙才。
曠然小宇宙,
棄世何悠哉!

Du Thái sơn kỳ 1
Tứ nguyệt thướng Thái sơn,
Thạch bình ngự đạo khai.
Lục long quá vạn hác,
Giản cốc tuỳ oanh hồi.
Mã tích nhiễu bích phong,
Ư kim mãn thanh đài.
Phi lưu sái tuyệt nghiễn,
Thuỷ cấp tùng thanh ai.
Bắc diểu ngạc chướng kỳ,
Khuynh nhai hướng đông tồi.
Động môn bế thạch phiến,
Địa để hung vân lôi.
Đăng cao vọng Bồng Doanh,
Tưởng tượng kim ngân đài.
Thiên môn nhất trường khiếu,
Vạn lý thanh phong lai.
Ngọc nữ tứ ngũ nhân,
Phiêu diêu há cửu giai.
Hàm tiếu dẫn tố thủ,
Di ngã lưu hà bôi.
Khể thủ tái bái chi,
Tự quý phi tiên tài.
Khoáng nhiên tiểu vũ trụ,
Khí thế hà du tai!

Dịch nghĩa
Tháng tư lên núi Thái chơi,
Đường vua đi lên được làm bằng phẳng trên sườn núi đá.
Đoàn xa giá sáu chiếc đi qua hàng vạn hang hốc,
Khe suối rồi vòng trở lại.
Vết vó ngựa để lại trên núi biếc,
Đến nay còn rõ trên rêu xanh.
Nước suối từ đỉnh cao chót vót chảy như bay xuống,
Dòng chảy gấp, tiếng thông reo ai oán.
Mạn bắc nhiều núi có hình dáng kỳ lạ,
Sườn núi phía đông nghiêng nhiều nên có sụt lở.
Phiến đá hình quạt che cửa động,
Phía dưới đất bằng có mây và sấm động.
Lên cao nhìn về phương trời có cõi Bồng Lai và Doanh Châu,
Tưởng tượng như đã đến Đài kim ngân.
Hô một tiếng dài ở cổng trời,
lập tức có gió mát từ vạn dặm thổi tới.
Bốn năm tiên nữ,
Khoan thai bước xuống thềm chín bậc.
Cười mỉm đưa cánh tay trắng nõn,
Trao cho ta chén rượu lưu hà.
Ta rập đầu bái tạ,
Tự hổ thẹn tu chưa thành tiên.
Ở nơi vũ trụ thu nhỏ bao la này,
Đã bỏ hết sự đời ôi còn lo lắng nỗi gì.

遊泰山其三
平明登日觀,
舉手開雲關。
精神四飛揚,
如出天地間。
黃河從西來,
窈窕入遠山。
憑崖覽八極,
目盡長空閒。
偶然值青童,
綠髮雙雲鬟。
笑我晚學仙,
蹉跎凋朱顏。
躊躇忽不見,
浩蕩難追攀。

Du Thái sơn kỳ 3
Bình minh đăng Nhật Quan,
Cử thủ khai vân quan.
Tinh thần tứ phi dương,
Như xuất thiên địa gian.
Hoàng hà tòng tây lai,
Yểu điệu nhập viễn san.
Bằng nhai lãm bát cực,
Mục tận trường không nhàn.
Ngẫu nhiên trị thanh đồng,
Lục phát song vân hoàn.
Tiếu ngã vãn học tiên,
Sa đà điêu chu nhan.
Trù trừ hốt bất kiến,
Hạo đãng nan truy phan.

Dịch nghĩa
Buổi sáng leo lên ngọn Nhật Quan,
Thấy như đưa tay mở cửa mây.
Tinh thần bay đi khắp bốn hướng,
Như đã ra khỏi cõi trần gian.
Thấy Hoàng Hà từ phía tây chảy tới,
Khoan thai nhập vào dãy núi xa xa.
Dựa vào vách đá ngắm tám phía,
An nhàn giương to mắt nhìn không gian rộng lớn.
Tình cờ thấy có tiên đồng đi tới,
Hai bím tóc xanh như mây.
Chê cười ta học tiên trễ quá,
Lần lữa hoài nên mặt hồng tàn phai rồi.
Đang trù trừ chưa nói gì thì bỗng không thấy gì nữa,
Trong cõi bao la này khó mà theo đuổi.

Thái sơn là một trong năm ngọn nổi tiếng của dãy núi Thái Hàng nay trong địa phận ba tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Thái sơn nằm phía đông, phía tây là Hoa sơn, nam là Hành sơn, bắc là Hằng sơn và Tung sơn ở giữa.

與元丹丘方城寺談玄作
茫茫大夢中,
惟我獨先覺。
騰轉風火來,
假合作容貌。
滅除昏疑盡,
領略入精要。
澄慮觀此身,
因得通寂照。
郎悟前後際,
始知金仙妙。
幸逢禪居人,
酌玉坐相召。
彼我俱若喪,
雲山豈殊調。
清風生虛空,
明月見談笑。
怡然青蓮宮,
永願恣遊眺。

Dữ Nguyên Đan Khâu Phương Thành tự đàm huyền tác
Mang mang đại mộng trung,
Duy ngã độc tiên giác.
Đằng chuyển phong hoả lai,
Giả hợp tác dung mạo.
Diệt trừ hôn nghi tận,
Lĩnh lược nhập tinh yếu.
Trừng lự quan thử thân,
Nhân đắc thông tịch chiếu.
Lang ngộ tiền hậu tế,
Thuỷ tri kim tiên diệu.
Hạnh phùng thiền cư nhân,
Chước ngọc toạ tương triệu.
Bỉ ngã câu nhược tang,
Vân sơn khởi thù điệu.
Thanh phong sinh hư không,
Minh nguyệt kiến đàm tiếu.
Di nhiên thanh liên cung,
Vĩnh nguyện tứ du thiếu.

與史郎中欽聽黃鶴樓上吹笛
一為遷客去長沙,
西望長安不見家。
黃鶴樓中吹玉笛,
江城五月落梅花。

Dữ Sử lang trung khâm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa,
Tây vọng Trường An bất kiến gia.
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,
Giang Thành ngũ nguyệt “Lạc mai hoa”.

Dịch nghĩa
Một lần làm khách đi đày đến Trường Sa
Nhìn về phía tây thành Trường An chẳng thấy nhà
Trong lầu Hoàng Hạc nghe tiếng sáo ngọc
Thành Giang Hạ tháng năm nghe khúc “Lạc mai hoa”.

(Năm 759)

Dương bạn nhi 楊叛兒 • Dương bạn nhi

楊叛兒
君歌楊叛兒,
妾勸新豐酒。
何許最關人,
烏啼白門柳。
烏啼隱楊花,
君醉留妾家。
博山爐中沉香火,
雙煙一氣淩紫霞。

Dương bạn nhi
Quân ca “Dương bạn nhi”,
Thiếp khuyến Tần Phong tửu.
Hà hứa tối quan nhân,
Ðiểu đề Bạch môn liễu.
Ðiểu đề Ẩn Dương hoa,
Quân tuý lưu thiếp gia.
Bác Sơn lư trung trầm hương hoả,
Song yên nhất khí lăng tử hà.

Dịch nghĩa
Chàng hát bài “Dương bạn nhi”
Thiếp mời rượu Tần Phong
Hai người thật thắm thiết
Chim hót trong liễu cửa Bạch
Chim hót trong hoa ở Ẩn Dương
Chàng say lưu lại nhà thiếp
Trong lò Bác Sơn, lửa trầm hương
Hai làn khói chung một khí bay lên vượt qua ráng tía.

(Năm 725)

“Dương bạn nhi” nguyên là một bài đồng dao thời Bắc Tề, sau trở thành một đề tài trong nhạc phủ. Bài thơ này của Lý Bạch với bài đồng dao “Dương bạn nhi” không liên quan, nhưng lại liên quan mật thiết với “Dương bạn nhi” trong nhạc phủ.

代贈遠
妾本洛陽人,
狂夫幽燕客。
渴飲易水波,
由來多感激。
胡馬西北馳,
香鬃搖綠絲。
鳴鞭從此去,
逐虜蕩邊陲。
昔去有好言,
不言久離別。
燕支多美女,
走馬輕風雪。
見此不記人,
恩情雲雨絕。
啼流玉箸盡,
坐恨金閨切。
織錦作短書,
腸隨回文結。
相思欲有寄,
恐君不見察。
焚之揚其灰,
手跡自此滅。

Đại tặng viễn
Thiếp bản Lạc Dương nhân,
Cuồng phu U Yên khách.
Khát ẩm Dịch thuỷ ba,
Do lai đa cảm kích.
Hồ mã tây bắc trì,
Hương tung dao lục ti.
Minh tiên tòng thử khứ,
Trục Lỗ đãng biên thuỳ.
Tích khứ hữu hảo ngôn,
Bất ngôn cửu ly biệt.
Yên Chi đa mỹ nữ,
Tẩu mã khinh phong tuyết.
Kiến thử bất ký nhân,
Ân tình vân vũ tuyệt.
Đề lưu ngọc trợ tận,
Toạ hận kim khuê thiết.
Chức cẩm tác đoản thư,
Trường tuỳ hồi văn kết.
Tương tư dục hữu ký,
Khủng quân bất kiến sát.
Phần chi dương kỳ khôi,
Thủ tích tự thử diệt.

搗衣篇
閨里佳人年十余,
顰蛾對影恨離居。
忽逢江上春歸燕,
銜得雲中尺素書。
玉手開緘長嘆息,
狂夫猶戍交河北。
萬里交河水北流,
愿為雙燕泛中洲。
君邊雲擁青絲騎,
妾處苔生紅粉樓。
樓上春風日將歇,
誰能攬鏡看愁發。
曉吹員管隨落花,
夜搗戎衣向明月。
明月高高刻漏長,
真珠帘箔掩蘭堂。
橫垂寶幄同心結,
半拂瓊筵蘇合香。
瓊筵寶幄連枝錦,
燈燭熒熒照孤寢。
有便憑將金剪刀,
為君留下相思枕。
摘盡庭蘭不見君,
紅巾拭淚生氤氳。
明年若更征邊塞,
愿作陽臺一斷雲。

Đảo y thiên
Khuê lý giai nhân niên thập dư
Tần nga đối ảnh hận ly cư
Hốt phùng giang thượng xuân qui yến
Hàm đắc vân trung xích tố thư
Ngọc thủ khai giam trường thán tức:
Cuồng phu do thú Giao Hà bắc!
Vạn lý Giao Hà thuỷ bắc lưu
Nguyện vi song điểu phiếm trung châu
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết
Thuỳ năng lãm kính khan sầu phát?
Hiểu xuy huân quản tuỳ lạc hoa
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thuỳ bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương
Quỳnh diên, bảo ác liên chi cẩm
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao
Vị quân lưu hạ tương tư chẩm
Trích tận đình lan bất kiến quân
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân
Minh niên nhược cánh chinh biên tái
Nguyện tác Dương Đài nhất đoạn vân.

Dịch nghĩa
Người đẹp ở phòng khuê đã hơn mười năm
Đổi bóng chau mày giận phải sống một mình
Bỗng gặp én xuân bay về trên sông
Trong mây ngậm bức thư trên lụa trắng
Tay ngọc mở phong thư, miệng thở dài
Anh chồng cuồng còn đi thú ở phía bắc sông Giao
Muôn dặm sông Giao nước chảy về phương Bắc
Nguyện làm đôi chim, cùng bay quanh bãi giữa sông
Bên mình chàng, mây bao phủ, ngựa rủ tơ xanh
Nơi thiếp ở, rêu mọc trên lầu son phấn
Gió xuân thổi trên lầu, ngày đà sắp hết
Ai lòng nào cầm gương, nhìn mái tóc sầu thương
Sớm thổi sáo trúc theo cánh hoa rơi
Đê, giặt áo binh nhung, ngẩng nhìn trăng sáng
Trăng sáng cao vời, giọt đồng hồ kéo dài
Bức rèm trân châu rủ che kín nhà lan
Rủ ngang màn báu kết giải đồng tâm
Pháng phất trên nửa chiếu quỳnh ngát hương tô hợp
Chiếu ngọc màn báu gấm thêu đôi cánh liền nhau
Đèn nến sáng ngời chiếu chỗ nằm trơ trọi
Nếu có người nhắn tin, thiếp sẽ lấy kéo vàng
Vì chàng may để lại chiếc gối tương tư
Hái hết hoa lan trong sân mà chưa thấy chàng
Khăn hồng lau lệ những hoa mờ đôi mắt
Năm sau nếu chàng vẫn lại đi nơi biên tái
Thiếp nguyện làm một đoá mây trôi ở trốn Dương Đài.

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ giá trị của nhà thơ Lý Bạch. Với ngòi bút tinh tế và đặc sắc những thi phẩm của ông luôn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc. Cảm ơn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi nhé! 

Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 2

Nhà thơ Tản Đà được đánh giá là viên gạch nối giữa hai thế kỷ. Bởi ở ông có những tứ thơ lãng mạn, những ý tưởng ngông nghênh. Và cũng có thể nói rằng ông chính là người đã chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam. Chính bởi vậy ông đã có rất nhiều tác phẩm được đánh giá cao. Dưới đây chúng tôi sẽ gợi ý cho bạn các bài thơ hay nhất của nhà thơ Tản Đà. Hãy cùng phongnguyet.info khám phá ngay nhé!

Nội Dung

Trong trần thế cảnh nghèo là khổ
Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày
Quanh năm gạo chịu tiền vay
Vợ chồng lo tính hôm rày, hôm mai

Áo lành rách vá may đắp điếm
Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
Tạm yên, đủ ấm, vừa no
Cái buồn khôn xiết, cái lo khôn cùng

Con đi học, con bồng, con dắt
Lớn chưa khôn, lắt nhắt thơ ngây
Hôm hôm lớn bé sum vầy
Cũng nên vui vẻ mà khuây nỗi buồn

Nghĩ thiên hạ cho con đi học
Cảnh phong lưu phú túc nói chi
Những ai bần bạc hàn vi
Lo buồn đã vậy, vui thì cũng vui

Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn

Cơm dưa muối khó khăn mới có
Của không ngon, nhà khó cũng ngon
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà

Ăn rồi học, tối qua lại sáng
Ít tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi
Chiều chiều, tối tối, mai mai
Miễn sao no được, việc đời quản chi

Con nhà khó nhiều khi vất vả
Ngoài học đường thư thả được đâu
Khi thời quẩy nước tưới rau
Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già

Việc giấy bút vẫn là đi học
Cảnh gia đình khó nhọc nhường ai
Ví chăng có chí, có tài
Khi nên trời cũng cho người làm nên

Khắp xã hội nghèo hèn ai đó
Mẹ thương con thời cố công nuôi
Những con nhà khó kia ơi
Có thương cha mẹ thời vui học hành

Cũng chẳng kể thành danh lúc khác
Trời đã cho bước bước càng hay
Nghèo mà học được như nay
Vinh hoa chưa dễ sánh tày cái vui

Trong trần thế nhiều nơi phú quí
Nỗi buồn riêng ai ví như ai
Bày ra cái cảnh có trời
Vui buồn cũng ở tự người thế gian

Có tôn có tổ, có tổ có tôn; tôn tổ, tổ tôn, tôn tổ cũ;
Còn nước, còn non, còn non, còn nước; nước non, non nước, nước non nhà.
Câu đối phúng ông Lý Phèo
Cuộc trần ai cay đắng mặc ai ai, tưởng như khi cỗ nhớn mâm đầy, một miếng giữa làng danh phận thế;
Sự nhân thế tỉnh mơ là thế thế, này thôi lúc kèn đưa trống tiễn, ngã ba đường cái vợ con ai.

Lời người gánh ở bìa sau An Nam tạp chí)

Gánh nặng em ơi, đường trường
Cái thân anh bây giờ gánh nặng, em ơi, đường trường
Lòng anh như sắt mà cái tấm gan vàng em có thương nhau
Cái mặt giời tây, em ơi, gay gắt ở trên đầu
Dưới chân anh bóng xế, anh lại sầu cái nỗi cỏ may
Anh trông chung quanh, em ơi, thời những đá cùng cây
Non xanh nước biếc, suốt một ngày anh chẳng có gặp ai
Anh nhớ tới em, em ơi! giọt lệ anh vắn dài
Anh thương em tài sắc mà cái thân đời em chẳng có ra chi!
Bởi vì em mà anh phải ra đi
Trèo non rồi lặn suối, anh chẳng có quản gì cái tấm thân
Anh nghĩ cho đường xa, em ơi, đi mãi cũng gần
Có công anh mài sắt thời có lần nó cũng nên kim
Có thương nhau thời em quẩy gánh em đi tìm

Thân em tên gọi cây Đào
Đẹp tươi hoa thắm, ngọt ngào quả xanh
Lá non mơn mởn trên cành
Cành non yểu điệu như hình gái tơ
Từ khi em bé đến giờ
Bắt sâu vun gốc cũng nhờ tay ai
Em trông con gái những người
Khôn ngoan đã sẵn có giời phú cho
Thế mà nếu chẳng hay lo
Biết đâu rồi nữa chẳng thua cây đào

Em nghe lời chị, chị khuyên em
Chị nhủ đừng hay giở dậy đêm
Thân gái như mày đương nụ dại
Thế gian lắm kẻ muốn dòm xem
Phải cho ngoan mịn ra nền nếp
Rồi sẽ theo đòi với chỉ kim
Có nết có khôn thời có giá
Phong thu ai bảo bóng giăng thèm

Này con đường cũ chỗ này đây
Kìa khúc sông kia, đỉnh núi này
Cảnh vật còn nguyên sông với núi
Người như hơi lạ nước cùng mây
Núi cao sông rộng là quê quán
Nước chẩy mây bay mấy tháng ngày
Cảnh cũ người xưa thơ lại cũ
Đường đi vô hạn khách đông tây

Người ta sống đủ trăm năm thời có trăm lần xuân
Nhưng xuân thời xuân, nhưng người không xuân
Vì thế cho nên
Chị em ơi, người ta bảo rằng:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi”
Nhời nói ấy có ý nhị lắm
Tôi xin bầy tỏ như vầy
Này kìa những ai
Kẻ trên mạn ngược hay người về phía xuôi
Người trong cửa sang hay kẻ con nhà hèn
Kể từ ngày lọt tiếng khóc rơi ra
Bác mẹ bế ẵm nâng niu
Trải mấy lần nêu cao pháo nổ bánh trưng xanh
Mãi đến bây giờ mới vặn lẳn vành khăn
Mới thắt chặt giải yếm
Thế cũng xuân
Thế cũng chơi

Chơi thì chơi
Đã biết gì là xuân
Lại như lúc già
Mùi đời đã qua
Chồng con ăn ở là thế
Giá thấy có thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Thời cũng chỉ kính đánh tổ tôm
Chỉ cốt nhai trầu miếng
Thế cũng xuân
Thế cũng chơi
Chơi thì chơi
Còn biết gì là xuân
Thế thì, khi tóc đã dài
Má đã hây
Vú đã nhúm
Nhi đầu chưa bạc
Nhi răng chưa long
Đách ngọc đoi vàng
Con tạo hóa nuông người trang điểm riết
Mày ngài mắt phượng
Khách tài hoa lắm kẻ chết mê tơi
Ấy đương độ người xuân
Chính độ người xuân
Có xuân thời mới xuân
Chơi đi thôi!
Chị em ơi
Chờ chi mãi đó?
Ta chơi hoa
Ta chơi mây
Ta chơi giăng
Ta chơi gió
Chơi hoa nhị
Chơi giăng vòng
Chơi đào tơ
Chơi sen ngó
Chơi chốn này không hay, tìm chơi chốn nọ

Tam tứ núi cũng trèo
Thất bát giang cũng lội
Sông Đào tắm mát
Xứ Đoài cấy thuê
Ấy mới xuân mà ấy mới chơi!
Can chi phải nương bóng bà Nguyệt, víu mối ông Tơ, mà đồng ruộng chổng mông, phòng không gãi rốn dã tai!
Nếu ngày xuân mà em hãy còn dài, thời có thể không chơi lúc này ta chơi lúc khác
Đi về ong bướm
Mặc ai tường đông
Nhưng mà không!
Của đắt đỏ giời buôn có ít
Có bấy nhiêu chơi hết thời thôi
Để dành cũng chẳng được rồi
Có tiền em dễ em ngồi em mua
Buồn cho ai tiếc rẻ lúc qua mùa
Sướng thời sướng, sướng đương thời không lại có
Thảm cho kẻ chơi lầm chơi hớ
Nước ao tù đậm địa ố mầu tươi
Ngàn thu khôn dại mấy người
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
Xem như thế thời ghê làm sao! Sợ làm sao! Tiếc thương làm sao!
Đó kia những ai, có là giống người, bảo thời phải nghe
Mỗi năm một tuổi
Như đuổi xuân đi
Măng mọc có lứa
Đôi ta có thì
Chơi đi thôi!
Chơi mau đi thôi!
Cho trống thủng
Cho chiêng long
Cho cờ quấn ngược
Kẻo cái già xồng xộc nó thì theo sau

Được nghe tin Sống mới ra đời
Nam Bắc xa xôi gửi mấy lời
Lục Tỉnh ước sao co đất lại
Ba Vì chung để đội giời chơi
Ngàn năm hoa thảo mầu xuân mới
Nửa bức sơn hà nét mực tươi
Sống ở trên đời cho đáng sống
Xin đừng gượng gạo sống như ai

Rượu đào năm mới rót mừng xuân
Nhớ lụt năm xưa Sửu trước Dần
Bị gậy lang thang người thuỷ hạn
Thơ văn lận đận khách phong trần
Hiệu hàng phá sản bao nhiêu chủ
Ôn dịch hành hung một lũ thần
Cho hay vận xấu đà qua khỏi
Vận thái từ nay chúc quốc dân

I
Một đàn cò trắng nó bay tung
Nó lại thương em lật đật chồng
Mày có biết ai người phụ bạc
Thời lên mách hộ với thiên công

II
Một đàn cò trắng đến giời xanh
Nó mách cho ai dám phụ tình
Giời bảo trần gian hay dắc díu
Sai ông Nguyệt xuống dứt tơ mành

Trang Chu phải lúc nhà nghèo,
Đi sang một chỗ tước hầu xin vay.
Hầu rằng: “Hãy đợi ít ngày,
Có ba trăm lạng, ta đây giúp mình.”
Trang Chu nổi giận bất bình,
Nhân đem câu chuyện bất tình nói chơi.
Rằng: “Chu trong lúc đường dài,
Giữa đường như có tiếng ai gọi gì…
Nhìn trong vết bánh xe đi,
Có con cá riếc nó thì thở than.
Ân cân Chu mới hỏi han:
– Riếc ơi! Riếc hỡi! Nguồn cơn thế nào?
Riếc rằng: – Gặp lúc ba đào,
Xin ông gáo nước dội vào thân tôi.
Chu rằng: – Riếc hãy nghỉ ngơi,
Đợi ta Ngô, Việt đi chơi chuyến này.
Vua Ngô ta bảo cho hay,
Rồi ta té nước sông Tây đón mình.
Riếc nghe nổi giận bất bình:
– Cám ơn ông đã thật tình giúp cho.
Thân tôi gáo nước là to,
Nghe ông, thời rẫy cá khô ông tìm.”

(Điệu hát sẩm)

Con chim khôn đậu trái non Đoài
Tiếng kêu réo rắt gọi người bắc nam
Năm canh dài ngủ mãi còn tham!
Trời đông đã sáng đi làm kẻo trưa
Giấc mơ mòng ai tỉnh hay chưa?
Các cô con gái cũng say sưa cái nỗi gì?
Thôi xin đừng gương lược làm chi
Chồng thì chưa có, ruộng thì bỏ hoang
Hỡi ai con gái trong làng!

Của thiêng ai bán mà mua
Ai cho mà lấy, ai thừa mà xin
Ai về nhắn chị cùng em
Bảo nhau mài sắt nên kim có ngày
Muốn sao cho được như thầy
Đường xa nghĩ nỗi sau này mới ngoan
Chút thân lẽo đẽo theo đàn
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau!
Cõi đời đã lánh xa đâu
Mà cho ai nhớ, ai sầu, hỡi ai!
Tóc tơ vương vấn còn dài
Con tằm còn trả nợ đời chưa xong
Lửa hương còn chất bên lòng
Nho tàn còn vẫn trong vòng trăm năm
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau!
Suối vàng ai đã vội đâu
Mà cho ai tiếc, ai sầu, hỡi ai!
Bức dư đồ rách không bồi
Báo An Nam nghỉ biết đời nào ra
Hủ nho vô ích nước nhà
Rượu thơ còn vẫn la cà trăm năm
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau!
Hồn thơ đã mất đi đâu
Mà cho ai khóc, ai sầu, hỡi ai!
Dưới trên còn đất còn giời
Còn non còn nước, còn người nước non
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn
Còn ai thi sĩ, lại còn tri âm…
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau!

Sau khi thi đỗ không về, Đỗ thị đi lấy chồng khác, hoá ra như điên làm

Đỗ cũng không mà cưới cũng không
Còn đeo áo đoạn để ai trông?
Kìa mầu Thượng Hải xanh xanh lót
Này giá Sơn Tây mấy mấy đồng
Đang buổi khan tiền chơi cách thế
Có ai biết của giúp nhau cùng
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi
Bán áo mà mua giấy viết ngông

Đùa các ông lang đăng báo công kích nhau

Đâm nhau bút chiến cuộc chưa thôi
Đại chiến dao cầu lại đến nơi!
Phương thuốc hồi xuân chưa mấy lọ
Thầy lang lưu huyết sẽ bao người?
Nghệ An, Đặc Lập nào ai đó?
Nam Định, Thần Tiên biết có ai?
Nhắc các bà lang xa kiếm chốn
Kẻo mà sứt trán lại mang tai

Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem cái tài tình trêu ai
Hỏi ai trên phố Hàng Khoai
Có ai Hàng Lọng là người năm xưa
Biết bao gội gió dầm mưa
Bức dư đồ giữ bây giờ còn đây!
Bờ Hồ những lúc sương bay
Con tầu Nam Định những ngày hết than!
Khen cho vững dạ bền gan
Ngọc vàng chửa nát, giang san hãy còn
Thương cho ruột héo gan mòn
Lửa nung ngày hạ, sóng vờn đêm đông
Nợ đời còn trả chưa xong
Con tằm còn phải đau lòng vương tơ!
Khối tình ôm nặng từ xưa
Tuyết sương bao nả bây giờ đầu xanh
Đêm khuya ngồi nhận tàn canh
Bút hoa thảo bức thư tình gửi ai
Chúc cho tạp chí lâu dài
Báo An Nam sống cùng người An Nam!
Sông Đà non Tản nghìn năm!

Trong đời người sáu, bảy mươi năm, bao nhiêu cảnh thuận, bao nhiêu cảnh nghịch, bao nhiêu cái sướng, bao nhiêu cái buồn, bao nhiêu cái cười, bao nhiều cái khóc; nhưng ngồi mà nghĩ, chỉ như canh bạc chơi một đêm.

Ngồi vào bàn bạc mà chơi, ai không muốn được. Nhưng sao cho được chắc mà không thua. Thua rồi lại được, được rồi lại thua, đỏ đỏ đen đen, lên voi xuống chó. Trong năm canh hì hục, được hẳng vui, thua dễ bẳn, thường tình ai cũng như ai. Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được.

Người ta ở trong đời, khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên, xuống xuống, như cây thụt máy tầu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giầu; nhà gianh vách đất chưa là nghèo; võng, lọng, ngựa, xe chưa là vinh; xiềng, xích, gông, cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ như một ván tổ tôm: một cái búng quay, một tiếng sóc đĩa, làm cho ta đương mừng hoá lo, đương buồn hoá sướng, say mê chìm đắm, khóc hão, thương hoài. Cuộc đỏ đen còn ở lại với đời, thời ấm chè tàu, điếu thuốc lá, chén rượu cúc, bát cháo gà, không không thèm đòi, có cũng ăn chơi; trăm năm giũ áo chốn trần ai, còn gì mới là được.

Ông Khổng Tử khi trước, lúc đi câu, lúc đi bắn, lúc làm quan nhỏ, lúc làm quan to, lúc đi chơi lang thang, lúc ngồi nhà dạy học: tan cuộc 72 năm, còn được lại hai chữ thánh sư. Ông Nã Phá Luân lúc làm quan, lúc làm vua, lúc làm tướng, lúc trong tay 80 vạn quân lính, gầm hét châu Âu, lúc một mình giam lỏng chốn bãi bể; tan cuộc 52 năm, còn lại được một tiếng anh hùng.

Cũng có kẻ không to mà được bé, không nhiều mà được ít thời như ông Trương Tuần, ông Hứa Viễn, chữ song trung, ông Mẫu Tử chữ hiếu, ông Quý Bố chữ hoàng kim nặc, ông Tiếp Dư một chữ cuồng.

Còn như Vương Khải, Thạch Sùng, Lý Cầm, Lý Tiến, bạc năm canh tha hồ mở bát, vỗ túi về không. Át Trần, Mai Kiện, Tần Cối, Trương Hoằng Phạm, không những về không, để thêm tiếng cờ gian bạc lận. Nay cứ lấy lẽ thường mà nói, thời con người ta đã đem thân chơi cuộc đời, cũng nên liệu tính làm sao, lúc đứng dậy kiếm đôi ba chút. Có lẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phở?

Nay ai ơi! Thử trèo bức tường đổ, trông quãng đồng xa, mồ con mả lớn, chỗ năm chỗ ba, chẳng quan thời dân, chẳng trẻ thời già, trước cũng người cả, bây giờ đã ma! Nào tiền nào của, nào cửa nào nhà, nào con nào vợ, nào câu đối đỏ, nào mành mành hoa, nào đâu đâu cả? mà chỉ thấy sương mù nắng rãi với mưa sa! Cuộc nhân thế từ xưa mã thế, làng chơi ta phải biết, trăm năm không dại dễ du mà?!

Nhắn cho con nhạn về Hà:
Những ai chơi bến sông Đà hôm xưa,
Mây xuôi, rồng ngược hững hờ,
Đá ngơ ngẩn núi, nước lờ đờ sông.
Khó thay! hai chữ “tương phùng”,
Nản lòng ai đến, thiệt lòng ai đi.
Mong sao hội ngộ có kỳ,
Rượu ngon cất chén, ta thì cùng vui.
Bây giờ mây ngược, rồng xuôi,
Sông vơ vẩn khúc, non bùi ngùi cây.
Tưởng còn “anh Tú” đâu đây!…

Giang Nam riêng một cảnh Bồng Lai
Hồng tía muôn ngàn chẳng kém ai
Vẻ ngọc long lanh pha sắc nước
Nhị non ngào ngạt lộn hương giời
Ơn mong thánh chúa nguôi lòng giận
Tình nặng quân vương mỉm miệng cười
Nhắn hỏi chơi hoa ai kẻ biết
Sang giàu ai biết, biết mà chơi

(Cơ quan của hội Ái hữu Trung, Bắc kỳ nông công thương)

Tạp chí ra đời gọi “Hữu thanh”
Chim tìm tiếng bạn mượn đề danh
Dám đâu sườn núi kêu con phượng
Âu cũng trên cành học cái oanh
Nam Bắc hỡi ai đường tiến hoá
Đông Tây nào những sách văn minh!
Hai mươi nhăm triệu đồng thanh cả
Hữu ái mong ai một chút tình

(Tiếng gọi bạn Trung, Nam, Bắc)

Trung Nam Bắc, chị cùng em
Chị em trông đó con chim gọi đàn
Chim kia còn biết gọi đàn
Chút tình hữu ái chị bàn cùng em

Con chồng dì ghẻ truyện Châu Nhai,
Từ hiếu hai bên được cả hai.
Mươi hạt ngọc trai bao hạt lệ,
Mấy hàng lệ ngọc báu hơn trai.

Trên đây là những bài thơ hay nhất của Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn có thể hiểu thêm được phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như biết được tại sao ông lại được đánh giá cao như vậy. Và từ đó cũng hình thành được những nhận định và đánh giá chính xác về thời kỳ có sự giao thoa giữa văn học cổ điển và hiện đại. Cũng như đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay nhất bạn nhé!

Xem thêm: Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 3

Phan Khôi Cùng Những Bài Thơ Đi Cùng Năm Tháng

Phan Khôi là một nhà thơ mở đầu cho phong trào thơ mới. Ngoài là một nhà thơ ông còn là một nhà báo tài năng. Một người tích cực áp dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Ông nổi tiếng với tính cách chính trực được mệnh danh là ngự sử văn đàn. Những bài thơ của ông mang đậm tính triết lý và tố cáo sự cai trị tàn ác của bọn thực dân nên được rất nhiều bạn đọc yêu thích và tìm kiếm

Sau đây, xin mời các bạn cùng phongnguyet.info cảm nhận ngòi bút tài hoa của ông qua những bài thơ do ông sáng tác

Nội Dung

– Phan Khôi 潘魁 (1887-1959) hiệu Chương Dân, Tú Sơn, là học giả, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà lý luận và phê bình văn học, sinh tại Điện Bàn, Quảng Nam.

– Ông là cháu ngoại Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, học chữ Hán và đỗ tú tài năm 19 tuổi nhưng cổ vũ và mở đầu cho phong trào Thơ mới.

– Ông còn là một nhà báo tài năng, một người tích cực áp dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp.

– Ông cũng là một trong số ít nhà báo tiếp thu nhiều tư tưởng mới, đa văn hoá từ Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp… Ông còn nổi tiếng vì sự trực ngôn, trước 1945 được mang danh là Ngự sử văn đàn.

– Ông phê phán chính sách cai trị của người Pháp một cách sát sườn, đối thoại với các học giả từ Bắc đến Nam không e dè kiêng nể.

– Cuối năm 1954 hoà bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác.

– Trong thời gian 1956-1957, ông là một trong những người thành lập tờ Nhân văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, bị buộc phải ngừng sáng tác, được ít lâu thì ông qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

Phan Khôi là một nhà thơ lớn ở nước ta thời kì cận đại. Những bài thơ của ông đều phê phán khéo léo cách cai trị của bọn thực dân pháp. Lên án những điều còn tồn tại của giới lãnh đạo văn nghệ thời bấy giờ. Tuy sau này ông đã bị ngừng sáng tác nhưng những bài thơ ấy đã tạo nên một tiếng vang lớn trong làng thơ ca Việt Nam.

Hãy cùng nhau cảm nhận ý nghĩa sâu sắc của những bài thơ này nhé!

Con bé thở cá nằm trên giường,
Mắt sâu da bợt còn nhắm xương;
Mẹ nó dệt thuê nhà ông bá,
Cha nó đi làm xâu đắp đường.

Trời đâu dong ruổi cha nó về,
Nhìn con đau ruột khoanh tay ngồi tỉ tê:
“Con ôi! chết đau cũng còn có phương cứu,
Chết đói thôi thì cha phải chịu;
Làm ra chẳng đủ để nuôi con,
Thà cha cùng chết khỏi mang xấu!

Mẹ nó hôm nay chừng có gạo,
Đi về lật đật xổ bọc áo.
Thấy chồng mừng quíu thấy con thương.

Chạy ngay vô bếp nấu đĩa cháo,
“Hỡi con trống bụng đã ba ngày.
Hôm nay có gạo có cha đây;
Rán ăn với cha với mẹ một xỉ cháo.
Trước khi chết được no là may!”

Mẹ nó nói thì nói,
Nó chết là hết đói.
Đập tay một cái kêu “mẹ ơi!”
Trợn ngước mắt lên liền tắt hơi.

Mẹ nó vật mình xuống lăn lóc,
Túm lấy cha nó mà kêu khóc.
“Anh ơi anh khá để tôi ra,
Gẫm lại thân tôi quá cực nhọc.
Với anh mười năm ba đứa con.
Đứa nào cũng chết một kiếp như nhau luôn!
Tôi không có sức sanh đẻ nữa,
Thà cho tôi về tôi chịu son!”

Vừa ưa ông cố đến an ủi,
Biểu đừng khóc nữa cũng đừng tủi:
“Trẻ con chết hẳn lên thiên đàng,
Vì nó trong sạch chưa phạm tội”.

Kẻ làm thơ nầy vốn vô can,
Nghe ông cố nói cũng pha ngang:
Hỏi ông sao chẳng chết đói bằng tuổi nó
Để ông sớm được lên thiên đàng?

Đời loạn vua hèn quan giết dân,
Ông thần pháp luật đứng bằng chân.
Trời sinh thẻo sắt tuôn ra máu,
Đổ lại trên đầu lũ bất nhân.

Trăm tám người linh, một vẻ hào,
Nằm trên rượu thịt gối thương đau.
Xưa nay nổi việc phường này cả,
Tú sĩ Vương Luân có kẻ nào?

Khăn áo hương hoa lạy Võ Tòng.
Giết người như bác mới anh hùng;
Một đêm đi đứt mười lăm mạng,
Hàng máu trên tường nhỏ giọt hồng!

Võ nghệ tuy thường, lượng khác thường
Gần xa suy phục Hắc Tam Lang.
Cho hay trong cuộc phong vân đó,
Ai lượng hơn người, ấy chủ trương.

Nầy vũng Lương Sơn nay ở đâu?
Xa trông che khuất mấy ngàn lau!
Hát anh bài hát sau bia sách,
Cảm khái riêng ta với Á đầu…

Eo đất vắt rừng già ra nước,
Thành con sông xanh biếc dài ghê!
Khỉ ho cò gáy tứ bề,
Ta đem thân đến chốn này làm chi!
Nhớ từ trẻ gian nguy từng trải,
Bước giang hồ bước mãi chưa thôi.
Mảnh thân còn chọi với đời,
Hiểm nghèo là bạn, chơi vơi là nhà.
Cảnh hiu quạnh, có ta có chủ,
Bằng không ta chẳng phụ Hoá công.
Vẻ ra cái cảnh lạ lùng,
Làm cho cọp biển, cá đồng hay sao?
Xuồng ba lá đâu nào chàng Thổ,
Rượu dế mang theo mỗ lưng bầu.
Mũi chàng trước, lái ta sau,
Mái chèo khoan nhặt con trào ngược xuôi.
Bóng chiều nhuộm mũi lau vàng úa,
Khói, nước, trăng, mây bủa tưng bừng.
Vạch lau rẽ khối tung tăng,
Trên trời, dưới nước bên rừng giữa ta.
Lô túp lá xà xà trong ngút,
Chợt thuyền con vùn vụt ngang dòng.
Nguồn đào có phải đây không?
Vũng Lương Sơn phảng phất cùng là đây.
Vừng ác lặn chòm cây đen sậm,
Vào càng sâu càng lắm vẻ u.
Rặng dừa lướt gió vi vu,
Chim về ổ thốt, vượn ru con chuyền.
Bỗng cái sạt, mái truyền hùm vọt,
Sáng lập loè ngọn đuốc ma trơi.
Ó vùng dậy, khỉ reo cười,
Trăm yêu ngàn quái nhè người mà trêu.
Sạt đằng mũi, mái chèo toan đánh,
Lái phất ngang, dường tránh cơn nàn.
Uỷ kìa, rắn hổ phùng mang,
Vượt sông, rẽ sóng băng ngàn như tên.
Vụt đáy nước trông lên cây trụ,
Hẵng đây rồi cá sấu quých đuôi.
Trăm cái sợ, cướp cái vui,
Tới dành chẳng tiện, muốn lùi chỉn khôn.
Sởn tóc gáy, bồn chồn tấc dạ,
Vững tay chèo nấn ná hồi lâu.
Vừng trăng như hẹn hò nhau,
Trồi lên mặt biển dọi vào gầm hang.
Gợn mát bóng cá vàng giỡn nước,
Lá lật sương chim bạc đeo cành.
Xa trông rừng thắt khung xanh,
Sông phơi dải lụa trắng tinh một màu.
Rỡ muôn tượng như chào lạy khách,
Lặng một chiều dường trách lấy nhau.
Cảnh sao biến đổi quá mau,
Rõ hai thế giới trước sau nửa giờ.
Cảnh đối cảnh những ngờ mộng mị,
Hoặc là do tâm lý mà ra.
Tầm u bước đã quá xa,
Canh khuya trăng lặn liệu mà về đi.
Xoàng hơi cúc khì khì cười mãi,
Tóc phất phơ dưới trải bóng trăng.
Giữa dòng chiếc lá thung thăng,
Lần dò lối cũ bâng khuâng chạnh niềm:
Gẫm thân thế ba chìm bảy nổi,
Lại phen này lạc lối tới đây.
Một đêm cảnh vật đổi thay,
Rồi ra sao nữa sau này trăm năm!
Ngâm mấy vận tạm làm du ký,
Chép gởi người tri kỷ đường xa.
Người như rõ biết ý ta.
Thì nâng chén rượu mà ca khúc này.

Mồng bảy tháng bảy năm Mậu Thân
Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
Hằng hà vô số cu li quạ
Bay bổng về trời dường trẩy quân
Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
Con thì kêu đói, con kêu nhọc
Bổng nghe lịnh trời truyền khởi công
Nào con đầu cúi, con lưng cong
Thêm thầy Lý Bẻo đứng coi việc
Đụng đâu đánh đó như bao bông!
Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt
Làm có ăn không, chết cho chết
Cắn cỏ kêu trời, trời chẳng nghe
Một con bay lên đứng diễn thuyết
Hỡi đồng bào nghe tôi nói đây:
Dân quyền mạnh nhất là đời nay,
Việc mà chẳng phải việc công ích
Không ai có phép đem dân đày
Trối kệ Hoàng Ngưu với Chức Nữ
Qua được thời qua không thời chớ?
Quốc dân Ô Thước tội tình chi?
Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
Anh em ta, hè, về quách thôi!
Luôn thể kéo nhau vào cửa trời
Dộng trống đăng vân, ầm đế tọa
Ngai vàng bệ ngọc rung rinh rơi
Nghe tin dân QUẠ nổi cách mệnh
Đường sá xa xuôi, việc nặng nề
Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
Trời sai thiên lôi ra thám thính
Đầu đen máu đỏ quyết hi sinh!
Ngừng búa thiên lôi không dám đánh.
Năm mây bỗng thấy chiếu trời ra,
Đánh chữ đại xá trời ban tha.
Dân QUẠ ở đâu về ở đó,
Từ nay khỏi bắt cầu Ngân Hà.
Ờ té ra:
Mềm thì ai cũng cắn!
Rắn thì trời cũng nhả.
Hằng hà sa số cu li QUẠ
Bay về hạ giới kêu KHÁ! KHÁ!

Hồng nào hồng chẳng có gai
Miễn đừng là thứ hồng rày không hoa
Là hồng thì phải có hoa
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
Có gai mà cũng có mùi hương thơm.

Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ra
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra

Ðến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
Ðắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
Có vợ con mà sống chia cách
Không sinh kế đành phải ăn nhờ
Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn lần gặp xuân rồi!

Nắng chiều đẹp có đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dù gần chạng vạng
Nắng được nắng cứ nắng.

Người tim bặt óc lặng dòng tình
Tai mắt như không phải của mình
Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
Suối tiên mát mẻ bao cho chán
Giấc mộng vờn mơn vẫn chẳng thành
Cái thú vui xưa nào thấy nữa
Ngủ say thức thỉnh dậy buồn tênh.

Hai mươi bốn năm xưa,
một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

– “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng:
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
chi bằng sớm liệu mà buông nhau!”

– “Hay nói mới bạc làm sao chớ!
buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,
mà tính chuyên thuỷ chung!”

*

Hai mươi bốn năm sau,
tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
đố có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
con mắt còn có đuôi.

Bình Tây trấn Bắc sử nghìn thu,
Áy cỏ mờ rêu đất một u!
Ấy dũng ấy trung là thế thế!
Mà ân mà nghĩa ở mô mô!
Chim gào hờn sót xuân ầm ỹ;
Hùm thét oai lưu gió vụt vù,
Cái chuyện anh hùng ai giở đến,
Hồ Tây còn vẳng tiếng chuông bu.

Trên đây, phongnguyet.info đã dành cho bạn những bài thơ hay của nhà thơ Phan Khôi. Những bài thơ bộc lộ lòng yêu nước của ông, lên án mạnh mẽ sự cai quản của bọn thực dân Pháp đối với nước ta. Hy vọng bài viết này sẽ làm hài lòng các bạn. Cảm ơn các bạn đã luôn đồng hành và theo dõi chúng tôi trong suốt thời gian qua !

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và những bài thơ đặc sắc nhất phần cuối

Có thể nói cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về nghị lực, đạo đức và lý tưởng sống. Và cái đẹp ấy cũng gần tới cái đẹp của văn chương. Để rồi chính con người ông đã viết nên những vần thơ hay độc đáo. Tiêu biểu trong đó chính là tính chất đạo đức – trữ tình trong thơ văn. Hãy cùng tìm hiểu những bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu hay đặc sắc mà chúng tôi giới thiệu với bạn dưới đây bạn nhé!

Nội Dung

Trời mưa từng trận gió từng hồi,
Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi.
Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ,
Đấu bèo vô dụng kết bè trôi.
Lao xao rừng cụm nghe chim chíp,
Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi.
Nỡ để dân đen trên gác yếu,
Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Ba vua năm đế dấu vừa qua,
Nối đạo trời rao đức thánh ta.
Hai chữ can thường dằn các nước,
Một câu trung hiếu dựng muôn nhà.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Căm lấy lòng nhơ mong thói bạc,
Trời gần chẳng gánh gánh trời xa

Tượng mảng:
Lẽ trời sinh vật;
Vật ấy nhiều loài.

Lấy câu thuận tính làm lành;
Thấy chữ nghịch thường mà ngán.

Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần;
Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.

Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin;
Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.

Lò tạo hoá nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà;
Thợ hoá công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?

Nay có loài chuột:
Lông mọc xồm xàm;
Tục kêu xù, lắt.

Tính hay ăn vặt;
Lòng chẳng kiêng dè.

Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề;
Đường qua lại đào ra hai ngách.

Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo;
Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liếng hơn cha khỉ.

Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên;
Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.

Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu;
Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.

Vả sáu mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm;
Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.

Cớ sao lại đem lòng quỷ quái?
Cớ sao còn làm thói gian tham?

Túi đông pha thường bữa tha gừng;
Ruộng nam quách ghe phen cắn lúa.

Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang;
Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.

Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan;
Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.

Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ;
Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.

Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu;
Lại quen lần mò ben vách.

Sách Lỗ sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời;
Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.

Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau;
Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.

Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang;
Chốn miếu đường là chỗ thanh tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.

Kẻ trinh nữ ghét thằng cuồng bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm;
Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.

Gối ngoã chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỷ quái chẳng chừa;
Gây phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hãy yêu tinh không gớm.

Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian;
Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhật là sao dữ.

Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử cục cứt ra cũng nhọn hai đầu;
Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc.

Tuy là tướng hữu bì hữu chất;
Thật là loài vô lễ vô nghi.

Luận tội kia đã đáng phân thi;
Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.

Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương;
Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.

Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô thước phanh phui;
Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng Hà ráo cạn.

Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm;
Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.

Tội dường ấy đã nên ác quá;
Ta tới đây há dễ nhiêu dung.

An tiên phuông nấy gã rắn rồng;
Phù tập hậu sai chim bả cắc.

Sắm sửa binh sương giáp sắt;
Trau giồi ngựa gió xe trăng.

Giống trống sấm xuất binh;
Phất cờ lau tập trận.

Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngạch u vi;
Đèn Lý Bạch đái tuỳ đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.

Hàng hàng bố liệt thương đao;
Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột.

Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ:
Cuốc xuổng đào hang, phảng mai chận ngách.

Trả, trách, nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm;
Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu.

Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành;
Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.

Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình;
Thiên hạ cũng vui câu án đổ.

Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu,
Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu.
Thời Lưu chưa đạt hay sao đặng,
Vận Hớn còn suy giỏi mặc dầu.
Tiếc bấy công trình Gia Cát Lượng,
Uổng thay mỏi mệt Hán Đình hầu.
Nghĩ thương cái phận Lưu Huyền Đức,
Nhiều nỗi Đàn Khê dễ sá âu.

Thương tình bào đệ,
Gửi bức tâm thư.

Nghe em lăm toan việc tóc tơ,
Nên anh mới nhả lời vàng ngọc.

Hễ làm người có học,
Cho biết lễ trong nhà.

Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia,
Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự.

Ví dù muốn nơi nào thiếp nữ,
Thì hãy giao quyền tại chính thê.

Thuận chị em trên dưới gia tề,
Nghịch chồng vợ cửa nhà hư hại.

Trong phép xử gia môn đặng phải;
Ngoài tiếng đồn phong hoá mới xinh.

Lẽ cũng cho một gáo múc đôi chình;
Khuyên chớ để đôi rìu cuôi một cội.

Vả đang lúc sự đời bối rối,
Nào xiết lo nghiệp cả bâng khuâng.

Phận thiếp thê mà có như Tề nhân,
Niềm tử tức, thà không như Bá Đạo.

Em ôi!
May mà có mai cơm chiều cháo,
Hơn là người ăn tuyết nằm sương.

Ở nước loàn há sợ chữ thiên ương,
Theo đạo học phải dằn lòng nhân dục.

Ham sung sướng chẳng qua nuôi khẩu phúc,
E nghiêng nghèo còn nhọc đến thân danh.

Bậc quan quyền, chiếu bông gối dựa mới là vinh.
Hàng dân thứ, quần nhiễu, áo sô sao chẳng nhục.

Trau giồi lắm cho đẹp con mắt tục,
Ghen ghét nhiều lại chác cái tai phi.

Vậy thà cam hai chữ bố y,
Chi nhọc đến một điều mao ốc.

Bì sao kẻ thế gia vọng tộc,
Coi lấy người tiện sĩ bần nhu.

Thời thế nầy thà chịu làm ngu,
Học hành vậy cũng kêu là trí.

Em sao chẳng nghĩ!
Anh rất đỗi lo!

Bề ở ăn như cá núp trong nò;
Thân đùm đậu như én nằm trên gác.

Cám nỗi phụ huynh thêm bát ngát;
Phận làm tử đệ há nguôi ngoai?

Sung sướng chi mà chồng một vợ hai;
Giàu sang mấy mà quần đôi áo cặp?

Thân rảnh sao chẳng cấp;
Tính xấu cũng nên chừa.

Trời, không lường trưa sớm nắng mưa;
Người, đâu biết hôm mai hoạ phước.

Chi bằng:
Giữ câu kiệm ước,
Lánh bợm phong lưu.

Việc … oán hận chẳng nên cưu;
Thói ve vãn ăn chơi đừng bắt chước.

Hàng đi đứng tua dè nước bước;
Lời nói năng phải giữ miệng môi.

Phận áo cơm đã đủ thì thôi;
Ơn đất nước ngày an cũng tốt.

Bề ăn ở chi bằng đái chốt;
Dạ thảo ngay chí dốc keo sơn.

Có nghĩa tình anh Tấn em Tần,
Đừng nghe chuyện cha Hồ mẹ Hán.

Đọc sách y phương, cho biết án;
Làm thầy nho sĩ, phải theo tài.

Dược trị đau chớ khá học sơ sài;
Phép dạy trẻ chớ nên oai bẫm trợn.

Nghe nhiều kẻ tiếng đời nhơ bợn;
Muốn cho em mùi đạo thơm tho.

Khá nhớ lời gia giáo dặn dò,
Khuyên chớ để xử thân lầm lỗi.

Nay gửi vài lời huấn hối,
Xưa còn trăm chữ minh châm.

Nhớ để lời hôm sớm vịnh ngâm.
Hãy chữ dạ khỏi điều quá thất.

Phi liêm xe ngựa đóng phương nao?
Oai gió đưa ra nước bến trào.
Thổi thốc miếu chùa hơi vụt vụt,
Xô nhào cây đá tiếng ào ào.
Ai rằng đầm Lộc mê Ngu Thuấn?
Ta nhớ sông Tuy giải Hán Cao!
Một trận bão rồi bờ cõi sạch,
Trời thu như cũ mãi không xao.

Đã đành trôi nổi tấm thân bèo,
Mình nghĩ lòng mình dám nói leo.
Đánh xé sau khi cò mổ vọp,
Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu.
Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm,
Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu.
Chén rược xóm riềng cho cũng uổng,
No sau xin để mặt ăn heo.

Vì câu danh nghĩa phải đi ra,
Day mũi thuyền nan dạ xót xa.
Người dễ muốn chi nương đất khách,
Trời đà khiến vậy mến vua ta.
Một phương thà tránh đường gai gốc,
Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ.
Chén rượu ấm lòng xin cạn chén,
Nhớ nhau ngày khác biết sao mà.

Hoá công máy móc ở đâu nà,
Trăm thợ nhân gian nghẻ ngóc ra.
Sáu tỉnh đua làm nghề khéo léo,
Năm châu sắm đủ của xây xoa.
Mẫu tuồng đơn kép theo hình thế,
Mỗi việc lâu mau tại ý ta
Máy tạo trong tay nào có vụng,
Chi lăm lương đống nước cùng nhà.

Trải qua nắng hạ lúc mưa thu,
Cày cấy ghe phen sức dãi dầu.
Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng,
Làm ăn giữ bổn mấy con trâu.
Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ,
Giỏi việc Mân phong nước chẳng sầu.
Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận,
Cứ trăm giống thóc một tay thâu.

Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng ngọc nào qua báu học trò.
Hoa trái rừng nhu ra sức hái,
Nghê kình biển thánh ráng công mò.
Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,
Mùi đạo trau giồi bữa bữa no.
Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách,
Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho.

Một câu thế lợi mở muôn nguồn,
Giàu có đua nhau việc bán buôn.
Các chợ sinh tài trăm họ nhóm,
Chiếc thuyền trực hoá bốn phương luồn.
Trái cân Yến tử không rơi dấu
Cuốn sách Đào công chẳng hết tuồng.
Chờ giá rủi may may gặp vận,
Ra vào biết mấy của nghìn muôn.

Mối tơ ai gỡ lúc này xong,
Một dải trời Nam biết mấy trùng.
Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó,
Người liều dạ sắt múa tay không.
Đến hay trung nghĩa theo tro bụi,
Hoài của giang sơn trút biển Đông.
Ơn nước, nợ nhà đành có thuở,
Biết bao chờ đợi, biết bao trông!

Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều,
Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu!
Dấu cũ gò bằng nền Hạ Vũ,
Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu.
Hứa Do ngơ mắt làm thằng mục,
Sào Phủ nghiêng tai giả chú tiều.
Thế vạy răn mình đừng có vạy,
Cờ mao chống chỏi chớ cho xiêu.

Hỡi ôi!
Tủi phận biên manh;
Căm loài dương tặc.

Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui;
Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!

Nhớ các linh xưa:
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa;
Thói giữ cương thường làm chắc.

Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu;
Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.

Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm;
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.

Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.

Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên;
Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

Khá thương thay!
Dân sa nước lửa chầy ngày;
Giặc ép mỡ giàu hết sức.

Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam;
Cực cho người vợ goá con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.

Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời;
Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.

Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than;
Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.

Trời hỡi trời!
Lòng nghĩa dân phải với ngô quân;
Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.

Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn;
Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?

Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.

Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.

Như vậy thì:
Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi;
Khi sau để trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ;
Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.

An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành;
Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.

Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình;
Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.

Thôi!
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm;
Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, luỹ kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.

Ôi!
Sống muốn cho an;
Thác sao rằng bức?

Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn;
Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.

Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình;
Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan;
Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.

Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương;
Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.

Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan;
So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.

Đến nay:
Cám cảnh Nam Trung;
Trách lòng tạo vật.

Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên;
Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.

Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh;
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.

Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn;
Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.

Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương;
Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm;
Người uống giận suối vào vàng lắm bực.

Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.

Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh;
Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.

Xưa nghe có bến sông Vị Thuỷ, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.

Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong;
Đọc bài văn tế quỉ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.

Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.

Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.

Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng quân mắc hại.

Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm;
Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.

Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư;
Làm người chí đại.

Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên;
Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong;
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công;
Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.

Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang Sa;
Nhiều phương quỷ quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.

Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.

Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miếu đường;
Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.

Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.

Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi;
Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi;
Than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.

Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè;
Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.

Chín đời còn thấy vận Cao hoàng,
Mặt mũi đâu mà vội dở dang.
Dưới suối há ngờ Lưu Cao Đế,
Trong thù nào có Lã ma vương.
Tranh tranh Hán thất gương còn để,
Phủ việt Xuân thu tội ắt mang.
Muôn một cũng liều thân với nước,
Cớ sao mà chịu ấn nương nương.

Trải xem thường chuộng báo thi quy,
Nồng nực mùi hương chúa Phục Hy.
Tám quẻ bố ra đường bí yếu,
Sáu hào xây để máy u vi.
Kiết hung muôn việc vài lời đoán,
Thời vận nghìn năm một lẽ suy.
Bày vẽ khắp trời đường hoạ phúc,
Nào con mắt tục mấy người tri

Trên đây là những bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu hay đặc sắc mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ cùng với bạn. Thông qua bài viết này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác cũng như tư tưởng trữ tình và chất trữ tình trong thơ ông. Đừng quên đón đọc phần tiếp theo để cập nhật các bài thơ Nguyễn Đình Chiểu hay nhất bạn nhé!

Nguyễn Trãi với tập thơ Ức Trai thi tập – Tập thơ chữ Hán đặc sắc

Tập thơ Ức trai thi tập là một trong những tập thơ chữ Hán đặc sắc của nhà thơ, nhà văn Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 105 bài thơ, trong đó có 17 bài tồn nghi. Đa số các bài thơ trong tập thơ Ức trai thi tập đều thuộc thể thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn chỉ có 2 bài theo thể trường thiên là “Côn Sơn ca” và “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên”. Hãy cùng phongnguyet.info theo dõi bài viết này ngay bây giờ nhé các bạn!

Nội Dung

題盧氏家譜
積慶原來自有基,
畜宏發鉅可先知。
詩書浚澤芳逾遠,
忠孝傳家訓永貽。
水木必從原本始,
黃金何用子孫遺。
焚香一讀公家譜,
肅肅令人起敬思。

Đề Lư thị gia phả
Tích khánh nguyên lai tự hữu ky (cơ),
Súc hoành phát cự khả tiên tri.
Thi thư tuấn trạch phương du viễn,
Trung hiếu truyền gia huấn vĩnh di.
Thuỷ mộc tất tòng nguyên bản thỉ,
Hoàng kim hà dụng tử tôn di.
Phần hương nhất độc công gia phổ,
Túc túc linh nhân khởi kính ti (tư).

Dịch nghĩa
Giữ được phước trước nay vẫn có nguồn gốc, nguyên do
Phước dày lớn phát ra có thể đoán trước được
Nền thì thư thấm nhuần, hương thơm vượt xa
Sự trung hiếu gia truyền còn lại mãi mãi
Nước và cây hẳn phải từ cội nguồn đầu tiên
Bạc vàng lưu lại cho con cháu để làm gì?
Khi đốt hương đọc gia phổ của ngài
Khiến lòng cung kính của con người (tôi) khởi dậy.

藍關懷古
行盡千山與萬山,
蒴風吹起滿藍關。
君王曾此思忠諫,
瘴海遙觀匹馬還。

Lam Quan hoài cổ
Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan.
Quân vương tằng thử tư trung gián,
Chướng hải dao quan thất mã hoàn.

Dịch nghĩa
Đi mãi tận nghìn non vạn núi
Ngọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam Quan
Vì vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trung
Từng có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.

贈孔顏孟三氏子孫教授太平
人生十慮九常乖,
盛世誰知有棄才。
坡老昔曾儋耳去,
長庚亦向夜郎來。
文章自古多為累,
詩酒從今且放懷。
會待金雞開赦日,
五雲深處睹蓬萊。

Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình
Nhân sinh thập lự cửu thường quai,
Thịnh thế thuỳ tri hữu khí tài.
Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ,
Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.
Văn chương tự cổ đa vi luỵ,
Thi tửu tòng kim thả phóng hoài.
Hội đãi kim kê khai xá nhật,
Ngũ vân thâm xứ đổ Bồng Lai.

Dịch nghĩa
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chín
Buổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năng
Pha lão xưa từng đi đày tại Đam Nhĩ
Trường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ Lang
Từ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵ
Nay ta lại càng trở lại với thơ rượu
Chờ mong ngày mở hội đại xá kim kê
Tại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh Bồng Lai

Khổng Tử, Nhan Uyên và Mạnh Tử, ba bậc thánh hiền của đạo Nho Trung Quốc.

贈孔顏孟三氏子孫教授太平
人生十慮九常乖,
盛世誰知有棄才。
坡老昔曾儋耳去,
長庚亦向夜郎來。
文章自古多為累,
詩酒從今且放懷。
會待金雞開赦日,
五雲深處睹蓬萊。

Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình
Nhân sinh thập lự cửu thường quai,
Thịnh thế thuỳ tri hữu khí tài.
Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ,
Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.
Văn chương tự cổ đa vi luỵ,
Thi tửu tòng kim thả phóng hoài.
Hội đãi kim kê khai xá nhật,
Ngũ vân thâm xứ đổ Bồng Lai.

Dịch nghĩa
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chín
Buổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năng
Pha lão xưa từng đi đày tại Đam Nhĩ
Trường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ Lang
Từ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵ
Nay ta lại càng trở lại với thơ rượu
Chờ mong ngày mở hội đại xá kim kê
Tại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh Bồng Lai

Khổng Tử, Nhan Uyên và Mạnh Tử, ba bậc thánh hiền của đạo Nho Trung Quốc.

聽雨
寂寞幽齋裏,
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。

Thính vũ
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.

Dịch nghĩa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

贈友人
貧病余憐汝,
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。

Tặng hữu nhân
Bần, bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hồ lạc tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị (Nhuỵ) Khê ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.

Dịch nghĩa
Tôi thương anh nghèo mà có bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Hai ta như quả bầu rỗng biết làm được gì đây
Nhưng rong chơi thì lại có thừa
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.

村舍秋砧
滿江何處響東丁,
夜月偏驚久客情。
一種蕭關征婦怨,
總將離恨入秋聲。

Thôn xá thu châm
Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
Tổng tương ly hận nhập thu thanh.

Dịch nghĩa
Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình ?
Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây
(Như) một nỗi ta thán của người chinh phụ có chồng đang ở chốn Tiêu quan
Cả một niềm ly hận như thấm vào tiếng thu.

亂後感作
神州一自起干戈,
萬姓嗷嗷可奈何。
子美孤忠唐日月,
伯仁雙淚晉山河。
年來變故侵人老,
秋越他鄉感客多。
卅載虛名安用處,
回頭萬事付南柯。

Loạn hậu cảm tác
Thần châu nhất tự khởi can qua,
Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
Niên lai biến cố xâm nhân lão,
Thu việt tha hương cảm khách đa.
Tạp tải hư danh an dụng xứ,
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha.

Dịch nghĩa
Từ khi xẩy ra chiến tranh trên đất tổ (Thần châu)
Muôn dân rên xiết, chẳng biết làm sao được
Tử Mỹ giữ lòng trung một mình với nhà Đường qua ngày tháng
Bá Nhân buồn cho sơn hà nhà Tấn
Mấy năm lại đây biến cố khiến cho người chóng già hơn
Trải qua mùa thu nơi đất khách khá nhiều cảm xúc
Ba chục năm hư danh có dùng được gì?
Quay đầu lại, vạn sự phó cho giấc mộng Nam Kha

寄舅易齋陳公
兵餘親戚半離零,
萬死殘軀偶一生。
往事空成槐國夢,
別懷誰寫渭楊情。
不來自擬同王式,
避亂終當學管寧。
欲問相思愁別處,
孤齋風雨夜三更。

Ký cữu Dịch Trai Trần Công
Binh dư thân thích bán ly linh,
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
Vãng sự không thành Hoè quốc mộng,
Biệt hoài thuỳ tả Vị dương tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh.
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,
Cô trai phong vũ dạ tam canh.

Dịch nghĩa
Sau chiến tranh bà con bị điêu linh hết phân nửa
Cả vạn lần suýt chết, may còn thân này sống sót
Việc xưa cũ thành như giấc mộng xứ Hoè
Xa nhau thương nhớ, ai tả được mối tình Vị Dương?
Không đến được, tưởng cũng giống như Vương Thức
Chung qui, nên bắt chước Quản Ninh đi tị loạn
Muốn tự hỏi lại mối sầu tương tư của mình
Trong lòng cô quạnh, (bên ngoài) mưa gió suốt ba canh.

清明
一從淪洛他鄉去,
屈指清明幾度過。
千里墳塋違拜掃,
十年親舊盡消磨。
乍晴天氣模稜雨,
過半春光廝句花。
聊把一杯還自彊,
莫教日日苦思家。

Thanh minh
Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.

Dịch nghĩa
Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết.
Tạnh cơn mưa mây, trời chợt sáng,
Hoa đồ mi đã quá nửa chừng xuân.
Hãy cầm lấy chén rượu mà gượng uống,
Ðừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà.

Tiết thanh minh vào tháng ba âm lịch, dân chúng thường đi tảo mộ. Truyện Kiều: “Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”

記友
半生世路嘆屯邅,
萬事惟應付老天。
寸舌但存空自信,
一寒如故亦堪憐。
光陰焂忽時難再,
客舍凄涼夜似年。
十載讀書貧到骨,
盤惟苜蓿坐無氈。

Ký hữu (I)
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên.

Dịch nghĩa
Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu.

秋夜客感
旅舍蕭蕭席作門,
微吟袖手過黃昏。
秋風落葉羈情思,
夜雨青燈客夢魂。
亂後逢人非夙昔,
愁中送目寓乾坤。
到頭萬事皆虛幻,
休論凡亡與楚存。

Thu dạ khách cảm (I)
Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn.
Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
Ðáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.

Dịch nghĩa
Quán khách tiêu điều treo chiếu làm cửa
Ủ tay vào áo ngâm nga khẽ giọng trong buổi hoàng hôn
Lá rụng trong gió thu gợi tình tứ
Đêm mưa ánh đèn leo lét khiến khách thả hồn vào mộng
Sau loạn chẳng ai là quen cũ
Trong cảnh sầu gửi tầm hồn vào trời đất
Chung quy muôn việc đều là hư ảo cả
Thôi chớ bàn chuyện Phàm mất với Sở còn làm gì.

夏日漫成
傳家舊業只青氈,
離亂如今命苟全。
浮世百年真似夢,
人生萬事總關天。
一壼白酒消塵慮,
半榻清風足午眠。
惟有故山心未斷,
何時結屋向梅邊。

Hạ nhật mạn thành (I)
Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên,
Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền.
Phù thế bách niên chân tự mộng,
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên.
Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự,
Bán tháp thanh phong túc ngọ miên.
Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn,
Hà thì kết ốc hướng mai biên.

Dịch nghĩa
Sản nghiệp cũ nhà truyền lại chỉ có tấm chiên xanh
Ly loạn mà thân này tạm được toàn vẹn
Cuộc đời trăm năm bềnh bồng như giấc mộng
Muôn việc ở đời đều do lòng trời
Một bầu rượu trắng đủ tiêu niềm tục luỵ
Nửa giường gió mát cũng đủ để ngủ trưa
Chí có núi quê là lòng luôn nhớ không dứt
Bao giờ mới được (về) cất nhà bên gốc mai?

和新齋韻
風流郡守文章伯,
喬木能憐我故家。
信美江山詩易就,
無情歲月眼將花。
干戈十載親朋少,
宇宙千年變故多。
客舍香塵春晝永,
騰騰清夢繞煙波。

Hoạ Tân Trai vận
Phong lưu quận thú văn chương bá,
Kiều mộc năng liên ngã cố gia.
Tín mỹ giang sơn thi dị tựu,
Vô tình tuế nguyệt nhãn tương hoa.
Can qua thập tải thân bằng thiểu,
Vũ trụ thiên niên biến cố đa.
Khách xá hương trần xuân trú vĩnh,
Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba.

Dịch nghĩa
Quận thú là người phong lưu thuộc hạng đàn anh trong văn chương
Cây cổ thụ (cây cao) như ngài khiến tôi nhớ đến nhà (gia đình) tôi
Non sông rõ ràng đẹp khiến nguồn thơ dễ đến
Năm tháng qua vô tình mắt sắp lòa
Sau mươi năm loạn ít bạn bè còn lại
Nghìn năm nhiều biến cố xảy ra trong vũ trụ
Bụi (hồng) thơm có mãi nơi quán khách mùa xuân
Mộng nhẹ cứ lân la quanh chỗ ẩn dật (khói và sóng).

歸昆山舟中作
十年飄轉嘆蓬萍,
歸思搖搖日似旌。
幾托夢魂尋故里,
空將血淚洗先塋。
兵餘斤斧嗟難禁,
客裡江山只此情。
鬱鬱寸懷無奈處,
船窗推枕到天明。

Quy Côn Sơn chu trung tác
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh.
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.

Dịch nghĩa
Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

亂後到崑山感作
一別家山恰十年,
歸來松匊半翛然。
林泉有約那堪負,
塵土低頭只自憐。
鄕里纔過如夢到,
干戈未息幸身全。
何時結屋雲峰下,
汲澗烹茶枕石眠。

Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lí tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.

Dịch nghĩa
Từ giã quê hương vừa đúng mười năm
Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ
Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ
Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình
Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao
Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân
Bao giờ được làm nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu trà, gối lên đá mà ngủ.

關海
樁木重重海浪前,
沉江鐵鎖亦徒然。
覆舟始信民猶水,
恃險難憑命在天。
禍福有媒非一日,
英雄遺恨幾千年。
乾坤今古無窮意,
卻在滄浪遠樹煙。

Quan hải
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.

Dịch nghĩa
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.

林港夜泊
港口聽潮暫繫舠,
韽韽隔岸響蒲牢。
船窗客夜三更雨,
海曲秋風十丈濤。
膜外虛名身是幻,
夢中浮俗事堪拋。
一生氣習渾如昨,
不為羈愁損舊豪。

Lâm cảng dạ bạc
Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
Bất vị ky sầu tổn cựu hào.

Dịch nghĩa
Đến cửa khẩu nghe thấy triều tạm buộc thuyền con
Văng vẳng bên kia bờ nghe tiếng chuông
Bên cửa thuyền khách mưa rơi suốt ba canh
Trong vịnh biển gió thu thổi dâng sóng lên cao mười trượng
Danh hảo bỏ ra ngoài, thân này cũng là ảo
Đời phù dung tục lụy trong giấc mộng đáng bỏ đi
Một đời vẫn giữ quen cái nết ngày trước
Chẳng phải vì mối sầu xa quê hương mà giảm chí khí cũ.

神符海口
故國歸心落雁邊,
秋風一葉海門船。
鯨噴浪吼雷南北,
槊擁山連玉後前。
天地多情恢巨浸,
勳名此會想當年。
日斜倚棹滄茫立,
冉冉寒江起暮煙。

Thần Phù hải khẩu
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình phun lãng hống lôi nam bắc,
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm,
Huân danh thử hội tưởng đương niên.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.

Dịch nghĩa
Theo cánh nhạn hướng lòng về quê cũ
Chiếc thuyền lan ở cửa biển như chiếc lá trong gió thu
Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc
Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau
Trời đất đã cố tình mở ra vịnh lớn
Công danh gặp hội nhớ lại năm nào
Chiều tà dựa vào cột chèo nhìn cảnh bát ngát
Dòng sông lạnh mênh mông trong khói mù.

海口夜泊有感
一別江湖數十年,
海門今日繫吟船。
波心浩渺滄洲月,
樹影參差浦漵煙。
往事難尋時易過,
國恩未報老堪憐。
平生獨抱先憂念,
坐擁寒衾夜不眠。

Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si phố tự yên.
Vãng sự nan tầm thời dị quá.
Quốc ân vị báo lão kham liên.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.

Dịch nghĩa
Từ ra đi lưu lạc giang hồ đã mấy mươi năm
Tối nay buộc thuyền thơ nơi cửa biển
Đáy nước mênh mang, trăng chiếu trên bãi lạnh
Hình dáng cây cối lô nhô, khói phủ trên bến
Khó tìm nhớ lại việc xưa, thời gian trôi quá dễ
Tự thương xót mình đã già mà ơn nước chưa đền
Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc hưởng sau
Ngồi cuốn chăn lạnh thức suốt đêm.

龍岱岩
去年虎穴我曾窺,
龍岱今觀石窟奇。
鰲負出山山有洞,
鯨遊塞海海為池。
壼中日月天難志,
世上英雄此一時。
黎范風流嗟漸遠,
青苔半蝕璧間詩。

Long Đại nham
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy,
Long Đại kim quan thạch quật kỳ.
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động,
Kình du tắc hải, hải vi trì.
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi.

Dịch nghĩa
Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

Hi vọng với phần thơ của tập thơ Ức trai thi tập Nguyễn Trãi sẽ mang đến cho độc giả yêu thơ những phút giây thư giãn thoải mái nhất. Phần thơ gắn liền với một phần cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Trãi. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem tiếp: Nguyễn Trãi với tập thơ Ức Trai thi tập – Tập thơ chữ Hán đặc sắc P1