Top 6 Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi hay nhất

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) được biết đến là con người đa tài, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật ông tỏ ra là người có năng khiếu và miệt mài lao động cống hiến. Tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” được ra đời vào tháng 9 năm 1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc, sau đó được đăng trên Văn nghệ số 10 trong năm 1949. Về sau, bài viết được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học”. Tiểu luận đã cho thấy quan điểm đúng đắn, mới mẻ, có chiều sâu về thơ của Nguyễn Đình Thi. Bên cạnh đó là những đề xuất táo bạo của tác giả trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ. Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng, sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt. Tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích, cảm nhận về tiểu luận đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 1

Đã là một thi sĩ, không mấy ai không có những suy nghĩ riêng về thơ, được phát biểu dưới dạng này hay dạng khác. Nhìn trên đại thể, đó đều là những suy nghĩ đáng trân trọng. Tuy nhiên, không phải suy nghĩ nào, phát biểu nào cũng gây dược sự chú ý rộng rãi, nếu nó không đạt tới một khả năng khái quát cần thiết và không thể hiện được một định hướng sáng tạo rõ ràng, có tính cách tân. Điều đáng nói là khi tham gia phát biểu về thơ, nhiều người rất thích nêu định nghĩa, và cụm từ “thơ là”… thường được nhắc đi nhắc lại. Hẳn họ thật lòng tin rằng định nghĩa về thơ do mình đưa ra là có giá trị của chân lí phổ quát. Sự thực, mọi định nghĩa về thơ chỉ “đúng” một cách tương đối. Trước hết, hãy tạm cho rằng chúng chỉ dúng với trường hợp của người đã phát biểu quan niệm, định nghĩa đó mà thôi.

Nguyễn Đình Thi hẳn ý thức rất rõ điều này. Bài viết của ông không hướng tới một định nghĩa khép kín, mà gợi mở những suy nghĩ mới về thơ, gợi mở chân trời sáng tạo rộng lớn ở phía trước cho những nhà thơ Việt Nam vào thời điểm những năm cuối của thập niên bốn mươi của thế kỉ XX, tức là thời điểm có những chuyển biến cách mạng lớn lao trong đời sống xã hội, và con đường hiộn đại hoá thơ ca Việt đã tiến được một bước dài. Đây là một trong những bài phát biểu quan niệm về thơ thực sự có giá trị và gần đây rất hay được nhắc tới, mỗi khi người ta đề cập đến con đường thơ cũng như khá nàng cách tân thơ của người nghẹ sĩ đa tài Nguyễn Đình Thi.

Trong phần đầu bài viết, tác giả đối thoại với một số cách nhìn nhận về thơ đã từng chi phối hành động sáng tạo và cảm thụ thơ của một bộ phận khá lớn thi sĩ và độc giả. Có ba cách nhìn nhận đã được nêu lên: đã là thơ thì phải có “lời đẹp” ; đề tài của thơ phải là “đề tài đẹp” ; “thơ khác với các thể văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ”. Theo tác giả, cả ba cách nhìn nhận nêu trên đều có phần phiến diện, bởi có nhiều ví dụ trong thực tiễn thi ca chứng minh điều ngược lại. Cách đối thoại của tác giả hết sức nhẹ nhàng, nhưng điều có thể được rút ra từ đây thì rất có sức nặng: những chữ tầm thường của lời nói hằng ngày hoàn toàn có thể được đưa vào thơ và có thể vẫn đầy chất thơ ; “Nhà thơ ngày nay không đi tìm cái muôn đời viễn vông bên ngoài cuộc sống thực của con người” và những đề tài phong hoa tuyết nguyệt, nhớ mong sầu luỵ đã không còn là những đề tài thiết yếu nữa. Những điều vừa “rút ra” đó phản ánh một quan niệm mới về thơ của Nguyễn Đình Thi – cái quan niệm nếu trử thành nhận thức phổ biến thì có thể sẽ đưa thơ ca Việt Nam đi tới những bước chuyển lớn.

Sang phần tiếp theo, để làm sáng tỏ giả định: “Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng ?”, tác giả đã miêu tả (thông qua những hình ảnh so sánh rất ý vị) trạng thái tâm hồn con người khi có “rung động thơ” và vai trò của bài thơ trong việc thể hiện cũng như làm lan truyền sự rung động ấy. Theo tác giả, bài thơ hình thành trong tâm trí nhà thơ hay ngân lên trong nỗi nhớ của độc giả một khi ở họ xuất hiện “trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường”, “do một sự va chạm nào với thế giới bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác”. Chính sự “va chạm” ấy giúp tâm hồn biết “tự soi vào nó”.

Và khi làm thơ, nhà thơ không phải sống với kí ức thuần tuý mà sống với sự tương tác giữa kí ức và điều đang trải nghiệm ngay lúc đó. Quá khứ và hiện tại quyện hoà vào nhau trên nền tự ý thức của nhà thơ làm nảy sinh cảm xúc thơ. Ý nghĩ này của tác giả cũng có điểm gần gũi với ý nghĩ của nhà thơ Uy-li-am Uốtx-uốt: “Tôi đã nói rằng thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt: nó bắt nguồn từ trong cảm xúc được nhớ lại trong sự bình tâm; cảm xúc được chiêm nghiệm cho tới lúc, do một thứ phản ứng đặc biệt, sự bình tâm dần dần bị biến mất, và một cảm xúc khác thần thuộc với cái trước đó là đối tượng của sự chiêm nghiệm lần lần nảy sinh và nó thực sự tồn tại trong tâm tưởng”.

Tác giả quan niệm, bài thơ có một khả năng kì diộu là bảo lưu sống động trạng thái tâm hồn của nhà thơ khi anh ta làm thơ, thông qua những “chữ”, những “lời”. Chính những “chữ”, những “lời” đó lại là đầu mối đưa đến sự giao cảm giữa nhà thơ và bạn đọc. Đã có “rung động thơ”, nghĩa là một loại hình rung động khác thường như đã nói trên, độc giả dễ dàng cộng hưởng với những tần số rung động của nhà thơ “khi nhìn những chữ, khi nghe những lời”, bởi kéo theo lời, chữ ấy là “những hình ảnh, những ý nghĩ, những mong muốn, những tình cảm”, như thể một “vùng sáng xung quanh ngọn lửa”. Hình ảnh so sánh mà tác giả đưa ra ở dây vô cùng tinh tế. Nó cũng lung linh như chính bản chất thơ và đã diễn tả được một cách sống động cái gọi là sự gắn bó hữu cơ giữa nội dung và hình thức ở loại hình sáng tác này.

Trước đoạn bàn trực tiếp về hình ảnh trong thơ, tác giả khẳng định “thơ phải có tư tưởng, có ý thức”, nhưng “thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý”, bởi nếu thế, thơ đã bị đánh đồng với đạo đức (luận lí, triết học,… Con đường của thơ hướng tới việc “lay động những chiều sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ”, do vậy, nó cần phải có hình ảnh. Tuy nhiên, hình ảnh ở đây không thể là hình ảnh mang tính chất minh hoạ thuần tuý cho tư tưởng hay là sự “phiên dịch” ý tình một cách giản đơn. Nó cũng không phải là một cái gì “cầu kì”, rắc rối. Đổ diễn tả quan niệm về hình ảnh, tác giả lại đưa ra ngay một hình ảnh so sánh rất ý vị: “Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy.

Đụng chạm với hành động hằng ngày, tâm hồn nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa toé lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy, kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ”. Phải nói rằng với hình ảnh trong đoạn văn vừa dẫn, Nguyễn Đình Thi không chỉ cho ta nắm bắt được một thông tin mang tính khoa học về thơ mà còn làm ta rung cảm để tiếp theo nhận ra một cái gì đó của thơ không dễ nói bằng ngôn từ luận lí. Chính các hình ảnh “tia lửa”, “bó sáng” mà tác giả dùng trong trường hợp này cũng thấm đẫm chất thơ, mặc dù rõ ràng chúng không phải là hình ảnh thơ.

Nhằm làm sáng tỏ hơn nữa quan niệm của mình về hình ảnh thơ, tác giả còn lưu ý nhà thi sĩ về một số điểm thuộc “quy trình sáng tạo”: đừng vội “chăng lưới bắt lấy ý nghĩ hay tình cảm”, đừng “cố gắng nặn nọt”. Vấn đề là ở chỗ: hình ảnh thơ là “hình ảnh sống”, nó đến theo kiểu “bắt chợt”, nó có khả năng “truyền cảm”, nó mang tính “tự nhiên”, “tươi nguyên”, “mới mẻ”, đột ngột”, “lạ lùng”, thoát ra khỏi “thói quen”, “sự rập khuôn”. Hiểu tất cả những điều đó rồi thì việc nhà thơ cần làm là: “đi giữa cuộc đời, mở rộng cả tâm hồn mình” để “mỗi con mắt nhìn gặp trên dường, mỗi cảnh ngộ, mỗi con người cho đến mỗi tiếng nghe thấy, mỗi giọt nắng, mỗi chiếc lá tự nhiên mà vào trong lòng”, “động sâu đến tư tưởng và tình cảm”. Khi ấy, “hình ảnh tự nhiên hiện lên trước nhất”, quen mà lạ, gần gũi mà hàm chứa bao điều sâu xa!

Bàn về “chữ”, “tiếng” trong thơ, tác giả cũng có những tư tưởng mới mẻ và dộc đáo. Người ta vẫn thường nói “chữ nào nghĩa nấy”, điều đó đúng theo một số góc nhìn nhất định. Nhưng trong thơ, theo tác giả, “chữ”, “tiếng” không chỉ có giá trị “ý niệm”. Nếu chí có thế, “Mỗi chữ và tiếng mới như một ngọn nến trắng cắt bằng giấy dán trên nền đen. Mỗi ngọn nến vẫn trắng như nền đen vẫn đen. Mỗi chữ là một nghĩa nhưng bài thơ vẫn chưa có hồn”. Tác giả viết tiếp: “Người làm thơ chọn chữ và tiếng không những vì ý nghĩa của nó, cái nghĩa thế nào là thế ấy, đóng lại trong một khung sắt. Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy”.

Ở đây, các hình ảnh được đưa ra ví von có một khả năng biểu đạt ý tưởng hết sức đắc lực. Với trường hợp Nguyễn Đình Thi, tư duy lí luận và tư duy thơ không nằm trong tương quan loại trừ mà ngược lại. Nhiều tiểu luận của ông dọc rất hấp dẫn chính nhờ đặc điểm này, cũng thế, nhiều bài thơ của ông vừa mạnh phần cảm giác (do hệ thống hình ảnh tạo nên), vừa giàu phẩm chất trí tuệ. Gây ấn tượng mạnh nhất trong đoạn văn, cũng có thể nói là trong cả bài, chính là hình ảnh sau đây: “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp bên nhau thành một vùng sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh”.

Thật khó có thể chọn được một cách nói nào hay hơn về “chữ”, về mối quan hệ tương tác giữa các “chữ” trong bài thơ. Là một người được đào luyện trong môi trường Tây học, rất có thể, khi phát biểu điều này, tác giả đã có sự kế thừa những quan niệm về thơ từng được nhiều nhà thơ và nhà nghiên cứu văn học phương Tây nêu lên trong mấy thập niên đầu của thế kỉ XX. ít ra, nó cũng là một khái quát lí luận phù hợp với những tìm tòi mới trong thơ của các nhà thơ Việt Nam hậu kì thơ mới như Bích Khê hay một số nhà thơ thuộc nhóm Xuân thu nhã tập. Theo những nhà thơ này, từ, ngữ (“chữ”, “tiếng”) từ chỗ là một dấu hiệu (signe) hiểu nghĩa, hoàn toàn mang tính chất quy chiếu (có chức năng chỉ một đối tượng rất xác định nào đó), đã đoạt lấy vị trí chủ động, có giá trị tự thân, không hoàn toàn chịu sự sai khiến “độc đoán” của nhà thơ, là từ, ngữ – sự vật (mots – choses).

Nói đến thơ, không ai không chú ý tới “yếu tố” nhịp điệu. Nguyễn Đình Thi cũng thế. Vả lại, theo lô gích của vấn đề, ông đang muốn trình bày cách hiểu của mình về nhịp điệu để cắt nghĩa “cái kì diệu của tiếng nói trong thơ” được nêu ở phần viết trên. Với ông, “nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai” mà chủ yếu là “nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”. Ông khẳng định: nhịp điệu trong thơ “là nhịp điệu hình thành của những cảm xúc, hình ảnh, liên tiếp hoà hợp, mà những tiếng và chữ gọi ra như những ngân vang dài, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.

Trên thực tế, điều vừa được tác giả phát biểu vốn đẵ được ông vận dụng vào chính hành động sáng tác thơ của mình. Việc ông theo đuổi tạo ra một thứ thơ không vần trong những năm cuối thập niên bốn mươi và những năm đầu thập niên năm mươi của thế kỉ XX là một việc làm đầy ý thức, được thôi thúc bởi ý chí cách tân mạnh mẽ (đọc lại những bài như Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949), ta có thể kiểm nghiêm điều này). Như vậy, ở Nguyễn Đình Thi, việc nêu quan niệm thơ cũng là việc báo trước một chặng đường phát triển mới của thơ ca Việt, mà trong sự phát triển đó, ông có góp phần tích cực.

Tất nhiên, khi đã nhận thấy giá trị của “những khoảng lung linh giữa chữ”, “những khoảng im lặng”, tác giả hoàn toàn có cơ sở để viết rằng:”Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ chọn một ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo”, và: “Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi được phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích”. Không phải ổng đã cực đoan khi kết luận như trên. Chẳng qua những từ “hoàn hảo”, “toàn bích” đã được hiểu theo một nghĩa riêng, do văn cảnh bài viết xác định.

Phần cuối của bài viết được dành để bàn riêng về thơ tự do, thơ không vần – một vấn đề có tính thời sự vào thời điểm đó. Tác giả tỏ ý ngờ vực lập luận cho rằng thơ Việt không thể thiếu vần. Trong khi thừa nhận “những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần, đều là những võ khí rất mạnh trong tay người làm thơ”, tác giả vẫn nghĩ không phải cứ hễ thiếu chúng thì người làm thơ không thể có thơ, hay nói cách khác là không thể “thắng” trong “trận đánh” của nghệ thuật. Ông nói rõ: “không có vấn để thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Ở đây cần phải hiểu đúng ý tác giả, rằng một nền thơ không thể chỉ có một sự lựa chọn duy nhất đối với một hình thức thơ nào đó.

Thơ tự do, có vần hay không vần đều có chỗ đứng của mình. Ông láy lại ý này trong câu “Tôi cho rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác. Mà trước hết nên lo sao thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào, miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay”. Đây hiển nhiên là một tư tưởng đúng, nhưng phải chăng nó có thể dẫn tới một sự dung hoà ít có tác dụng kích thích sự sáng tạo ra cái mới, đặc biệt là cái mới thuộc phạm trù hình thức thơ ? Sự thực không phải thế. Chẳng qua tác giả muốn tránh lối nhìn nhận vấn đề cực đoan, độc đoán, còn nếu theo chủ kiến của riêng mình, ông muốn thơ củà thời đại mới này phải thoát khỏi những “hình thức đổu dặn, cố định” để tiến đến một hình thức khác, nhịp điộu khác, phản ánh được nhịp sống trẻ trung, sôi nổi, ào ạt của cuộc đời cách mạng.

Với tầm bao quát rộng rãi nhiều dữ kiện của đời sống và nghệ thuật, tác giả không quên lường tính và giải đáp trước những câu hỏi, những băn khoăn, thắc mắc có thể được đặt ra cho con đường đi tới của thơ, xuất phát từ nhiều đối tượng khác nhau. Không, hình thức mới không bao giờ là sự phế bỏ giản đơn những hình thức cũ, ngược lại, trong nó, những hình thức cũ đã được tái tạo, được nâng lcn một trình độ cao hơn so với trước. Một vấn đề khác là không nên quá lo thơ sẽ trở nên “buông thả, bừa bãi”, bởi những điều đó “chưa bao giờ đi đôi được với nghệ thuật”. Khi lường tính và giải đáp những câu hỏi này, tính chính luận của bài viết được bộc lộ rất đậm nét.

Dường như một quan điểm văn nghệ đầy tính cởi mở đã được xây dựng cùng vói những dòng viết sau: “Kỉ luật của những tổ chức cách mạng chưa bao giờ dựa trên sự trừng phạt de doạ mà tồn tại được, kỉ luật ấy phải tự giác mới bền vững. Nghệ thuật có kỉ luật sắt của nó, nhưng đó không thể là những trói buộc, lề lối định sẩn bên ngoài. Nó phải là sự tự kiểm soát, tự chủ từ bên trong sự sáng tác mà ra. Bỏ những luật lệ máy móc bên ngoài, những luật lệ bản thân của nghệ thuật, những luật .lệ từ bên trong mà ra, chỉ càng quan trọng hơn. Đạp’đổ bức tường giam trước mặt rồi, giới hạn chỉ còn do sức đi xa của mình”. Ta nhận thấy ở đây vừa là một lời nhắc nhở đối với những người chịu trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ, vừa là một lời tự nhắc của giới văn nghệ về sứ mệnh, chức năng của mình.

Mấy ý nghĩ về thơ là bài viết rất tiêu biểu cho phong cách tiểu luận văn học Nguyên Đình Thi. Đọc nó, ta cảm thấy tiếc vì nhiều ý nghĩ độc đáo trong đó một thời chưa được đánh giá đúng mức, chưa được nhìn nhận như một sự gợi ý quý báu đối với vấn đề định hướng phát triển cho cả nền thơ, nền văn học. Tuy nhiên, những giá trị thật thì cứ còn mãi, huống chi, không ít điều được nói hôm qua dến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 2

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là một nhà trí thức yêu nước. Nguyễn Đình Thi đã giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong công tác văn nghệ Việt Nam. Hoạt động văn nghệ của Nguyễn Đình Thi trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, viết lí luận phê bình, viết kịch bản văn học, sáng tác ca khúc. Các tác phẩm để lại của ông để lại nhiều dấu ấn với nhiều bài thơ và lí luận văn học hay và ý nghĩa.

“Mấy ý nghĩ về thơ” được Nguyễn Đình Thi viết vào ngày 12-9-1949 tại chiến khu Việt Bắc trong thời kháng chiến chống Pháp. “Mấy ý nghĩ về thơ” là những ý kiến, bình luận của tác giả về thơ ca đương thời. Phần đầu tiên của “Mấy ý nghĩ về thơ” Nguyễn Đình Thi luận về những đặc trưng cơ bản trong thơ bao gồm: “một vài nhìn nhận hoặc định nghĩa về thơ; thơ là tiếng nói của tâm hồn; đặc trưng của thơ”.

Phân tích tác phẩm Mấy ý nghĩ về thơ của tác giả Nguyễn Đình ThiNguyễn Đình Thi không chăm chăm vào một định nghĩa cố định về thơ nào đó mà ông hướng đến những cách nhìn mới về thơ, theo tác giả thì có ba cái nhìn đã được nêu ra: thứ nhất là “lời đẹp”, thứ hai là “đề tài đẹp”, thứ ba là “thơ khác với các thể văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ”. Theo Nguyễn Đình Thi, cả ba cách nhìn nhận về thơ đều có phấn phiến diện, vì trong thực tiền thơ ca đã chứng minh đi ngược lại với tất cả các điều đó. Cách thức mà tác giả lí luận rất xác đáng, lột tả được những hiện thực về các tác giả sáng tác thơ hiện nay “Nhà thơ ngày nay không đi tìm cái muôn đời viễn vông bên ngoài cuộc sống thực của con người”, qua đây tác giả muốn nhấn mạnh rằng đề tài làm thơ cần phải sát thực tế hơn, đa dạng hơn không nên chỉ lấy một đề tài nào đó làm kim chỉ nam để sáng tác từ đầu chí cuối.

“Thơ là tiếng nói của tâm hồn”.Theo tác giả, hình ảnh trong là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống. Thơ phản ánh tâm hồn của con người, là tiếng nói chân thực xuất phát từ tâm can, nhà thơ mượn câu từ, hình ảnh trong thơ để nói lên tiếng nói của tâm hồn mà đôi khi những lời trực tiếp không thể diễn đạt được mà phải gián tiếp qua các hình ảnh trong thơ.

Nguyễn Đình Thi luận về những đặc trưng cơ bản của thơ từ hình ảnh cho đến tư tưởng, cảm xúc và cái thực trong thơ: Hình ảnh thơ là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống đó là những hình ảnh không hề phù phiếm, cầu kì mà đó những hình ảnh thực được lột tả từ chính những tâm hồn người nghệ sĩ “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng ý thức”.

Cái thực trong thơ được tác giả khẳng định “Thực trong thơ là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”; Cái thực ở đây là những hình lí luận thuyết phục người đọc, không bị rập khuân vào những gì được xây dựng trước. “Hình ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ”. Cái thực làm ta vừa thấy lạ vừa thấy quen mà lại mang lại cho ta cảm giác mới mẻ, khác lạ.

“Thơ là một thứ nhạc”,“Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý”. Các câu chữ và tiếng trong thơ phải chau chuốt giàu hình tượng, giàu tính biểu cảm và hàm súc, hơn hết là sự đa nghĩa của từ ngữ trong thơ. “Chữ và tiếng trong thơ, phải còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm”. tác giả muốn nhắc đến tính đa nghĩa trong thơ, từ câu chữ trong thơ mà gợi cho người đọc đến những hàm nghĩa khác. “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành một vùng sáng chung,…Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh”. Thơ mang ý nghĩa biểu đạt tình cảm sâu sắc nên “đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co,…”. Qua đây mọi người có thấy được những khía cạnh cơ bản về thơ, Nguyễn Đình Thi kết luận rằng: “thơ là tổng hợp, kết tinh”. Ngôn ngữ thơ: là ngôn ngữ có hình ảnh có tư tưởng, có cảm xúc và tất cả đều xuất phát từ cái thực mà ra. Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần.

Tác giả công nhận vai trò to lớn của luật thơ, vần cũng như nhịp thơ nhưng cũng khẳng định nhiều tác giả không cần những luật những vân, nhịp đó vẫn thành công với thơ tự do, thơ không vần. “Thiếu vũ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”. Khẳng định một cách chắc chắn rằng dù có dùng bất cứ hình thức nào để diễn đạt nhưng “miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay”. Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần là xác đáng, bám sát thực tế với nền thơ ca đương thời.

“Mấy ý nghĩ về thơ” đã thể hiện được sự tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh… Tác giả sử dụng các luận điểm chính xác, chặt chẽ, rõ ràng. Vận dụng linh hoạt các biện pháp nghị luận như so sánh, phân tích,… Dẫn chứng thì xác thực, bám sát thực tế có tác dụng liên hệ thực tế cao. Từ ngữ chau chuốt, chọn lọc một cách kĩ càng. Lối viết giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị. Thơ ca gắn bó mật thiết với cuộc sống, đó là một hình thức nghệ thuật mà ở bất kì ở thời kì nào đều có giá trị to lớn. Có nhiều quan niệm khác về thơ nhưng những luận điểm, luận cứ của Nguyễn Đình Thi về thơ vẫn có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Những quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ đã định hướng căn bản về thơ ca nói chung và sự cảm thụ về thơ ca nói riêng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 3

Nguyễn Đình Thi (1924-2003) tại Luông Pha Băng (Lào) quê gốc ở Hà Nội, Việt Nam. Thủa nhỏ, ông sống cùng gia đình tại Lào đến năm 1931 mới trở lại Việt Nam cùng gia đình. Năm 1941, ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách quan trọng trong Hội Văn học – Nghệ thuật sau này là Hội nhà văn Việt Nam. Nhắc đến Nguyễn Đình Thi là nhắc đến một người nghệ sĩ đa tài, một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học lỗi lạc. Ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những đóng góp đáng nghi nhận cho hậu thể. Trong số đó phải kể đếnn tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” là một trong những tác phẩm để đời của Nguyễn Đình Thi.

Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi được viết ngày 12-9-1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ diễn ra ở Việt Bắc. Tác phẩm sau này được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học” của ông. Trong bài tiểu luận, ông muốn hướng tới một định nghĩa khác về thơ, gợi mở một chân trời sáng tạo mới cho nhà thơ Việt Nam vào những năm cuối của thập niên 40, thế kỉ XX. Đây là bài phát biểu về quan niệm thơ ca thực sự có giá trị mà đến bây giờ người ta vẫn nhắc đến khi đề cập đến vấn đề cách tân thơ ca.

Ngay từ phần đầu bài tiểu luận, Nguyễn Đình Thi đã nhắc lại một số định nghĩa về thơ, một số quan điểm về thơ đã từng được lưu truyền như: thơ là những lời, thơ là những đề tài đẹp, thơ in sâu và trí nhớ, đầu mối của thơ là ở bên trong tâm hồn con người…Tác giả vừa nhắc lại ý nghĩa của thơ vừa đưa ra tranh biện. Ông đã dẫn chứng ra hai câu thơ Nguyễn Du tả tú bà như:

Thoắt trông lờn lợt mầu da

Ăn chi to béo đẫy đà làm sao!

Qua đoạn miêu tả tú bà trong Truyện Kiều cho thấy không phải lúc nào thơ cũng này những lời hay, ý đẹp. Những câu từ trau chuốt mà nó còn có cả những câu chữ tầm thường trong cuộc sống hàng ngày. “Nôm na mách qué” đã trở thành những lời thơ được truyền tụng muôn đời.

Và thơ cũng không phải lúc nào cũng chứa các đề tài “đẹp” như phong hoa tuyết nguyệt của các cụ trong thi ca xưa. Mà nó còn là những đề tài hết sức chân thực của đời sống như trong bài thơ của Bô đơ le – nhà thơ người Pháp đã mô tả cái xác của con chó chết đầy giòi bọ. Và ở trong thời kỳ kháng chiến như ở nước ta một cái xe đạp, một khẩu súng cho đến cái ba lô trên vai người chiến sĩ…cũng trở thành đề tài cho các nhà thơ. Nhà thơ ngày này không tìm đến cái viển vông bên ngoài mà hướng tới cuộc sống thực của con người.

Nếu bảo rằng thơ dễ “in sâu vào trí nhớ” thì tác giả nêu câu hỏi tại sao những công thức toán học không phải là thơ mà ta vẫn nhớ rất lâu. Phần tiếp theo tác giả đưa ra một vài ý nghĩ về thơ đó là: “làm thơ thể hiện một trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường, làm thơ là đang sống khi tâm hồn đang rung động. Bài thơ làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc. Bài thơ được xem là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc…” Thơ được xem là tiếng nói của tâm hồn, là tư tưởng và tình cảm của con người.

Sau đó tác giả đi sâu vào phân tích đặc trưng hình ảnh trong thơ, câu chữ trong thơ, nhạc của thơ, đường đi của thơ và tính hàm xúc của thơ. Hình ảnh trong thơ không phải là hình ảnh cầu kỳ mà là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy rồi “kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ”. Vấn đề là ở chỗ: hình ảnh thơ là “hình ảnh sống”, nó đến theo kiểu “bắt chợt”, nó có khả năng “truyền cảm”, nó mang tính “tự nhiên”, “tươi nguyên”, “mới mẻ”, “đột ngột”, “lạ lùng”, thoát ra khỏi “thói quen”, “sự rập khuôn”. Hình ảnh thơ phải làm ta ngạc nhiên vừa cảm thấy như đã quen thuộc tự bao giờ.

“Chữ” và “tiếng” được thể hiện trong thơ cần phải mang hình tượng, hàm súc, biểu cảm và đa nghĩa. Điều kì diệu của mỗi bài thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ ngoài nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật còn giúp mở rộng ra xung quanh lan tỏa cảm xúc như một vùng ánh sáng động đậy. Và sức mạnh của thơ chính là nằm ở sự gợi tả đó. “Thi tại ngôn ngoại, thơ đã nghĩa và hàm súc”. Khi nhắc đến sự đa nghĩa của thơ, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng hình ảnh ngon nến: “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành một vùng sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến”. Ý thơ cũng không nằm trong những câu chữ mà nó vây bọc xung quanh toàn bộ tác phẩm.

Nói đến thơ không thể không nhắc đến vần điệu. Nguyễn Đình Thi cho rằng những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần đều là vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nếu thiếu vũ khi ấy thì “trận đánh gay go thêm nhiều, những người làm thơ vẫn có thể thắng”. Tác giả cũng khẳng định “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần hay thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Do đó nhà thơ phải tìm tòi, thử thách để tìm ra một hình thức thơ mới. Thơ cần sự sáng tạo nhưng không thể buông thả, bừa bãi. Những bài thơ tục tĩu, lăng nhăng tầm phào chỉ làm cho độc giả quay lưng lại với thơ.

Những quan điểm về thơ của Nguyễn Đình Thi được xem là rất đúng đắn, tiến bộ, sát thực với tình hình thơ ca đương thời. Và cho đến ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị khiến cho lớp hậu bối cần phải soi xét trông vào.

Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” có hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích cũng như bác bỏ. Cách suy luận cực kỳ logic, cách lấy dẫn chứng độc đáo và tinh tế giúp soi sáng cho luận điểm. Ngôn ngữ có sự chọn lọc vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Tác phẩm mặc dù đã ra đời cách đây 60 năm nhưng cho đến nay người đọc vẫn dễ dàng nhận thấy những điều mà tác giả đặt ra không hề cũ. Nó có ý nghĩa sâu sắc cho đến hiện thực sáng tác văn học ngày nay.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 4

Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi viết vào ngày 12-9-1949. Đây là một số ý kiến mà tác giả đã nêu lên trong cuộc tranh luận về thơ tại chiến khu Việt Bắc trong thời kháng chiến chống Pháp. Người đọc hôm nay có thể có những cảm nhận không giống nhau về những ý nghĩ về thơ của tác giả tập thơ “Người chiến sĩ”.

Phần đầu bài tiểu luận, Nguyễn Đình Thi đã nhắc lại một số định nghĩa về thơ, một số quan niệm về thơ từng được lưu truyền như: thơ là những lời đẹp, thơ là ở những đề tài đẹp, thơ in sâu vào trí nhớ, đầu mối của thơ là ở bên trong tâm hồn con người,… Tác giả vừa nhắc lại định nghĩa về thơ vừa tranh biện. Nhắc lại câu thơ Nguyễn Du tả Tú Bà, thơ Hồ Xuân Hương “nô na…” để trên cơ sở đó, tác giả bác bỏ ý kiến cho rằng “thơ là những lời đẹp”.

Cho rằng thơ là những đề tài đẹp, Nguyễn Đình Thi đưa ra bài thơ của Bô-đơ-le nhà thơ Pháp tả cái xác chó chết đầy giòi bọ, nêu lên cái ba lô, cái khẩu súng, bóng dây thép gai hung ác của đồn giặc trong thơ kháng chiến để phản bác lại. Bảo rằng thơ “in sâu vào trí nhớ”, tác giả nêu câu hỏi tại sao, những công thức toán học không phải là thơ mà ta lại rất nhớ.

Phần tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đưa ra một vài ý nghĩ về thơ: làm thơ để thể hiện một trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường; làm thơ là đang sống khi tâm hồn đang rung động. Bài thơ làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc; bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc. Thơ là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, nhưng tư tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự, v.v…

Chung quy lại: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là tư tưởng, tình cảm của con người. Tác giả nói hơi dài và văn hoa về những điều trên đây. Có lúc người đọc cảm thấy lối diễn đạt hơi cầu kì rắc rối. Trong bài tựa Cùng bạn đọc (tác phẩm Thơ Sóng Hồng), Sóng Hồng viết một cách giản dị mà sâu sắc vể bản chất của thơ, mà trong chúng ta nhiều người đã được đọc. Mọi chân lí đều giản dị. Cần phải nói một cách giản dị mới dễ đi vào lòng người.

Sau đó, tác giả nói về một số đặc trưng của thơ: hình ảnh trong thơ, câu chữ trong thơ, nhạc của thơ, đường đi của thơ, tính hàm súc của thơ. Hình ảnh thơ không phải là hình ảnh cầu kì, trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy (tia lửa sự sống trong tâm hồn) rồi “kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ”. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng ý thức”.

“Thực trong thơ là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”; khi “mỗi giọt nắng, mỗi chiếc lá tự nhiên mà vào trong lòng, để rồi động sâu đến tư tưởng và tình cảm. Trong việc làm thơ bấy giờ, hình ảnh tự nhiên hiện lên trước nhất”. “Những hình ảnh còn tươi nguyên mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng”. “Hình ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ”.

Chữ và tiếng trong thơ phải hình tượng, hàm súc, biểu cảm và đa nghĩa. Nói về tính hình tượng, hàm súc, biểu cảm, đa nghĩa của ngôn ngữ thơ, tác giả viết: “Chữ và tiếng trong thơ; phải còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm”. Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài các nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi lên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của thơ là ở sức gợi ấy.

Thi tại ngôn ngoại, thơ đa nghĩa và hàm súc là vẻ đẹp của thơ: Nguyễn Đình Thi đã dùng hình ảnh ngọn nến để nói lên đặc trưng ấy của thơ. “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành một vùng sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh”. Thơ mang tính biểu cảm, nên “đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây số”.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, “thơ là tổng hợp, kết tinh”; thơ “luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích”. Thơ tự do và thơ không vần. Nguyễn Đình Thi cho biết những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần, đều là những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nếu thiếu vũ khí ấy “trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”. (Phải là thiên tài mới có thể thắng!). Tác giả cho rằng: “Không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ không thơ”. Phải để cho nhà thơ “tìm tòi, thử thách”, “một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức thơ mới”.

Bên cạnh những ý tưởng đúng đắn về chất lượng thơ, sự đổi mới thơ, ta còn băn khoăn về điều tác giả nói như đinh đóng cột: “Không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần”. Đọc thơ Việt hiện nay, ta càng thấy ý kiến ấy không thuyết phục. Thơ phải sáng tạo nhưng không thể buông thả, bừa bãi. Những bài thơ tục tĩu hoặc nói lãng nhăng tầm phào mà ta thường thấy trên báo chí hiện nay đã làm cho “thơ phản thơ”, làm cho độc giả quay lưng lại với thơ! Hành trình của thơ Việt còn cần rất nhiều những nhà thơ tài năng, lỗi lạc.

Nguyễn Đình Thi đã sáng tạo ca khúc, viết kịch, viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết, viết lí luận, phê bình và làm thơ. Thơ là thành tựu xuất sắc của ông. Bài “Mấy ý nghĩ về thơ” ra đời cách chúng ta đã 60 năm. Người đọc hôm nay dễ dàng nhận thấy những điều mà tác giả bàn về thơ không mới. Tác giả đã có một cách viết tài hoa, cảm xúc dào dạt. Cầu kì và lan man, sa đà là phần hạn chế, nhất là khi tác giả nói về bản chất của thơ, ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ, tính biểu cảm, tính hàm súc, đa nghĩa của thơ. Một số so sánh của tác giả nêu lên có lúc làm cho lí lẽ thêm rối.

Thơ Việt từ năm 1945 đến nay đã có nhiều thành tựu và đang trên đà đổi mới. Lí luận về thơ cũng không dừng lại cái hôm qua đã có, đã bàn luận. Khiếu thẩm mỹ của độc giả ngày nay không còn đơn giản nữa; các nhà làm thơ, các nhà lí luận phê bình thơ cần biết rõ sự thực ấy. “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi như một tiếng nói tâm tình, chúng ta đón đọc với tình cảm trân trọng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 5

Nguyễn Đình Thi (1924-2013) là một tri thức yêu nước vô cùng, ông từng tham gia phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên, là một nghệ sĩ đa tài ông luôn thành công trong các lĩnh vực nghệ thuật như kịch, truyện, tiểu thuyết… Trong số đó thể loại mà ông thành công rất lớn đó là thơ, một trong những tác phẩm mà để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng độc giả đó là Mấy ý nghĩ về thơ, tác phẩm gợi mở cho những người có nguồn cảm hứng mãnh liệt về thơ, những người yêu thích thơ những suy nghĩ mới lạ, những nguồn cảm hứng sáng tạo cho những nhà thơ Việt.

Thơ của Nguyễn Đình Thi vô cùng đặc biệt, có bản sắc và giọng điệu riêng, vừa tự do, phóng khoáng, vừa hàm xúc, sâu lắng suy tư, cùng với đó để đưa ra những tác phẩm của mình ông luôn tìm tòi sáng tạo theo xu thế hiện đại về hình ảnh và nhạc điệu. Mấy ý nghĩ về thơ là tác phẩm được ông viết vào ngày 12 tháng 9 năm 1949 tại chiến khu Việt Bắc khi mà chúng ta còn đang trong thời kì kháng chiến chống Pháp ác liệt, tại hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc, tác giả nguồn cảm hứng cho tác phẩm ra đời cũng từ những nhà thơ, nhà văn, các nghệ sĩ trong thời kì đó, những người tham gia kháng chiến thường tranh luận về các đề tài như hội họa, về tiểu thuyết, về âm nhạc… đặc biệt là sự tranh luận về thơ, và bài viết ra đời cũng như thay lời muốn nói của tác giả để bày tỏ cảm xúc về những tranh luận, đồng thời tác giả cũng muốn đưa ra quan điểm của mình về vấn đề đó.

Vào thời kì đó, thời kì của những chuyển biến cách mạng lớn lao trong đời sống xã hội ta, con đường thơ ca đã được đẩy mạnh thêm một bước trong quá trình hiện đại hóa, thông qua đó tác giả cũng muốn gửi ý kiến quan điểm của mình tới các nhà thơ thời bấy giờ. Sự thành công của tác phẩm được thể hiện thông qua sự kiện tác phẩm được đưa vào tập “Mấy vấn đề văn học”.

“Mấy ý nghĩ về thơ” được Nguyễn Đình Thi viết vào ngày 12-9-1949 tại chiến khu Việt Bắc trong thời kháng chiến chống Pháp. “Mấy ý nghĩ về thơ” là những ý kiến, bình luận của tác giả về thơ ca đương thời. Phần đầu tiên của “Mấy ý nghĩ về thơ” Nguyễn Đình Thi luận về những đặc trưng cơ bản trong thơ bao gồm: “một vài nhìn nhận hoặc định nghĩa về thơ; thơ là tiếng nói của tâm hồn; đặc trưng của thơ”.

Nguyễn Đình Thi không chăm chăm vào một định nghĩa cố định về thơ nào đó mà ông hướng đến những cách nhìn mới về thơ, theo tác giả thì có ba cái nhìn đã được nêu ra: thứ nhất là “lời đẹp”, thứ hai là “đề tài đẹp”, thứ ba là “thơ khác với các thể văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ”. Theo Nguyễn Đình Thi, cả ba cách nhìn nhận về thơ đều có phấn phiến diện, vì trong thực tiền thơ ca đã chứng minh đi ngược lại với tất cả các điều đó. Cách thức mà tác giả lí luận rất xác đáng, lột tả được những hiện thực về các tác giả sáng tác thơ hiện nay “Nhà thơ ngày nay không đi tìm cái muôn đời viễn vông bên ngoài cuộc sống thực của con người”, qua đây tác giả muốn nhấn mạnh rằng đề tài làm thơ cần phải sát thực tế hơn, đa dạng hơn không nên chỉ lấy một đề tài nào đó làm kim chỉ nam để sáng tác từ đầu chí cuối.

“Thơ là tiếng nói của tâm hồn”. Theo tác giả, hình ảnh trong là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống. Thơ phản ánh tâm hồn của con người, là tiếng nói chân thực xuất phát từ tâm can, nhà thơ mượn câu từ, hình ảnh trong thơ để nói lên tiếng nói của tâm hồn mà đôi khi những lời trực tiếp không thể diễn đạt được mà phải gián tiếp qua các hình ảnh trong thơ.

Nguyễn Đình Thi luận về những đặc trưng cơ bản của thơ từ hình ảnh cho đến tư tưởng, cảm xúc và cái thực trong thơ: Hình ảnh thơ là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống đó là những hình ảnh không hề phù phiếm, cầu kì mà đó những hình ảnh thực được lột tả từ chính những tâm hồn người nghệ sĩ “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng ý thức”.

Cái thực trong thơ được tác giả khẳng định “Thực trong thơ là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”; Cái thực ở đây là những hình lí luận thuyết phục người đọc, không bị rập khuân vào những gì được xây dựng trước. “Hình ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ”. Cái thực làm ta vừa thấy lạ vừa thấy quen mà lại mang lại cho ta cảm giác mới mẻ, khác lạ.

“Thơ là một thứ nhạc”,“Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý”. Các câu chữ và tiếng trong thơ phải chau chuốt giàu hình tượng, giàu tính biểu cảm và hàm súc, hơn hết là sự đa nghĩa của từ ngữ trong thơ. “Chữ và tiếng trong thơ, phải còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm”. tác giả muốn nhắc đến tính đa nghĩa trong thơ, từ câu chữ trong thơ mà gợi cho người đọc đến những hàm nghĩa khác. “Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành một vùng sáng chung,…Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh”.

Thơ mang ý nghĩa biểu đạt tình cảm sâu sắc nên “đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co,…”. Qua đây mọi người có thấy được những khía cạnh cơ bản về thơ, Nguyễn Đình Thi kết luận rằng: “thơ là tổng hợp, kết tinh”. Ngôn ngữ thơ: là ngôn ngữ có hình ảnh có tư tưởng, có cảm xúc và tất cả đều xuất phát từ cái thực mà ra. Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần.

Tác giả công nhận vai trò to lớn của luật thơ, vần cũng như nhịp thơ nhưng cũng khẳng định nhiều tác giả không cần những luật những vân, nhịp đó vẫn thành công với thơ tự do, thơ không vần. “Thiếu vũ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”. Khẳng định một cách chắc chắn rằng dù có dùng bất cứ hình thức nào để diễn đạt nhưng “miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay”. Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần là xác đáng, bám sát thực tế với nền thơ ca đương thời.

“Mấy ý nghĩ về thơ” đã thể hiện được sự tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh… Tác giả sử dụng các luận điểm chính xác, chặt chẽ, rõ ràng. Vận dụng linh hoạt các biện pháp nghị luận như so sánh, phân tích,… Dẫn chứng thì xác thực, bám sát thực tế có tác dụng liên hệ thực tế cao. Từ ngữ chau chuốt, chọn lọc một cách kĩ càng. Lối viết giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.

Tác phẩm là bài viết vô cùng tiêu biểu thể hiện con người và phong cách sáng tác của Nguyễn Đình Thi, bài viết cho người đọc cũng như những nhà văn nhà thơ khác rất nhiều ý nghĩa, đặc biệt là những khái niệm vô cùng mới mẻ, những giá trị vô cùng quý giá góp phần tạo nên sự phong phú, mới mẻ cho nền văn học Việt Nam.

Bài văn phân tích tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” số 6

Tác phẩm của Nguyễn Đình Thi hướng đến những suy nghĩ mới mẻ và đầy tính gợi mở, chứ không bó buộc và khép kín trong một định nghĩa nhất định về thơ. Đọc tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ”, người đọc sẽ nhận ra đây thực sự là một bài phát biểu giàu giá trị thể hiện quan điểm đúng đắn về thơ.

Phần đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Thi đối thoại cùng bạn đọc về một số khái niệm và định nghĩa về thơ từng chi phối quan niệm và cách sáng tạo nên những tác phẩm của đại bộ phận các thi nhân đương thời. Sau đó, nhà văn đưa ra ba cách nhìn nhận về thơ. Sang phần tiếp theo của bài luận, nhà văn đã miêu tả sinh động trạng thái tâm hồn con người khi có những rung động thơ, đồng thời cũng nhắc đến vai trò của bài thơ trong việc thể hiện và làm lan truyền sự rung động ấy. Theo Nguyễn Đình Thi, thơ có một khả năng tuyệt vời là bảo lưu sống động trạng thái tâm hồn của nhà thơ, thông qua việc thể hiện những “chữ”, những “lời”.

Tác giả khẳng định rõ nét “thơ không nói bằng ý niệm thuần túy” mà “thơ phải có tư tưởng và ý thức”. Con đường thơ ca mang lại có sức lay động tâm hồn, vì vậy nó cần phải có hình ảnh và giai điệu. Nhà văn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn đạt tư tưởng của mình chính là “tia lửa” “bó sáng”. Soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, người đọc cần lưu ý đến cách thể hiện tư tưởng và suy nghĩa mà nhà văn Nguyễn Đình Thi đã sử dụng.

Nhắc đến “tiếng” và “chữ” trong thơ, nhà văn khẳng định nó không chỉ có giá trị “ý niệm”. Nguyễn Đình Thi đã có những hình ảnh rất đẹp và đầy đắt giá như “mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến mà nó còn ở tất cả những vùng xung quanh ngọn nến”. Do đó, ý thơ không chỉ dừng lại ở câu chữ, mà nó ở tất cả những gì được vây bọc xung quanh.

Bên cạnh đó, “nhịp điệu” chính là yếu tố quan trọng được nhà văn đề cập đến trong bài viết của mình. Do đó, soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò và sức mạnh của nhịp điệu trong thơ. Phần cuối của tác phẩm, Nguyễn Đình Thi bàn luận về thể thơ tự do và thơ không vần. Ở đây, nhà văn cho rằng một nền thơ không chỉ có một sự lựa chọn duy nhất đối với một hình thức thơ nào đó. Và dù được viết theo thể thơ nào đi chăng nữa, điều quan trọng miễn là thơ cần phản ánh đúng tâm hồn của con người mới ngày nay, thể hiện được tâm tư cũng như suy nghĩ của người viết.

Nguyễn Đình Thi cũng khẳng định, nghệ thuật có những kỉ luật và quy tắc riêng của nó, nhưng điều đó không có nghĩa là sự trói buộc hay là những lề lối sẵn mang tính lối mòn. Bỏ đi những luật lệ máy móc và giới hạn chỉ còn trong sức đi xa của mình. Đến đây khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta nhận thấy quan điểm về nghệ thuật nói chung, về thơ ca nói riêng của Nguyễn Đình Thi đã đạt đến một bước tiến mới, riêng biệt và có sức độc đáo.

Mấy ý nghĩ về thơ là một bài viết điển hình cho phong cách nghệ thuật sáng tác cũng như tư tưởng và quan điểm của Nguyễn Đình Thi trong suốt quá trình hoạt động văn nghệ của mình. Tiếp cận với tác phẩm ta trân trọng những đột phá trong suy nghĩ của nhà văn, đồng thời cũng trân trọng những ý nghĩa sáng tạo này. Do đó, soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta cần lưu tâm đến sự đổi mới trong quan điểm thơ của tác giả để từ đó nắm được giá trị của tác phẩm.

Bài viết trên đây về tác phẩm Mấy ý nghĩ về thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi hi vọng đã cung cấp cho bạn những kiến thức bổ ích phục vụ cho quá trình học tập cũng như nghiên cứu của mình. Chúc các bạn học tốt!

Top 6 Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi lớp 12 hay nhất

Tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi được ra đời vào tháng 9 năm 1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc, sau đó được đăng trên Văn nghệ số 10 trong năm 1949. Về sau, bài viết được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học”. Tiểu luận đã cho thấy quan điểm đúng đắn, mới mẻ, có chiều sâu về thơ của Nguyễn Đình Thi. Bên cạnh đó là những đề xuất táo bạo của tác giả trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ. Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng, sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt. Tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” hay nhất đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 1

Bố cục:

– Phần 1: Từ đầu đến “…xung quanh ngọn lửa” ⇒ Đặc trưng cơ bản nhất của thơ.

– Phần 2: Còn lại ⇒ Những đặc điểm khác của thơ.

Câu 1 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Tác giả lí giải những đặc trưng cơ bản của thơ khi biểu hiện tâm hồn con người

– Quan hệ giữa thơ và tâm hồn con người: thơ – con người tác động qua lại

+ Ta nói trời hôm nay… muốn làm thơ

+ Lời thơ “làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc

+ Thơ là tiếng nói đầu tiên, đụng chạm với cuộc sống

→ Tác giả nhấn mạnh mối quan hệ giữa thơ với tâm hồn con người, có sự tác động qua lại, đặc điểm của thơ khẳng định diễn tả tâm hồn con người. Thơ là phương thức biểu hiện tình cảm của con người

Câu 2 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Những yếu tố đặc trưng của thơ:

– Hình ảnh: hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn trong một cảnh huống

– Tư tưởng “dính liền vớ cuộc sống, ở trong cuộc sống”, “nằm trong cảm xúc, tình tự”

– Cảm xúc trong thơ: “phần xương thịt hơn cả đời sống tâm hồn”. “dính liền với suy nghĩ”

– Cái thực trong thơ “hình ảnh sống, có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”

Câu 3 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1)

– Ngôn ngữ thơ khác với ngôn ngữ các thể loại văn học khác ở chỗ: có nhịp điệu, có nhạc tính, ý ở ngoài lời

+ Ngôn ngữ khác (truyện kí: ngôn ngữ kể chuyện, kịch- ngôn ngữ đối thoại)

+ Ngôn ngữ thơ: cảm xúc, nhịp điệu, ngắt nghỉ, bằng trắc, trầm bổng, hình ảnh…

– Nguyễn Đình Thi trực tiếp bàu tỏ quan điểm về thơ tự do và thơ vần:

+ “Luật lệ thơ từ âm điệu đến vần đều là vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ”

+ “Tôi nghĩ rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần”

+ Định hướng cách hiểu thơ:

+ Với bất cứ hình thức nào, thơ phải diễn đạt được tâm hồn của con người hiện đại

Câu 4 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Nguyễn Đình Thi thể hiện tinh tế, sâu sắc về thơ:

+ Luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sắc sảo

+ Linh hoạt trong các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ

+ Từ ngữ đa dạng, ngôn ngữ linh hoạt

+ Bài viết gợi hình, chân thực và có quan điểm độc đáo.

Câu 5 (trang 60 sgk ngữ văn 12 tập 1) Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có giá trị tới ngày nay vì:

– Con người luôn có nhu cầu thể hiện tâm tư, tình cảm, tư tưởng qua thơ ca

– Dù một số quan niệm đổi mới về thi pháp thì luận điểm cơ bản vẫn giữ nguyên giá trị

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi có ý nghĩa với việc định hướng sáng tạo, cảm thụ thơ ca

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 2

Tìm hiểu chung tác phẩm

Tác giả:
Nguyễn Đình Thi: ( 1924 – 2003)
Nơi sinh: Luông Pha bang ( Lào)
Quê quán: Làng Trạch – Hà Nội.
Sự nghiệp cách mạng:
Thủa nhỏ Nguyễn Đình Thi sống ở Lào
Năm 1931 ông về nước
Năm 1941 ông tham gia hoạt động cách mạng
Sự nghiệp văn học: SGK

Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Tháng 9 năm 1949 HỘi nghị tranh luận văn nghệ đã được tổ chức ở Việt Bắc.
Sự thành công của tác phẩm: Bài viết đã được đưa vào tập: Mấy vấn đề văn học.

Câu 1: Nguyễn Đình Thi lý giải như thế nào về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn của con người?

Trả lời:

Lý giải đặc trưng cơ bản nhất của biểu hiện tâm hồn con người:

Tâm hồn ta có sự rung động thơ khi nó ra khỏi trạng thái bình thường và theo sự thức tỉnh tự soi vào nó để nhận thấy đang ở một độ rung chuyển khác thường do một sự va chạm nào với Thế giới bên ngoài, với thế giới thiên nhiên, với những người khác,mà hình thành nên cảm xúc.


Câu 2
: Những yếu tố đặc trưng khác của thơ: Hình ảnh, tư tưởng, càm xúc, cái thực…đã được Nguyễn Đình Thi quan niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời:

Hình ảnh:
Thơ là tiếng nói đầu tiên của tâm hồn khi đụng chạm vào cuộc sống, nó gợi nên cảm xúc của con người
Là hình ảnh thơ thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một hoàn cảnh nào đó
Thực trong thơ là hình ảnh sống, có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc.
Tư tưởng:
Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bất kì cảm xúc nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ
Tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống, nhưng nằm ngay trong cảm xúc và tự tình.
Hiểu thơ là vấn đề của cả tâm hồn
Cảm xúc trong thơ:
Cảm xúc là phần quan trọng trong thơ ca.
Bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho con người.
Cái thực trong thơ: “là những hình ảnh sống có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Đó là những hình ảnh chưa có vết nhoà của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”.

Câu 3: Theo Nguyễn Đình Thi, ngôn ngữ thơ có gì đặc biệt so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác? Nguyễn Đình Thi khái niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời:

Sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ và các thể loại khác: Chữ và tiếng trong thơ phải có giá trị riêng, có nghĩa riêng, được sử dụng để mở rộng và đem đến những hình ảnh, cảm xúc bất ngờ, làm người đọc rung động. Chất nhạc trong thơ không giới hạn gợi lên những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp.
Quan niệm Nguyễn Đình Thi về thơ tự do, thơ không vần: tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ, sau đó sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn thành công. Ông cho rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần, không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.

Câu 4: Nêu rõ nét tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận, đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, …để làm sáng tỏ từng vấn đề đặt ra.

Trả lời:

Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ sắc sảo, sẫn chứng sinh động, từ ngữ chọn lọc, gần gũi, dễ hiểu, hình ảnh chân thực, miêu tả cụ thể, giúp người đọc có thể lĩnh hội vấn đề một cách dễ dàng.

Bài nghị luận đã nêu được quan điểm thơ đúng đắn, có giá trị đối với mọi thời đại, thuyết phục được người đọc, người nghe.


Câu 5
: Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị không? Vì sao?

Trả lời:

Quan niệm của tác giả về thơ không chỉ có tác dụng vào thời điểm đó mà ngày nay vẫn còn giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống và thực tiễn sáng tạo thơ ca.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 3

Bài 1 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nguyễn Đình Thi lí giải như thế nào về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người?

Trả lời

– Để làm nổi bật đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người, Nguyễn Đình Thi đã phân tích, lí giải về mối quan hệ giữa thơ với tâm hồn của con người bằng cách đưa ra một loạt dẫn chứng:

+ “Ta nói trời hôm nay nên thơ, nhưng chính ra là lòng chúng ta mong một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ, hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn như chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ”.

+ “Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt”.

+ Những câu, những lời thơ diễn lên “làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc”.

+ “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống”.

➜ Tác giả muốn nhấn mạnh giữa thơ với tâm hồn con người có sự tác động qua lại lẫn nhau.

– Tiếp theo tác giả đưa ra đặc điểm của thơ để khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người.

+ “Thơ là một thứ nhạc”, “Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý” nhưng nói chung những cái đó là “của tâm hồn”.

+ Nhịp điệu thơ được hình thành từ những cảm xúc, hình ảnh và trong khoảng im lặng “cũng là nơi lưu trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.

– Cuối cùng tác giả kết luận “đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm”. Điều đó có nghĩa thơ là phương tiện biểu hiện của tâm hồn con người.

Bài 2 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Những yếu tố đặc trưng khác của thơ (hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, cái thực…) đã được Nguyễn Đình Thi đề cập ra sao?

Trả lời

Bên cạnh việc thể hiện tâm hồn con người, nhiều yếu tố đặc trưng cơ bản khác cũng được Nguyễn Đình Thi đề cập đến:

– Hình ảnh thơ: “là hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”, ví như “những tia lửa loé lên khi búa đập vào sắt trên đe” được thu lượm kết nên một bó sáng.

– Tư tưởng trong thơ: “những tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư tưởng của nhà thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự”.

– Cảm xúc trong thơ: “Cảm xúc là phần xương thịt hơn cả đời sống tâm hồn”, “bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ”.

– Cái thực trong thơ: “là những hình ảnh sống có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Đó là những hình ảnh chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”.

Bài 3 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Ngôn ngữ thơ có gì đặc biệt so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác. Nguyễn Đình Thi quan niệm như thế nào về thơ tự do, thơ không vần?

Trả lời

* Ngôn ngữ thơ so với ngôn ngữ của các thể loại văn học khác có sự khác biệt ở chỗ: nó có nhịp điệu, có tính nhạc và ý ở ngoài lời “thi tại ngôn ngoại”.

– Ngôn ngữ khác: trong truyện, kí – ngôn ngữ kể chuyện; trong tác phẩm kịch – ngôn ngữ đối thoại.

– Ngôn ngữ thơ: giàu cảm xúc, nhịp điệu, nhạc điệu. Nhịp điệu là cách ngắt câu ngắt đoạn, tiếng bằng tiếng trắc, thanh bổng thanh trầm, nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, tâm hồn.

* Nguyễn Đình Thi trực tiếp bày tỏ quan niệm về thơ tự do và thơ không vần.

– Trước tiên, các tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ, sau đó sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn thành công. “Theo tôi những luật lệ của thơ từ âm điệu đến vần đều là những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Không phải hễ thiếu những vũ khí ấy trên trận đánh nhất định thua. Thiếu vũ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”.

– Đưa ra quan niệm: “Tôi nghĩ rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần”

– Định hướng cách hiểu về thơ:

“Tôi nghĩ rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.” Đây chính là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi.

* Nhận xét:

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi đúng đắn, tiến bộ, sát thực với tình hình thơ ca thời đại.

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Bài 4 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nêu rõ tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh… để làm sáng tỏ từng vấn đề đặt ra.

Trả lời

Nét tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ được thể hiện ở nghệ thuật lập luận, đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích bác bỏ, cách suy nghĩ logic.

– Cách lấy dẫn chứng: độc đáo, tinh tế, sát thực có tác dụng soi sáng cho luận điểm.

– Từ ngữ giàu có, ngôn ngữ chọn lọc được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo.

– Cách viết có hình ảnh, chân thực, độc đáo gợi nhiều liên tưởng.

Bài 5 trang 60 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị không? Vì sao?

Trả lời

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi dẫu đã cách đây hơn nửa thế kỉ, song vẫn còn nguyên giá trị, vì:

– Sáng tác thơ ca và thưởng thức thơ là những hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ, bất kì thời đại nào con người cũng có nhu cầu thể hiện tư tưởng.

– Dẫu quan niệm về thơ có đổi mới về một số mặt thi pháp nhưng luận điểm cơ bản trên đây vẫn còn giữ nguyên giá trị.

– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng sáng tạo và cảm thụ thơ ca.


Tổng kết

Tháng 9-1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý: đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Cùng với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số vấn đề thuộc quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên Văn nghệ số 10 – 1949. Bài tiểu luận này của Nguyễn Đình Thi nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ:

– Trước hết, tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng tri thức”.

– Sau đó, tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

+ Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà lóe sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ.

+ Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn nhà thơ.

+ Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong đó tình cảm, cảm xúc của thi nhân.

+ Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc.

– Tác giả quan niệm thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích.

– Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “Không có vần đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ.” Điều này là rột sự “phá cách” đối với thợ truyền thông.

Bài nghị luận về quan niệm thơ của Nguyễn Đình Thi được viết ra bằng cả tấm lòng của thi nhân với những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa cách tân, lại được viết bằng một lập luận trong sáng, chặt chẽ và một cách viết tài hoa. Hơn nửa thế kỷ đã qua, những quan niệm về thơ của ông vẫn có giá trị đối với ngày nay.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 4

I. Tác giả

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội, sinh ra ở Luông Pha Băng. Năm 1931 ông cùng gia đình về nước, hoạt động cách mạng từ năm 1941. Sau 1945. Ông là tổng thư kí Hội văn hóa cứu quốc, ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1958 – 1989: làm tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995 làm chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam.

Ông là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, phê bình văn học, sáng tác nhạc, soạn kịch, biên khảo triết học. Ở lĩnh vực nào ông cũng có đóng góp đáng ghi nhận.


2. Tác phẩm

Tháng 9 – 1949, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Hội nghị đã tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài “Mấy ý nghĩ về thơ” đăng trên Văn nghệ số 10 – 1949

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Nguyễn Đình Thi lí giải đặc trưng cơ bản của thơ là biểu hiện tâm hồn con người

Quan hệ giữa thơ và tâm hồn con người: thơ – con người có tác động qua lại với nhau

Ta nói trời hôm nay….muốn làm thơ
Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt
Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống
Khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người:

Thơ là một thứ nhạc….tình ý
Nhịp điệu thơ…sự xúc động
Kết luận: đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm


Câu 2 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Bên cạnh việc thể hiện tâm hôn con người, thơ còn mang nhiều yếu tố đặc trưng cơ bản khác cũng được Nguyễn Đình Thi đề cập đến:

Hình ảnh thơ “là hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy” ví như “những tia lửa tóe lên khi búa đập vào sắt trên đe” được thu lượm kết nên một bó sáng
Tư tưởng trong thơ “những tư tưởng trong thơ là tư tướng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống, Tư tưởng của nhà thơ năm ngày trong cảm xúc, tình tự”
Cảm xúc trong thơ “cảm xúc là phần xương thịt hơn cả của đời sống tâm hồn” “bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với suy nghĩ”.
Cái thực trong thơ “là những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. đó là những hình ảnh chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”


Câu 3 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Sự khác biệt:

Ngôn ngữ khác: trong truyện, kí – ngôn ngữ kể chuyện; trong tác phẩm kịch – ngôn ngữ đối thoại
Ngô ngữ thơ: giàu cảm xúc, nhịp điệu, nhạc điệu. Nhịp điệu là cách ngắt câu ngắt đoạn, tiếng bằng tiếng trắc, thanh bổng thanh trầm, nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, tâm hồn
Qua niệm về thơ tự do và thơ không vần: không có thơ tự do, thơ có vần hay thơ không vần, mà chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…

=> quan niệm đúng đắn và tiến bộ: ở thời đại mới, tình cảm nội dung mới, đòi hỏi một hình thức mới, điều quan trọng không phải thể loại thơ mà là thơ diễn tả đúng tâm hồn con người.

Câu 4 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Nghệ thuật lập luận của Nguyễn Đình Thi:

Nguyễn Đình Thi trình bày những quan niệm tinh tế,lập luận chặt chẽ, sắc sảo
Sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận só sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ, cách suy luận logic
Từ ngữ phong phú, ngôn ngữ chọn lọc, được vận dụng linh hoạt, sáng tạo
Cách viết có hình ảnh, chân thực, độc đáo.


Câu 5 trang 60 SGK ngữ văn 12 tập 1:

Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi dẫu đã cách đây hơn nửa thế kur, song vẫn còn nguyên giá trị, vì:

Sáng tác thơ ca và thưởng thức thơ là những hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ, bất kì thời đại nào con người cũng có nhu cầu thể hiện tư tưởng
Dẫu quan niệm về thơ có đổi mới về một số mặt thi pháp nhưng những luận điểm cơ bản trên đây vẫn còn nguyên giá trị
Qua niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng sáng tạo và cảm thụ thơ ca.

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 5

I. TÁC GIẢ:

1. Tiểu sử

– Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003), nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch. Ông học tiểu học và trung học ở Hà Nội và Hải Phòng. Học Đại học Luật Hà Nội.

– Năm 1941, ông tham gia phong trào Việt Minh, trong tổ chức cứu quốc Hà Nội. Từ năm 1942, Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết sách báo. Hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên yêu nước chống phát xít và trong Hội Văn hoá Cứu quốc.

– Năm 1945, ông là đại biểu Hội Văn hoá Cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, được cử vào ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam.

– Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông làm Tổng thư ký Hội Văn hoá Cứu quốc, đại biểu Quốc hội, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (1958 –1988).

– Năm 1995, Nguyễn Đình Thi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I– 1996.

2. Sự nghiệp văn học

– Nguyễn Đình Thi là một con người đa tài, viết văn, làm thơ, làm báo, sáng tác nhạc,… lĩnh vực nào tác phẩm của ông cũng được công chúng mến mộ, ưa thích. Ông còn là một người lãnh đạo văn nghệ giỏi được giới văn học nghệ thuật yêu mến.

– Về thơ, Nguyễn Đình Thi đã có những tập: Người chiến sĩ (1956), Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983), Trong cát bụi, Sóng reo (2001). Thơ ông cô đọng hàm súc, gợi mở hơn tả, giàu triết lí trầm tư, mang phong cách và bút pháp mới.

II. TÁC PHẨM MẤY Ý NGHĨ VỀ THƠ

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Tháng 9/1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý. Đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc

kháng chiến chống Pháp. Cùng với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một số vấn đề thuộc quan niệm về thơ.

– Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên Văn nghệ số 10-1949. Bài tiểu luận nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

– Phải đặt bài tham luận này vào thời điểm ra đời của nó mới thấy được sự sáng tạo trong lĩnh vực lí luận – phê bình, tư tưởng định hướng văn học của Nguyễn Đình Thi nói riêng và của giới nghiên cứu văn học ở ta nói chung.

– Chắc chắn tại thời điểm ấy, khả năng giao lưu phê bình văn học của ta với nước ngoài là rất hạn chế. Nhưng nhiều vấn đề được Nguyễn Đình Thi đưa ra trong bản tham luận là hết sức độc đáo, sâu sắc và luôn đúng trong bất kì thời điểm nào khi một ai đó muốn bàn về thơ.

2. Thể văn nghị luận văn học

– Nghị luận văn học là thể văn thuộc phê bình – lí luận. Người viết dùng lí lẽ để giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận,… một vấn đề nào đó của văn chương nhằm làm sáng tỏ điều mình muốn nói.

– Cũng giống như văn hư cấu (tự sự, thơ và kịch), văn nghị luận cũng sử dụng đầy đủ mọi sắc thái cảm hứng như trữ tình, mỉa mai, ca ngợi, đả kích,… Nhưng nghị luận văn học thì không hư cấu. Đối tượng nghiên cứu của nghị luận văn học là tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn chương…

– Văn nghị luận hấp dẫn người đọc bằng lối tư duy lô gic, đầy trí tuệ; lối văn thiên về hùng biện, có lúc dõng dạc, có lúc thiết tha để lay động lòng người.

– Văn nghị luận bao giờ cũng đòi hỏi người viết đưa ra ý kiến chủ quan của riêng mình. Vì vậy, khi viết, tác giả bao giờ cũng phải vận dụng phạm vi tri thức sách vở (lẫn tri thức cuộc sống tự nhiên, xã hội) rất lớn để làm dẫn chứng, nêu luận điểm, thường xưng tôi để đối thoại, trao đổi nhằm rút ra kết luận thoả đáng, có sức thuyết phục người đọc.

3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật

a) – Nguyễn Đình Thi đã phân tích sâu sắc đặc trưng cơ bản nhất về thơ là biểu hiện tâm hồn của con người. Ông đưa ra những câu hỏi không mang nghĩa nghi vấn mà mang nghĩa khẳng định: “Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?”.

– Khởi đầu một bài thơ, người viết phải có “rung động thơ”, sau đó mới làm thơ. Rung động thơ có được khi tâm hồn ra khỏi trạng thái bình thường, do có sự cố với trạng thái bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác mà tâm hồn con người thức tỉnh, bật lên những tình ý mới mẻ, còn làm thơ là thể hiện những rung động của tâm hồn.

b) Tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

– Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà loé sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ.

– Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn nhà thơ.

– Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong tình cảm, cảm xúc của thi nhân.

– Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc.

– Giải thích nguyên nhân thành công của sáng tạo thơ ca, Nguyễn Đình Thi ghi nhận, có lẽ không ngoài hai yếu tố: tài năng thiên bẩm của một người trực tiếp sáng tạo thơ bàn về thơ và tri thức về thơ được tích luỹ qua quá trình học tập, nghiên cứu bền bỉ.

c) Tác giả quan niệm thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích.

d) Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không cần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Điều này là một sự “phá cách” đối với thơ truyền thống.

e) – Bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, cách đưa dẫn chứng, cách sử dụng hình ảnh, từ ngữ tài tình, Nguyễn Đình Thi đã đưa ra những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về thơ và đặc trưng của thơ ca. Ông cho rằng “một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới”. Đa số các thời đại mới của nghệ thuật đều sáng tạo ra hình thức mới của riêng chúng .

– Những quan niệm của tác giả đến nay vẫn còn giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống và thực tiễn sáng tạo của thi ca.

Trả lời câu 1 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Nguyễn Đình Thi lí giải về đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người:
– Đặt vấn đề bằng một câu hỏi tu từ mang tính khẳng định: Đầu mối của thơ… chăng?
– Lí giải bằng lộ trình làm thơ: từ rung động thơ (tâm hồn ra khỏi tình trạng bình thường, tự soi vào nó, ở trong rung động khác thường) xuất hiện do va chạm với thế giới bên ngoài.
=> Làm thơ, dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời để thể hiện tâm trạng khác thường.
=> Truyền cảm hứng cho người đọc, nhận được sự cộng hưởng, cộng cảm.

Trả lời câu 2 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Tác giả giới thiệu về các yếu tố đặc trưng khác của thơ như sau:
– Hình ảnh: phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống/một trạng thái nào đó, đụng chạm với hành động hàng ngày… kết nên một bó sáng, đó là hình ảnh thơ.
– Tư tưởng: nằm ngay trong cảm xúc, gắn liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống.
– Cảm xúc: là yếu tố quan trọng nhất để có thơ, cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn.
– Cái thực: là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc, là sự thành thực của ý nghĩ, tình cảm đang diễn ra trong lòng.

Trả lời câu 3 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Bàn về ngôn ngữ thơ:
– Theo tác giả, so với ngôn ngữ các thể loại văn học khác thì ngôn ngữ thơ đặc biệt vì:
+ Ngoài giá trị ý niệm, biểu đạt ý nghĩa khách quan thì ngôn ngữ thơ có sức biểu cảm, sức gợi kì diệu, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ.
+ Điều đó có trong nhịp điệu của thơ, nhịp điệu đến từ lời thơ và đến từ hình ảnh, tình ý, cảm xúc.
– Về thơ tự do, thơ không vần, tác giả cho rằng không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần mà chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ.
=> Điều quan trọng là thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại, diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay.

Trả lời câu 4 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Nghệ thuật đặc sắc của bài tiểu luận:
– Văn phong gần gũi, thân tình, chia sẻ tâm huyết, quan niệm và tình cảm chân thành với những người đồng nghiệp về thơ ca.
– Nghệ thuật lập luận hấp dẫn: hệ thống luận điểm chặt chẽ tiến bộ, trải nghiệm sâu sắc, tư duy sắc bén, hình ảnh sống động, từ ngữ sắc sảo, dẫn chứng giàu sức lay động.
– Kết hợp nhuần nhuyễn chính luận và trữ tình, nhiều câu nhiều đoạn mềm mại, giàu chất thơ.

Trả lời câu 5 (trang 60 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì:
– Sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng.
– Sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt (tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, sự lí giải hấp dẫn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống).

Bài soạn “Mấy ý nghĩ về thơ” số 6

I. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh ra đời

Tháng 9 – 1949, có một sự kiện văn nghệ đáng chú ý, đó là Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc nhằm đẩy mạnh phong trào sáng tác văn nghệ theo đường lối của Đảng để phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Cung với kịch của Lộng Chương, văn của Nguyễn Tuân, Hội nghị còn tranh luận về thơ của Nguyễn Đình Thi và mở rộng ra một vấn đề thuộc quan niệm về thơ. Nguyễn Đình Thi đã phát biểu quan niệm của mình về thơ trong bài Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên báo Văn nghệ số 10 – 1949. Bài tiểu luận này của Nguyễn Đình Thi nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

2. Nội dung tác phẩm

Tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết rằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng tri thức”.

Đồng thời, tác giả phân tích những yếu tố đặc trưng khác của thơ:

Hình ảnh phải từ cảm xúc mà có, mà lóe sáng trong thơ và hiện lên một cách tự nhiên trong lòng nhà thơ..
Nhịp điệu, nhạc điệu trong thơ quan trọng nhất là nhịp điệu, nhạc điệu bên trong tâm hồn thơ.
Ngôn ngữ trong thơ phải có hồn, có sức gợi, phải kết tinh trong đó tình cảm, cảm xúc của thi nhân.
Đường đi của thơ là con đương đưa thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến trái tim người đọc.
Tác giả quan niệm thơ là tổng thể, kết tinh. Văn xuôi cho phép khuông mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn đòi hỏi sự toàn bích.

Về thơ tự do, thơ không vần, Nguyễn Đình Thi có một số quan niệm rất mới, có thể nói là rất táo bạo trong bối cảnh lúc bấy giờ: “Không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Điều này là một sự “phá cách” đối với thơ truyền thống.

II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):

Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người:
+ Quan hệ giữa thơ với tâm hồn con người
• Ta nói trời hôm nay nên thơ nhưng chính ra là lòng chúng ta mong một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ.
• Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt.
• Những câu, những lời thơ diễn lên “Làm sống ngay lên một tình cảm, một nổi niềm trong lòng người đọc”.
• Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống.
Thơ với con người có sự tác động qua lại lẫn nhau.
+ Khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người.
• Thơ là một thứ nhạc, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý.
• Nhịp điệu thơ được hình thành từ những cảm xúc, hình ảnh và trong khoảng im lặng “cũng là noei lưu trú ngụ kín đáo của sự xúc động”
• Kết luận: đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm. Điều đó có nghĩa thơ là biểu hiện của tâm hồn con người

Câu 2 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Hình ảnh trong thơ:
+ Phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống nào đó.
+ Hình ảnh trong thơ bao giờ cũng mới mẻ, tươi nguyên.
– Tư tưởng trong thơ:
+ đó phải là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống.
+ Tư tưởng trong thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự.
– Cảm xúc: là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn của thơ.

Câu 3 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– So sánh ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi: Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, không quanh co… Trong khi văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước đưa ta đi lần lượt từ điểm này qua điểm khác thì thơ chỉ chọn một điểm chính bấm vào những điểm ấy thì toàn thể đóng lên theo
– Quan niệm về thơ tự do và thơ không vần.
+ Trước tiên tác giả công nhận vai trò sức mạnh của vần, nhịp, luật thơ.
+ Sau đó bác bỏ để khẳng định không có nó người làm thơ vẫn cứ thành công: Theo tôi những luật lệ của thơ từ âm điệu đến vần đều là những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nhưng không phải hễ thiếu những vũ khí ấy là trận đánh nhất định thua. Thiếu võ khí ấy trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng
+ Từ đó đưa ra quan niệm : …không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần
+ Định hướng cách hiểu về thơ: Tôi cho rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác mà trước hết nên lo sao phải nói lên được những tình cảm tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới hiện nay.
+ Đây chính là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong quan niệm về thơ của NĐT.

Câu 4 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích, giải thích, bác bỏ, cách suy luận logic.
– Từ ngữ giàu có, ngôn ngữ chọn lọc, được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo.
– Cách viết có hình ảnh, hình ảnh chân thực, độc đáo, gợi nhiều liên tưởng.

Câu 5 (trang 50 sgk Văn 12 Tập 1):
– Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn nguyên giá trị.
– Bởi:
+ Ông chỉ ra rằng dù hình thức thơ có thay đổi như thế nào thì thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.
+ Nghệ thuật có kỉ luật sắt của nó nhưng không phải là những thứ trói buộc, lề lối định sẵn trong thơ.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 10 bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Đình Thi

Nhà văn Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 tại Luang Prabang (Lào), quê gốc ở làng Vũ Thạch, Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống cùng gia đình ở Lào. Từ năm 1931 ông theo gia đình về nước và đi học ở Hà Nội, Hải Phòng. Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ lúc 17 tuổi. Năm 1943 ông tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông làm Tổng Thư ký Hội Văn hoá Cứu quốc, uỷ viên tiểu ban Dự thảo Hiến pháp và Uỷ viên Ban thường trực Quốc hội (khoá I). Trong kháng chiến chống Pháp ông hoạt động văn hoá phục vụ kháng chiến, đầu quân tham gia nhiều chiến dịch và sáng tác văn học. Ông giữ trách nhiệm Tổng Thư ký Hội Văn nghệ (1956-1958). Từ 1958 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III. Trước khi mất ông là Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957. Nguyễn Đình Thi mất ngày 18 tháng 4 năm 2003. phongnguyet.info xin giới thiệu các bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Đất nước

Đất nước

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da…

Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

1948-1955

Bài thơ này từng được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, nhưng đã được chuyển thành đọc thêm trong SGK Ngữ văn 12 từ 2007.

Bản chép ở trên được in trong tập Tia nắng (NXB Văn học, 1983) và tập Người chiến sĩ (NXB Văn nghệ, 1956). Theo Thơ Việt Nam 1945-1960 (NXB Văn học, 1960) thì sau câu “Lòng dân ta yêu nước thương nhà” còn có thêm bốn câu:
Những làng xóm mọc lên luỹ thép
Những ruộng vườn thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng trên đất chết
Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi
Và câu “Lòng ta bát ngát ánh bình minh” in là: “Đây những người con Hồ Chí Minh”.
Dưới đây là bản chép tay của Nguyễn Duy năm 1948 theo bản được phổ biến lần đầu tiên, trước khi được tác giả sửa lại như trên vào năm 1955:
Sáng mắt trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy
Ôi nắng dội chan hoà
nao nao trời biếc
Nắng nhuộm hương đồng ruộng hương rừng chiến khu
Tháp Rùa lim dim nhìn nắng
mấy cánh chim non trông vời nghìn nẻo
Mây trắng nổi tơi bời
Mấy đứa giết người hung hăng một buổi
Tháng Tám về rồi đây
hôm nay nghìn năm gió thổi
Ðàn con hè phố môi hồng hớn hở
ngày hẹn đến rồi
Hôm nay nghìn năm trời muôn xưa
Các anh ngậm cười bãi núi ven sông.
Hà Nội ơi núi rừng.

Nguồn:
1. Tia nắng, NXB Văn học, 1983
2. Người chiến sĩ, NXB Văn nghệ (tiền thân của NXB Văn học), 1956
3. Thơ Việt Nam 1945-1960, NXB Văn học, 1960
4. Tuyển tập Nguyễn Đình Thi (tập 3), NXB Văn học, 1997

Bài thơ: Lá đỏ

Lá đỏ

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.

Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.

Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.

Em vẫy cười đôi mắt trong.

(Trường Sơn, 12/1974)

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009

Bài thơ: Việt nam quê hương ta

Việt nam quê hương ta

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn

Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung

Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ

Nước bâng khuâng những chuyến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường

Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bũa cơm rau muống quả cà giòn tan…

Bài thơ: Mùa thu vàng

Mùa thu vàng

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Nào ai biết việc đời đưa rất lạ
Tôi đến một nơi gió núi xôn xao
Trong rừng sâu triền miên xa tất cả
Như đã về đây từ một thuở nào

Tôi đi mãi vào ngàn thông rợp bóng
Như đi sang một cõi khác nào rồi
Quên hết cả chỉ thấy trời xanh rộng
Và mùa thu im lặng ở quanh tôi

Đã có mùa xuân đời tôi không nhỉ
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa

Và hôm nay một mình trên đất lạ
Tôi chợt nhận ra đã tới mùa thu
Bao nhiêu chuyện tôi không còn nhớ nữa
Với cả bao nhiêu nét mặt đã mờ

Tôi nhìn lại tất cả chìm nhòa hết
Rồi sương tan dần ánh sáng lặng trong
Cho tôi nhìn về mãi xa xa tít
Bỗng nhiên tôi thấy rõ một bờ sông

Bóng áo vải thô một cô gái nhỏ
Hàng trẩu cao đường đỏ lá vàng hoe
Em tiễn anh lính đi nơi đạn lửa
Môi run run em chúc có ngày về

Em gái ơi tôi vẫn đây còn sống
Còn em bây giờ ở nơi đâu
Bao nhiêu nước đã trôi bao nhiêu sóng
Nơi dòng sông xanh in bóng núi cao

Ôi mùa thu hôm nay nghiêng cánh vàng
Đưa tôi bay về nơi nguồn tìm em.

Đây là một trong 3 bài thơ cuối cùng của Nguyễn Đình Thi (Mùa thu vàng, Gió bay và Núi xưa).

Nguồn: Trong cát bụi (thơ), Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, 1992

Bài thơ: Quê hương Việt Bắc

Quê Hương Việt Bắc

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Hoa lau phơ phất quấn chân
Gió cháy mặt người chiến sĩ
Rời đồng bằng lên rừng núi
Ta đi đã mấy mùa xuân

Sơn La những lũng đầy sương
Những đồi vàng hoe lúa chín
Những buổi rời tay bịn rịn
Châu đi quấn quýt bờ mương

Còn đâu những bản mường yêu dấu
Giặc đến trời hoang đất ngập tro
Nhớ bước lui quân lòng rỏ máu
Ôi nắm xôi bà cụ Thái cầm cho

Lòng ta vẫn ở trên Tây Bắc
Những đêm thao thức tiếng từ quy
Ta khóc hờn căm thề giết giặc
Sông Đà ơi ta sẽ trở về

Từ những ngày đầu non nớt ấy
Ta đã đi – đi tới không ngừng
Trên những con đường đầy lửa cháy
Lòn ta nặng nghĩa quê hương

Lòng ta không ngừng ca hát
Ôi những núi chàm sáng ngời
Ta yêu những rừng Việt Bắc
Nơi ta khôn lớn lên người

Quê hương ta núi sông lộng lẫy
Mỗi lần vùng dậy lại đẹp hơn
Mỗi tấc đất ngày đêm bỏng giẫy
Mỗi lòng người như nước suối trong

Cao Bằng đèo lên cao vút
Mây trắng gọi người đi xa
Ta đạp quân thù ngã gục
Ta chào thế giới về ta

Lạng Sơn rừng hồi lộng gió
Đêm đêm vang tiếng cọp gầm
Sông Kỳ Cùng ào ào sóng đổ
Những ngày mải miết hành quân

Sông Thoa hiền từ cuộn đỏ
Ta về chiến thắng huy hoàng
Chị lái đò cười đon đả
Chào anh bộ đội sang ngang

Ta yêu những dòng sông Việt Bắc
Đã bao lần tiễn bước quân đi
Đã bao lần đục ngầu máu giặc
Những bờ sông kể chuyện thầm thì

Ta yêu những buổi trưa đầm ấm
Em bé trồng rau đuổi lũ gà
Ta yêu những nẻo đường thêu nắng
Chưa bao giờ đẹp như bây giờ

Đất nghèo càng chắt chiu yêu quý
Củ mài Yên Bái sắn Tuyên Quang
Gian khổ đã nuôi lòng chiến sĩ
Ta yêu bà mẹ Mán Cao Lan

Còn đây mãi sông Lô sông Chảy
Đại bác gầm lên tiếng tự hào
Lửa Phố Ràng, phố Lu còn cháy
Bến Bình Ca sóng vỗ xôn xao

Ta tới núi xanh và suối bạc
Ngang trời Tam Đảo đứng nghiêng nghiêng
Ôi Cao Vân, Phú Minh, Quảng Nạp
Trái tim ta đập ở Thái Nguyên

Mỗi tảng đá gốc cây bờ cỏ
Như thiêng liêng phơ phất bóng cờ
Ta đã tìm cây đa lịch sử
Hòn đất chôn rau nước Cộng hoà

Một nhà sàn đơn sơ vách nứa
Bốn bên suối chảy cá bơi vui
Đêm đêm cháy hồng lên bếp lửa
Ánh đèn khuya còn sáng trên đồi

Nơi đây sống một người tóc bạc
Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi Người là Bác
Cả đời người là của nước non

Việt Bắc quê hương ta sáng chói
Đất tự do của những anh hùng
Chim bay rợp trời mây rộng rãi
Quân đi rung chuyển những sông rừng

Bàn tay trắng ta giằng lấy súng
Chân không giầy đạp nát đồn Tây
Trong áo rách lòng ta có Đảng
Giữa nghìn dông bão chẳng lung lay

Người chiến sĩ bước đi phơi phới
Nắng mưa Việt Bắc đã vàng người
Chiều chiều ca hát quê hương mới
Mỗi bước đi lòng một thắm tươi.

1950

Một đoạn của bài thơ này được trích in trong sách giáo khoa cấp I (bộ cũ) với tiêu đề Bác Hồ ở chiến khu.

Bài thơ: Nhớ

Nhớ

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

1945

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Vân phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Bài thơ: Chia tay trong đêm Hà Nội

Chia tay trong đêm Hà nội

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Em đi với anh trong đêm Hà Nội
Qua những phố hè quen thuộc yêu thương
Dọc hàng cây ánh đèn pha cuốn bụi
Từng đoàn xe cao xạ chạy rung đường

Pháo đang bắn trời ngoại ô gió thổi
Đạn đỏ loè xa trong ánh trăng
Em đi bên canh tóc xoà bay rối
Nhỏ nhắn vai em khoác súng trường

Nhìn em anh hãy còn bỡ ngỡ
Như sợ bất ngờ em biến đi đâu
Pháo vẫn bắn chân mây đầy chớp lửa
Anh lại nhìn em lòng xôn xao

Trăng soi gương mặt nghìn yêu dấu
Ngày mai hai đứa đã hai nơi
Hai đầu đất nước trong dông bão
Cùng chung chiến đấu hai phương trời

Đêm nay trong vườn hoa ngổn ngang ụ súng
Bên ven hồ lốm đốm trăng xanh
Nghe quanh ta đêm hè nóng bỏng
Mắt bồi hồi em đi bên anh

Em đi với anh qua bến xe đông chật
Bao gia đình vội vã lúc ra đi
Em nhìn những mái nhà cao thấp
Đã bao lần thấy những cuộc chia ly

Kìa xa xa một cụm đèn lấp lánh
Giữa trời đêm như đang vẫy đang chào
Chiếc máy bay ta lượn vòng nghiêng cánh
Bay qua vầng trăng điểm mấy ngôi sao

Em nhìn bên dãy tường sập đổ
Xưởng thợ lò than vẫn rực hồng
Nhà máy vẫn rì rầm không ngủ
Lập loè đèn hàn điện bên sông

Em đi với anh trên đê cao vắng
Một tiếng còi xe lửa huýt dài xa
Gió đưa khúc nhạc em yêu văng vẳng
“Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm mãi lòng ta”

Trên gác nhỏ đèn dầu ai vẫn thức
Em vẫn đi và vẫn lắng yên
Có tiếng ru đứa trẻ nào đang khóc
Đêm đã khuya trong phố cũ êm đềm

Anh nắm cánh tay em và đứng lại
Ôi anh không còn biết đang ở đâu
Nhớ nhau chân cứng đá mềm em nhé
Hẹn đánh Mỹ xong sẽ về tìm nhau

Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.

Bài thơ: Người tử sĩ

Người tử sĩ

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Mũ sắt mờ trong sương phủ
Anh nằm yên như ngủ say
Máu thấm đầy manh áo cũ
Nửa đường anh ngã xuống đây

Để anh trên sườn núi vắng
Không biết có bao giờ trở lại
Một ngày về tìm anh ở đâu
Giữa rừng nghìn lối cỏ lau

Nắm súng chào anh lần cuối
Chúng tôi lại đi mê mải
Nắng lên nhuộm đỏ hàng cây
Véo von những tiếng chim rừng.

(1948)

Bài thơ: Những tiếng hát

Những tiếng hát

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Chiều dần tắt gió ù ù nổi
Ánh đèn trên mặt biển chập chờn
Trong một quán hàng đen muội khói
Lính thuỷ ngồi chen uống rượu suông

Dưới ngọn đèn dây loe ánh đỏ
Người bạc đầu nhìn kẻ còn măng
Những gò má sạm màu sương gió
Những cánh tay lực lưỡng ngang tàng

Họ nín lặng nghe nàng thiếu nữ
Mắt biếc xanh màu nước xa khơi
Tóc xoã mây vàng đôi vú thở
Phập phồng theo tiếng nhạc tuyệt vời

Tiếng hát ngọt ngào như suối chảy
Dịu dàng như lời mẹ dỗ con
Bâng khuâng thương nhớ buồn tê tái
Như mắt người chinh phụ héo hon

Ôi tiếng hát Nga sao vời vợi
Như thảo nguyên xa rộng mênh mông
Gió cát mịt mù trên cỏ cháy
Chim rơi cánh mỏi giữa tầng không

Như tiếng gió gầm trên núi vắng
Như tiếng quân reo giữa chiến trường
Như cánh chim âu đùa với sóng
Gọi biển trào lên đón nắng vàng

Tiếng hát bay lên cao phấp phới
Như gió xuân rũ lá bạch dương
Như những mảng trời xanh đang vẫy
Như tiếng chim trên tuyết trắng hồng

Tiếng hát đã ngừng trong giây lát
Những dư âm còn vọng lạ lùng
Cô gái mắt nhìn quanh ngơ ngác
Như còn say tiếng hát chưa xong

Đoàn thuỷ thủ chân trời góc biển
Đời lênh đênh đã cứng tim gan
Mà sao cũng bàng hoàng xao xuyến
Lắm kẻ chau mày lệ chứa chan

Ta muốn hát muốn cười ta khóc
Nước mắt ta lã chã vơi đầy
Hãy rót nữa rượu tràn trên cốc
Uống đi các bạn cả đêm này

Từng bàn rượu những người thuỷ thủ
Bá vai nhau cùng hát vang lừng
Trong tiếng hát tràn đầy thương nhớ
Họ tưởng bay về tới cố hương

Có phải tiếng hò rô kéo gỗ
Trên bãi lau hầm hập nắng trưa
Quằn quại những lưng người chín đỏ
Dòng sông dài uể oải về xa

Có phải kéo dài trên sa mạc
Bóng lạc đà đi miết buổi chiều
Lều vài quây vòng bên giếng nước
Lửa bập bùng tiếng hát đăm chiêu

Đêm nơi đâu sương mù bay toả
Trăng soi thấp thoáng mái tranh nghèo
Bễ lò rèn phì phò thở lửa
Chú bé ngồi mơ nghe dế kêu

Đâu tiếng sáo vi vu đùa gió
Dưới trời sao vằng vặc đêm hè
Ôm chặt người yêu trên đệm lá
Thì thầm đang hát kẻ chăn dê

Trên núi tuyết cao cao có phải
Mùa xuân đang tới tiếng chim gù
Xanh vút hàng thông soi bóng suối
Rừng sâu cọc cạch búa tiều phu

Và nắng gội cánh đồng vàng rạ
Chiều gặt xong đoàn thợ gặt về
Có phải bên sông cười rộn rã
Ướt loáng đôi vai cô gái quê…

Bài thơ: Đôi mắt

Đôi mắt

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Mắt em nhìn
Nghìn muôn xa cách
Trăng soi lặng yên
Rừng núi
Đêm này

Em cười
Sao anh gục buồn thế

Tóc dài mộng ấm
Mùa thu vàng hoe đôi mắt xa
Anh ngồi giữa đáy buổi chiều
Lúa ào vào mặt

Em cười
Sao anh gục buồn thế

Tự nhiên
Trên tay anh mái đầu yêu đã lạnh
Anh nhìn
Xa quá
Em mỉm cười
Mãi mãi

1949

Nguồn: Sóng reo (thơ), Nguyễn Đình Thi, NXB Hội nhà văn, 2001

Nguyễn Đình Thi là một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam. Những bài thơ của ông được yêu thích bởi nhiều thế hệ người đọc và luôn sống mãi với thời gian