Top 10 Bài văn vần, bài thơ, câu đố giúp học sinh tiểu học nhanh thuộc bài hay nhất

Nhằm tạo sự hứng thú trong học tập cũng như giúp học sinh nhanh thuộc bài, hiểu bài thì các bài văn vần, bài thơ, câu đố thường được rất nhiều các thầy cô giáo áp dụng. Và hôm nay, trong bài viết này, phongnguyet.info xin giới thiệu đến bạn những bài văn vần, bài thơ, câu đố giúp học sinh tiểu học nhanh thuộc bài hay nhất.

Bài văn vần giúp học sinh nhớ bảng chữ cái

A. A ha, a ha

Ă. Ăn quà trong lớp

Â. Ấy điều không tốt

B. Bạn biết hay không ?

C. Chớ có phí công

D. Dung dăng hàng quán

Đ. Để thầy lên án

E. E ngại mẹ cha

Ê. Ề à bạn la

G. Gặp cười xấu xấu

H. Hiểu bài không thấu

I. Im ắng ngồi lo

K. Không có điểm to

L. Lặp toàn hai ngỗng

M. Muốn mình biết rộng

N. Nhớ phải học nhiều

O. Oi bức vẫn chiều

Ô. Ốm thì mới nghỉ

Ơ. Ới đừng hoang phí

P. Phân tán thời gian

Q. Quyết vượt gian nan

R. Ra công khổ luyện

S. Sẽ không còn chuyên

T. Thầy mắng bạn la

U. U uất mẹ cha

Ư. Ức mình kém cõi

V. Việc trên rành rẽ

X. Xin bảo giúp trò

Y. Yêu cầu nhớ cho.

Nguồn: Internet

Bài văn vần nhớ công thức toán học

Muốn tính diện tích hình thang
Đáy lớn, đáy bé ta mang cộng vào
Rồi đem nhân với chiều cao
Chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra

Nguồn: internet

Cách tính chu vi – diện tích – thể tích các hình ở tiểu học

Muốn tính diện tích hình vuông
Cạnh nhân chính nó vẫn thường làm đây
Chu vi thì tính thế này
Một cạnh nhân bốn đúng ngay bạn à.

Diện tích tam giác sao ta
Chiều cao nhân đáy chia ra hai phần.

Diện tích chữ nhật thì cần
Chiều dài, chiều rộng ta đem nhân vào
Chu vi chữ nhật tính sao
Chiều dài, chiều rộng cộng vào nhân hai.

Bình hành diện tích không sai
Chiều cao nhân đáy ai ai cũng làm.

Muốn tính diện tích hình thang
Đáy lớn đáy nhỏ ta mang cộng vào
Xong rồi nhân với chiều cao
Chia đôi lấy nửa thế nào chẳng ra.

Hình thoi diện tích sẽ là
Tích hai đường chéo chia ra hai phần
Chu vi gấp cạnh bốn lần.

Lập phương diện tích toàn phần tính sao
Sáu lần một mặt nhân vào
Xung quanh nhân bốn thế nào cũng ra
Thể tích ta sẽ tính là
Tích ba lần cạnh sẽ ra chuẩn liền

Hình tròn, diện tích không phiền
Bán kính, bán kính nhân liền với nhau
Ba phẩy mười bốn nhân sau
Chu vi cũng chẳng khó đâu bạn à
Ba phẩy mười bốn nhân ra
Cùng với đường kính thế là xong xuôi.

Xung quanh hình hộp dễ thôi
Tính chu vi đáy xong rồi nhân ra
Cùng chiều cao nữa thôi mà
Thể tích hình hộp chúng ta biết rồi
Tích ba kích thước mà thôi
Để giải hình tốt bạn ơi thuộc lòng.

Nguồn: Internet

Bài thơ tìm trung bình cộng 2 số

Để tìm được số trung bình Tổng các số hạng, nào mình tính ra.

Số trung bình cộng sẽ là

Tổng chia đầu số(*), chúng ta cùng làm.

Bài thơ tính vận tốc – quảng đường – thời gian

Bạn ơi vận tốc tính sao?

Quãng đường mình lấy chia vào thời gian.

Quãng đường để tính, cần làm

Ta mang vận tốc, thời gian nhân vào.

Còn thời gian tính thế nào?

Quãng đường, vận tốc chia vào cho nhau.

Nguồn: internet

Bài thơ tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số

Muốn tìm số bé thì cần Tổng trừ đi hiệu, hai phần chia ra.

Muốn tìm số lớn thì ta

Lấy tổng cộng hiệu, chia ra hai phần.

Tìm được một số thì cần (**)

Lấy tổng trừ nó để lần số kia.

(**): sau khi tìm được số lớn hoặc số bé ta lấy tổng trừ nó để tìm số còn lại, cách này nhanh hơn

Nguồn: internet

Bài thơ cộng, trừ, nhân, chia phân số

Cộng hai phân số với nhau Mẫu cùng: tử trước tử sau cộng vào

Nếu mà khác mẫu thì sao?

Quy đồng mẫu số, cộng vào như trên.

Mẫu chung ta phải giữ nguyên Rút gọn (nếu có) chớ quên bạn à.

Trừ hai phân số thì ta

Giống như phép cộng thay là trừ thôi.

Nhân hai phân số biết rồi Tử sau tử trước bạn ơi nhân nào

Tiếp tục hai mẫu nhân vào Rút gọn (nếu có) thế nào cũng ra.

Chia hai phân số sẽ là

Phân số thứ nhất chúng ta nhân cùng Số chia đảo ngược là xong

Bạn làm tốt nếu THUỘC LÒNG đó nha.

Bài văn vần học chính tả

Chữ r rửa rổ rá xong

Réo ra réo rắt hát rong lưng bò

Chữ p đẽo khẩu súng to

Pằng pằng nó bắn, nó bò trên cây

Ích xì (x) xỉn, ét sờ (s) say

Ôm nhau uống ruợu tối ngày buồn không?

Chữ k kéo gỗ bờ sông

Kiếm củi, kiếm gạo, kiếm đồng nuôi con

Chữ q như quả dừa non

Quấn qua, quấn quýt, quấn tròn quanh cây

Chữ nh nhấp nhổm nhảy dây

Nhún nha nhún nhảy tính giây đếm vòng

Chữ g giống số 9 không

Đến trường đến lớp quyết không bỏ bài

Nghe th thủ thỉ bên tai

Anh ơi em muốn nhớ bài đọc thơ

Vì sao nhiều chữ ng; g

Ng đơn, ngh kép bao giờ khác nhau?

I, e, ê đứng đằng sau

gh kép, ngh kép ta mau ghép vào

Đến trường thích thú vui sao

Bao nhiêu bổ ích đọng vào trong em…

Câu đố vui cho học sinh tiểu học

1. Da trắng muốt. Ruột trắng tinh. Bạn với học sinh. Thích cọ đầu vào bảng?

Đáp án: Viên phấn

2. Cày trên đồng ruộng trắng phau. Khát xuống uống nước giếng sâu đen ngòm?

Đáp án: Cây bút mực

3. Cây suôn đuồn duột. Trong ruột đen thui. Con nít lui cui. Đem đầu đè xuống?

Đáp án: Cây bút chì

4. Cái gì chứa nhiều nước nhất mà không ướt?

Đáp án: Bản đồ

5. Có mặt mà chẳng có đầu/ Bốn chân có đủ không cầu có tay/ Học trò kẻ dở, người hay/ Ai ai cũng phải hàng ngày nhớ em?

Đáp án: Cái bàn học

6. Có chân mà chẳng biết đi. Có mặt phẳng lì cho bé ngồi lên?

Đáp án: Cái ghế

7. Lấp la lấp lánh. Treo ở trên tường. Trước khi đến trường. Bé soi chải tóc?

Đáp án: Cái gương soi

8. Cái gì bật sáng trong đêm. Giúp cho nhà dưới nhà trên sáng ngời?

Đáp án: Bóng đèn

9. Quả gì không phải để ăn. Mà dùng để đá, để lăn để chuyền?

Đáp án: Quả bóng

10. Hè về áo đỏ như son. Hè đi thay lá xanh non mượt mà. Bao nhiêu tay tỏa rộng ra. Như vẫy như đón bạn ta đến trường?

Đáp án: Cây phượng

Câu đố thông dụng khi dạy tiếng Việt

Câu đố dùng trong môn tiếng việt chủ yếu dành cho các tiết dạy học vần, chính tả, luyện từ và câu, là câu đố về thanh và chữ, về vần nhằm giúp học sinh thêm ghi nhớ các thanh, các chữ, phân biệt được các âm vần dễ lẫn trong tiếng việt. Đó là những câu đố đổi thanh, đổi dấu, đổi vị trí.

Trên đây là danh sách các bài văn vần, bài thơ, câu đố giúp học sinh tiểu học nhanh thuộc bài hay nhất. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích gì đó cho bạn!

Top 6 Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Nếu làm một bài văn nghị luận về một tác phẩm (hay đoạn trích) là nêu lên nhận xét, đánh giá, quan điểm của cá nhân về nội dung, phong cách nghệ thuật của tác phẩm đó. Vậy một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ có khác gì khi làm một bài văn nghị luận về một tác phẩm (hay đoạn trích). Bài học “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” Ngữ văn 9
giúp học sinh nắm được kiến thức của bài học, đồng thời biết làm một bài văn nghị luận theo dạng này và cách trình bày nội dung cũng như phong cách nghệ thuật của một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ được thể hiện như thế nào để rõ ràng và mang lại hiệu quả cao nhất. Mời các bạn tham khảo một số bài hay nhất soạn mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 1

I. Tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a, Vấn đề nghị luận: cảm xúc chân thành, thiết tha, ước nguyện cống hiến của nhà thơ Thanh Hải

b, Chủ đề:

– Hình ảnh trong thơ Thanh Hải mang nhiều tầng nghĩa, gợi lên cảm xúc trong trẻo, đáng yêu

– Bức tranh mùa xuân với màu sắc, âm thanh thiết tha, trìu mến, dịu dàng

– Từ mùa xuân tươi đẹp của quê hương, đất nước, của ước nguyện hòa nhập, dâng hiến chân thành

→ Người viết thuyết phục bằng cách phân tích, bình giảng, nhận định hình ảnh thơ, cảm hứng, giọng điệu, kết cấu

c, Bố cục 3 phần cân đối

Mở bài (từ đầu… đáng trân trọng

Thân bài: đoạn 2, 3, 4, 5

Kết bài: đoạn còn lại

d, Người viết cảm nhận bài thơ với sự yêu mến, tin tưởng với tình cảm chân thành thể hiện rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài mùa xuân nho nhỏ.

– Cách diễn đạt mạch lạc, gợi cảm

Luyện tập

(trang 79 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2): Ngoài các luận điểm …

Có thể lưu ý thêm một số luận điểm:

– Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca.

– Mạch cảm xúc tự nhiên, kết cấu chặt chẽ, giàu sức gợi mở.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 2

Phần I: TÌM HIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Đọc văn bản Khát vọng hòa nhập (trang 77, 78b SGK Ngữ văn 9 tập 2), dâng hiến cho đời và trả lời câu hỏi.

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì?

b) Văn bản nêu lên những luận điểm gì về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ? Người viết đã sử dụng những luận cứ nào để làm sáng tỏ các luận điểm đó?

c) Chỉ ra các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài; nhận xét về bố cục của văn bản.

d) Cách diễn đạt trong từng đoạn của văn bản có làm nổi bật được luận điểm không?

Trả lời:

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là hình ảnh mùa xuân và tình cảm tha thiết của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

b) Văn bản nêu lên những luận điểm về đặc sắc nổi bật của hinh ảnh mùa xuân trong bài thơ:

+ Hình ảnh mùa xuân mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong đó, mùa xuân nào cũng thật gợi cảm, cũng thật đáng yêu.

+ Bức tranh xuân rạo rực của thiên nhiên đất nước trong cảm xúc thiết tha trìu mến của thi sĩ.

+ Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” thể hiện khát vọng hòa nhập, dâng hiến cho đời của thi sĩ được nối kết hết sức tự nhiên với mùa xuân của thiên nhiên đất nước bên trên.

Để làm sáng tỏ các luận điểm vừa nói, người viết đã chọn giảng bình các câu thơ, các hình ảnh đặc sắc cũng như đã phân tích giọng điệu trữ tình và kết câu của bài thơ.

c) Phần mở bài: Đoạn đầu (từ mùa xuân là mùa… đến cống hiến thật đáng trân trọng).

Phần thân bài: Ba đoạn kế tiếp (từ hình ảnh mùa xuân đến… sự láy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân): Trình bày cảm nhận, đánh giá về hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải. Đây cũng là phần triển khai các luận điểm.

Phần kết bài: Đoạn còn lại: Đánh giá chung bài thơ giữa các phần nói trên của văn bản đều có sự liên kết tự nhiên về ý và về diễn đạt.

d) Người viết trình bày cảm nhận đánh giá của mình một giọng điệu đầy cảm xúc với tình cảm thiết tha trìu mến.


Phần II: LUYỆN TẬP

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên, hãy suy nghĩ và nêu thêm các luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Trả lời:

Có thể lưu ý thêm một số luận điểm:

Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca.

Mạch cảm xúc tự nhiên của bài thơ được thể hiện trong một kết cấu chặt chẽ, giàu sức gợi mở.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 3

I – Tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi (Văn bản trang 77 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Câu hỏi :

a) Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì ?

b) Văn bản nêu lên những luận điểm gì về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ? Người viết đã sử dụng những luận cứ nào để làm sáng tỏ các luận điểm đó ?

c) Chỉ ra các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài; nhận xét về bố cục của văn bản.

d) Cách diễn đạt trong từng đoạn văn của văn bản có làm nổi bật được luận điểm không ?

Trả lời :

a) Vấn đề nghị luận: hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

b) Những luận điểm chính :

– Luận điểm 1 : Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa, và hình ảnh nào cũng gợi cảm, đáng yêu.

– Luận điểm 2 : Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất nước trong cảm xúc thiết tha, trìu mến của nhà thơ.

– Luận điểm 3 : Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ thể hiện khát vọng hoà nhập, dâng hiến được nối kết tự nhiên với hình ảnh mùa xuân thiên nhiên, đất nước ở trước.

Để làm sáng tỏ luận điểm, người viết chọn những câu thơ, hình ảnh đặc sắc để bình giảng, đồng thời phân tích kết cấu và giọng điệu của bài thơ.

c) Bố cục của văn bản : 3 phần

– Mở bài : đoạn 1

– Thân bài : đoạn 2 – 3 – 4

– Kết bài : đoạn 5

Bố cục của văn bản chặt chẽ, hợp lí.

d) Cách diễn đạt: Lời văn trong sáng, gợi cảm, có những rung động chân thành về tác phẩm và đồng cảm với tác giả.


Ghi nhớ:

– Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.

– Nội dung và nghệ thuạt của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, … Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng, có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.


II – Luyện tập (trang 79 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên, hãy suy nghĩ và nêu thêm các luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, ta có thể đưa thêm những luận điểm khác về bài thơ này :

– Sự cống hiến một cách khiêm tốn suốt cả cuộc đời, của mọi lứa tuổi cho mùa xuân đất nước : “Lặng lẽ dâng cho đời- Dù là tuổi hai mươi- Dù là khi tóc bạc”.

– Tinh thần lạc quan của một con người : Hát bài ca quê hương để hòa nhập với mùa xuân.

– Giọng điệu thiết tha, trìu mến của nhà thơ.

– Tính chất khái quát chung qua cách sử dụng đại từ xưng hô tôi-ta của tác giả.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

I- TÌM HIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

KHÁT VỌNG HOÀ NHẬP, DÂNG HIẾN CHO ĐỜI
Mùa xuân là mùa của thiên nhiên thắm tươi, của vạn vật sinh sôi nảy nở. Văn học ViệtNam từng có không ít vần thơ thể hiện cảm xúc rạo rực, trẻ trung trước mùa xuân. Ngay từ khi ra đời, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc. Bài thơ toát lên một không khí vừa rạo tực vừa trong sáng, êm dịu đến dễ thương, thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, đất nước và một nguyện ước cống hiến thật đáng trân trọng.

Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa. Từ hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất nước trong lao động và chiến đấu, nhà thơ đi đến nguyện ước làm Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời, cất lên khúc hát xao xuyến, tươi vui hoà trong bản tình ca, anh hùng ca của cách mạng. Trong đó, mùa xuân nào cũng thật gợi cảm, cũng thật đáng yêu.

Bức tranh xuân của thiên nhiên, đất nước được tạo nên từ chi tiết rất tiêu biểu, được vẽ bằng cả màu sắc lẫn âm thanh. Đó là dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, là lộc giắt đầy quanh lưng người ra trận và trải dài trên những cánh đồng (tượng trưng cho sự nảy nở, sinh sôi, cho sự dồi dào, thành đạt). Đó là tiếng chim chiền chiện lảnh lót vang trời. Hình ảnh mùa xuân hiện lên trong cảm xúc thiết tha, trìu mến của nhà thơ, trong lời kêu, giọng hỏi: ơi…, hót chi mà,… Đặc biệt, tình cảm nâng niu vẻ đẹp của mùa xuân, khát vọng thu nhận và giữ gìn vẻ đẹp ấy được thể hiện qua tư thế độc đáo: Tôi đưa tay tôi hứng từng giọt âm thanh từ trời xanh rơi xuống. Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Cảm giác ấy, động tác ấy chỉ có được ở một tâm hồn thi sĩ, ở một tấm lòng tha thiết yêu mến cuộc sống này. Từ hình ảnh mùa xuân gần gũi, nhà thơ liên tưởng khái quát đến truyền thống bốn nghìn năm, đến sức xuân cứ đi lên phía trước của đất nước. Khi đúc kết, khái quát như thế, lời thơ dễ khô khan. Nhưng khổ thơ thứ ba cứ tự nhiên được cuốn đi trong dòng cảm xúc dịu dàng, đằm thắm, do đó vẫn nằm trong mạch tâm tình.
Từ rung cảm thiết tha trước mùa xuân đẹp của quê hương, đất nước, Thanh Hải bộc lộ một nguyện ước chân thành:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Đó chính là hình ảnh Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời thể hiện khát vọng đựơc hoà nhập, được dâng hiến. Đến đây, ta bỗng thấm thía ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Trước Thanh Hải quả chưa từng có hình ảnh thơ vừa lạ, vừa hồn nhiên, thân thương này. Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ chứa đựng sự khiêm nhường mà cũng tự tin, tự hào biết mấy của con người ý thức sâu sắc về giá trị cuộc đời, về hạnh phúc của hiến dâng và đón nhận. Nốt trầm xao xuyến của mùa xuân nho nhỏ này cứ tự nhiên hoà vào mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước nhờ sự chiếu ứng giữa hai phần của bài thơ. Khổ đầu đã xuất hiện hình ảnh bông hoa tím, con chim chiền chiện giữa trời xanh với tiếng chim hót từng giọt long lanh. Giờ đây, đến khổ thứ tư, nguyện ước của nhân vật trữ tình, của mùa xuân nho nhỏ chính là sự láy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân.

Như vậy, giữa các khổ, các phần của Mùa xuân nho nhỏ có sự gắn kết tự nhiên, chặt chẽ, vừa luyến láy vừa được nâng cao. Bài thơ này lay động tâm hồn chúng ta bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương, quyến luyến, bởi nguyện ước tha thiết, chân thành. Cái nguyện ước lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nho nhỏ kia đâu còn của riêng Thanh Hải mà có lẽ đã trở thành tiếng lòng của nhiều bạn đọc.
(Hà Vinh)

Trả lời:
a) Vấn đề nghị luận của văn bản là hình ảnh mùa xuân trong cảm xúc thiết tha, chân thành của nhà thơ Thanh Hải ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”
b) Những luận điểm về hình ảnh mùa xuân nho nhở là:
Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ của Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa, tất cả đều gợi cảm, đáng yêu.
Bức tranh mùa xuân, với cả màu sắc lẫn âm thanh, hiện lên trong cảm xúc thiết tha, trìu mến, đằm thắm, dịu dàng.
Từ mùa xuân tươi đẹp của quê hương, đất nước, đến mùa xuân của nguyện ước hoà nhập, dâng hiến chân thành.
Người viết thuyết phục các luận điểm bằng sự phân tích, bình giảng những câu thơ, hình ảnh thơ đặc sắc, với nhận định về cảm hứng, giọng điệu, kết cấu…

c) Bài viết có bố cục 3 phần cân đối, chặt chẽ:
Mở bài: từ đầu cho đến “…thật đáng trân trọng.”.
Thân bài: từ “Hình ảnh mùa xuân…” cho đến “…các hình ảnh ấy của mùa xuân”.
Kết bài: đoạn còn lại.
d) Người viết đã cảm nhận bài thơ với một thái độ yêu mến, tin tưởng với tình cảm chân thành đã thể hiện những rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật bài thơ. Lời văn mạch lạc, gợi cảm.

II. Ghi nhớ:
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu,…
Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

II. LUYỆN TẬP

Ngoài các luận điểm đã nêu về hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ ở văn bản trên em hay suy nghĩ và nêu những luận điểm khác nữa về bài thơ đặc sắc này.

Bài làm:
Những luận điểm khác trong bài thơ là:
Từ hình ảnh mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp nhà thơ đã thấy đất nước, con người đang vào xuân rộn rã (khổ 2, 3)
Bài thơ còn là khúc tráng ca ca ngợi sự độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước (khổ cuối)
Bài thơ không chỉ là tâm nguyện của Thanh Hải mà còn là lời nhắn gửi chân tình, tha thiết của nhà thơ đối với mỗi con người chúng ta như một quy luật, một quyền lợi của mỗi người đối với đất nước

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 5

Câu 1. Cho đề bài : Cảm nhận và suy nghĩ của em về hình ảnh ánh trăng trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Hãy trả lời các câu hỏi :

– Đề bài này có yêu cầu gì ?

– Để giải quyết yêu cầu ấy cần có các luận điểm nào ? Nên sắp xếp các luận điểm ấy ra sao ?

Trả lời:

Vận dụng tri thức đã được đọc – hiểu về bài Ánh trăng (Bài 12, Ngữ văn 9, tập một), căn cứ vào yêu cầu của bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ mà xác định yêu cầu cụ thể của đề bài này.

Mọi người đều biết trăng là một biểu tượng phổ biến trong thơ, nhưng ở mỗi trường hợp trăng lại có ý nghĩa cụ thể riêng.

Khi tìm các luận điểm cho bài văn, cần đặt hình ảnh ánh trăng trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc gắn với thái độ, tâm trạng của nhân vật trữ tình (tác giả), cần bám chắc vào ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh này. Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng được kết đọng rõ nhất ở khổ cuối bài thơ. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng các luận điểm của bài nghị luận phải gắn với sự nhận xét, đánh giá của cá nhân người viết, nên có màu sắc cảm xúc.


Câu 2. Lập dàn ý chi tiết (theo các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài) cho đề văn sau :

Vẻ đẹp tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

Trả lời:

Đọc kĩ phần Ghi nhớ trong SGK để nắm vững yêu cầu đối với từng phần Mở bài, Thân bài, Kết bài của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, tái hiện các kiến thức khi đọc – hiểu về bài thơ Đồng chí (Bài 10, Ngữ văn 9, tập một) để lập dàn ý theo yêu cầu của đề.

Bài thơ Đồng chí ra đời vào thời gian nào ? Đề tài vả nét đặc sắc nổi bật của bài thơ ? Vị trí của bài Đồng chí trong thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp ?

Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ được thể hiện qua các khía cạnh nào ? Từng nội dung cảm xúc, nhận thức ấy đã được Chính Hữu diễn tả qua hình ảnh, ngôn từ ra sao ? Suy nghĩ của em về vẻ đẹp của tình đồng chí và cách thể hiện của nhà thơ ?

Ý nghĩa của bài thơ Đồng chí là gì ?


Câu 3. Nhận xét nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (SGK Ngữ văn 9, tập một).

Trả lời:

Khi nhận xét nghệ thuật diễn tả tâm trạng cô đơn của nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du ở đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, cần chú ý biện pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng biện pháp nghệ thuật này, ngòi bút Nguyễn Du rất uyển chuyển, linh hoạt và rất sâu sắc.

– Tâm trạng cô đơn của nhân vật được thể hiện qua khung cảnh thiên nhiên, qua cảm nhận không gian và thời gian.

– Tâm trạng cô đơn của nhân vật được bộc lộ trực tiếp gắn với những cảnh vật gợi cảm tương ứng với thân phận. Cách dùng điệp ngữ “Buồn trông” như diễn tả nỗi buồn lớp lớp khôn nguôi, dự cảm ngày một rõ về thân phận mong manh, chìm nổi, bất an của nhân vật.

Việc phân tích này cần gắn với những nhận xét, đánh giá về tấm lòng, tài năng của Nguyễn Du chứ không nên sa vào phân tích lại đoạn trích đã học.


Câu 4. Tìm các luận điểm cho phần Thân bài đối với đề bài sau :

Phân tích tấm lòng thành kính và niềm xúc động thiết tha của Viễn Phương trong bài thơ “Viếng lăng Bác “.

Để làm sáng tỏ luận điểm niềm xúc động thiết tha, theo em, cần những luận cứ gì ?

Trả lời:

Cần xác định được quan hệ gần gũi nhưng vẫn mang nội dung khác nhau của hai luận điểm tấm lòng thành kính và niềm xúc động thiết tha của Viễn Phương ở bài thơ Viếng lăng Bác.

Khi phân tích, nhận xét một nội dung cảm xúc nào đó trong một bài thơ trữ tình, cần chú ý đến những biểu hiện cụ thể của nó (hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu,…).


Câu 5. Khi lập dàn ý cho đề bài “Cảm nghĩ về tình cảm của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương”, một học sinh đã nêu các luận điểm (cho phần Thân bài) như sau :

a) Tình cảm của người cha đối với con gắn liền tình cảm gia đình ấm cúng, hoà trong tình yêu thiên nhiên quê hương giàu đẹp.

b) Người cha đã truyền cho con lòng tự hào đối với ý chí lớn lao, tinh thần bền bỉ của con người quê hương, đối với cội nguồn dân tộc.

c) Tình cảm của người cha gắn liền mong muốn cho con nhanh chóng trưởng thành, xứng đáng với truyền thống cao đẹp của quê hương, tự tin mà vững bước trên đường đời.

Theo em, các luận điểm ấy có đúng không, đã đủ cho việc giải quyết yêu cầu của đề chưa, đã được sắp xếp hợp lí chưa ?

Nếu cần làm sáng tỏ luận điểm (b), em sẽ nêu các luận cứ như thế nào ?

Trả lời:

Vận dụng những kiến thức về bài thơ Nói với con khi được đọc – hiểu và cách tìm, nêu luận điểm trong bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ để suy nghĩ về các luận điểm được bạn học sinh đó đưa ra.

Suy nghĩ xem ý chí lớn lao, tinh thần bền bỉ của con người quê hương, truyền thống của dân tộc,… đã được Y Phương diễn tả trong cảm xúc như thế nào, bằng những hình ảnh gợi cảm ra sao.


Câu 6. Đọc đoạn văn sau rồi trả lời câu hỏi : Tác giả đã nêu nhận định về vấn đề gì ? Đâu là câu chủ đề của đoạn văn ? Nhận xét về sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn.

“Thơ là đi giữa Nhạc và Ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý :

Ai đi Nam Bộ

Tiền Giang, Hậu Giang

Ai vô Thành phố

Hồ Chí Minh

Rực rỡ tên vàng.

Ai về thẵm bưng biền Đồng Tháp

Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp

Nơi chôn rau cắt rốn của ta !

Ai đi Nam – Ngãi, Bình – Phú, Khánh Hòa…

Trong sóng nhạc cuồn cuộn, những ý nổi lên, như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Và chính là cái hơi nhạc đã thức dậy rồi lại phủ lên những ý này. Một đoạn thơ chỉ xem thôi thì không hiểu hết cái hay, phải đọc nó lên, để cho tất cả khả năng của nó biểu hiện ra trong âm nhạc.”

(Theo Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ,

NXB Văn học, Hà Nội, 1981)

Trả lời:

Một đoạn văn phải có một ý (luận điểm) nào đó. Các câu trong một đoạn văn cần được liên kết một cách chặt chẽ, tự nhiên. Suy nghĩ xem những đặc điểm ấy được thể hiện ở đoạn văn của Chế Lan Viên như thế nào. Phân tích cách nêu luận điểm (nhận định), cách lập luận, chứng minh, kết luận của Chế Lan Viên.

Câu 7. Kết thúc Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật viết :

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Hãy phân tích khổ thơ để làm nổi bật phong thái hiên ngang, tinh thần dũng cảm của những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Trả lời:

Chú ý viết bài văn có chủ đề, nội dung xác định theo yêu cầu. Các câu trong bài văn cần được liên kết chặt chẽ và thể hiện được nhận xét, rung cảm của mình trước hình ảnh, giọng điệu,… của khổ thơ.


Câu 8. Trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, em thích nhất hình ảnh nào, câu thơ nào ? Hãy trình bày cảm nhận của mình về hình ảnh và những câu thơ ấy.

Trả lời:

Chọn một hình ảnh hoặc một câu thơ mà em thực sự yêu thích trong bài Mùa xuân nho nhỏ. Bài văn trình bày cảm nhận phải gắn với việc chỉ ra, bình luận cái hay, cái đẹp của hình ảnh, câu thơ ấy và chứng tỏ được rung cảm chân thành của người viết.

Bài soạn “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

– Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.

– Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu,… Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; có lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

1. Hướng dẫn tìm hiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a) Vấn đề nghị luận của văn bản là hình ảnh mùa xuân và tình cảm thiết tha của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

b) Những luận điểm về hình ảnh mùa xuân mà bài viết đã nêu lên :

– Hình ảnh mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều tầng ý nghĩa, hình ảnh nào cũng gợi cảm.

– Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước trong cảm xúc của nhà thơ.

– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ thể hiện khát vọng dâng hiến, hoà nhập vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước.

Để chứng minh cho những luận điểm trên, tác giả đã chọn các câu thơ, các hình ảnh, giọng điệu và kết câu để phân tích, làm rõ.

c) Văn bản có ba phần.

Mở bài : từ đầu đến “đáng trân trọng”.

Thân bài : tiếp theo đến “sự lấy lại các hình ảnh ấy của mùa xuân” – Trình bày cảm nhận, đánh giá cụ thể những điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ thành các luận điểm.

Kết bài : phần còn lại.

Bố cục như vậy là chặt chẽ, cân đối, đúng yêu cầu của bài văn nghị luận.

d) Nhận xét về cách diễn đạt của bài văn

Người viết đã cảm nhận bài thơ với một thái độ yêu mến, tin tưởng, với tình cảm chân thành đã thể hiện những rung động trước vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Lời văn mạch lạc, gợi cảm.

2. Hướng dẫn luyện tập

Những luận điểm khác về bài thơ này có thể bàn luận thêm là :

– Sự cống hiến một cách khiêm tốn suốt cả cuộc đời, của mọi lứa tuổi cho mùa xuân đất nước : “Lặng lẽ dâng cho đời – Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc bạc”.

– Tinh thần lạc quan của một con người: Hát bài ca quê hương để hoà nhập với mùa xuân.

– Giọng điệu thiết tha, trìu mến của nhà thơ. Tính chất khái quát chung qua cách xưng hô : tôi – ta của tác giả.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 6 Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” lớp 9 hay nhất

Làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cũng như cách làm các kiểu bài nghị luận khác cần nêu được những nhận xét, đánh giá và sự cảm nhận riêng của người viết về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ trên cơ sở phân tích, bình giá hình ảnh, ngôn từ, kết cấu và giọng điệu, nội dung, cảm xúc trong đoạn thơ, bài thơ đó. Bài học “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về điều này, từ đó rèn luyện kĩ năng thực hiện các bước khi làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, cách tổ chức, triển khai các luận điểm. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 1

I. Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì, … Một loại đề không đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh cụ thể (Đề 4, 7).

b. Khi đề bài yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.

+ Phân tích là muốn định hướng cụ thể về thao tác, khi đó phải phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng.

+ Cảm nhận và suy nghĩ là muốn nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng (cảm nhận) và nhận định, đánh giá (suy nghĩ) về đối tượng; đối với loại yêu cầu này, để thuyết phục, chứng minh được ý kiến của mình, người làm cũng phải tiến hành giảng giải bằng các thao tác như phân tích, giải thích…

+ Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.

II. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

1. Các bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đọc SGK

2. Cách tổ chức, triển khai luận điểm

a.

Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết về…” cho đến “…thành thực của Tế Hanh.”): Trình bày những cảm nhận, phân tích về tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, thơ mộng của nhà thơ qua bức tranh dân chài ra khơi và cảnh trở về bến cùng những hình ảnh đặc sắc thể hiện nỗi nhớ, tình thương của tác giả.

Các luận điểm chính của phần Thân bài:

+ Nhận định khái quát: Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình.

+ Cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ.

+ Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập, no ấm, yên bình.

+ Hình ảnh người dân chài được khắc hoạ nổi bật giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn.

+ Những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi.

Các luận điểm chính của phần Thân bài:

+ Nhận định khái quát: Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình.

+ Cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ.

+ Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập, no ấm, yên bình.

+ Hình ảnh người dân chài được khắc hoạ nổi bật giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn.

+ Những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi.

Giữa Mở bài, Thân bài và Kết bài có mối liên kết chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức.

b. Văn bản có sức thuyết phục, hấp dẫn:

+ Bố cục mạch lạc, sáng rõ.

+ Luận điểm được triển khai rõ ràng, từng luận điểm được chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong bài thơ.

+ Bài văn ngắn gọn, lời lẽ súc tích, thể hiện được rung động, đồng cảm của người viết trước vẻ đẹp và cảm xúc của bài thơ.

III. Luyện tập

Câu 1: Lập dàn bài cho bài văn với đề bài: Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Thực hiện theo trình tự các bước:

– Tìm hiểu đề và tìm ý:

+ Tìm hiểu đề: Vấn đề nghị luận là gì? (khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh). Yêu cầu (mệnh lệnh) làm gì? (phân tích).

+ Tìm ý: Nội dung cảm xúc của bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh là gì? Nội dung cảm xúc của khổ thơ đầu bài thơ này là gì? Cảm xúc của nhà thơ được gợi lên từ hương vị, đặc điểm gì của thiên nhiên? Khổ thơ có gì đặc sắc về hình ảnh thơ, ngôn từ?

– Lập dàn bài theo bố cục 3 phần: Chú ý xây dựng các luận điểm chính và chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong khổ thơ.

Ở phần Thân bài, có thể triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:

+ Cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng.

+ Cảm nhận tinh tế về hương vị: hương ổi phả vào trong gió se.

+ Hình ảnh sương đầu thu, nhẹ nhàng giăng mắc.

+ Hình ảnh thơ độc đáo được tạo nên bởi những từ ngữ giàu sức gợi cảm: bỗng, phả vào, gió se, chùng chình, hình như.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 2

Phần I: TÌM HIỂU ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Trả lời câu hỏi (trang 80 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

a. Các đề bài trong SGK có cấu tạo chia làm hai loại

– Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…

– Một loại đề không có những từ ngữ định hướng: đề số 4, đề số 7.

b. Các từ ngữ trong đề bài như: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.

– Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài.

Phần II: CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Trả lời câu hỏi (trang 83 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

a.

– Các phần của văn bản:

+ Mở bài (từ đầu đến “thành công khởi đầu rực rỡ”): giới thiệu về nhà thơ và bài thơ.

+ Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết” tới “thành thực của Tế Hanh”): phân tích vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về.

+ Kết bài (phần còn lại): nếu lên giá trị của bài thơ đối với người đọc trong việc bồi đắp tình yêu quê hương.

– Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu.

b. Văn bản có sức thuyết phục bởi vì:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, hợp lí.

– Người viết đã đưa ra những nhận xét, những cảm thụ của riêng mình.

– Giọng văn truyền cảm, lôi cuốn.


Phần III: LUYỆN TẬP

Trả lời câu hỏi (trang 84 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Bài tham khảo:

Mùa thu là một trong những đề tài được nhiều thi nhân viết đến. Tuy nhiên, mỗi bài thơ thu lại có những nét độc đáo và thi vị riêng. “Sang thu” của Hữu Thỉnh cũng là một bài thơ thu như thế. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa tinh tế của đất trời và của lòng người lúc sang thu. Mở đầu bài thơ, người đọc đã có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Ở đây đó chính là bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu. Cái hay và tinh tế nữa đó là, tác giả nhận thấy mùa thu không phải vì bầu trời cao xanh hơn hay hoa cúc nở vàng như trong các bài thơ ta thường thấy mà ở đây là vì “hương ổi phả vào trong gió se”. Sự tinh tế của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về. Không chỉ có “hương ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Với cách nhân hóa, từ láy “chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của màn sương giống như một nàng Thu yêu kiều đang bước tới. Sương bay qua ngõ, giăng mắc vào những giậu rào, trên những cành cây khô đầu ngõ cuối thôn. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (hương ổi – vị giác, gió se – xúc giác, sương chùng chình – thị giác) nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. “Hình như” là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng kì thực là tác giả đã tự khẳng định rằng: mùa thu về thật rồi.

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khác giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 3

I – Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ (trang 80 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi

Câu hỏi :

a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào ?

b) Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ (hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm ? (Gợi ý: Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiểu bài” khác nhau.)

Trả lời :

a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại :

– Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…

– Một loại đề không có những từ ngữ định hướng: đề số 4, đề số 7.

b) Các từ ngữ trong đề bài như phân tích, suy nghĩ, cảm nhận biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài :

– Phân tích : yêu cầu phải phân tích đoạn thơ, bài thơ, đi sâu vào các phần nhỏ của nó để rút ra những nhận định cần thiết.

– Cảm nhận : lưu ý đến ấn tượng và cảm thụ riêng của người viết về đoạn thơ, bài thơ đó, nhấn mạnh đến yếu tố cảm thụ chủ quan.

– Suy nghĩ : nhằm nhấn mạnh tới những suy nghĩ riêng, những kết luận rút ra trên cơ sở suy luận về những yếu tố nội dung, nghệ thuật và kết luận lô-gic rút ra từ đó.

Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Ví dụ đề số 4 là hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Đề số 7 là những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Vấn đề là phân tích hay cảm nhận, phân tích hay suy nghĩ, phân tích hay bình luận là do người viết tự lựa chọn. Cốt làm rõ được hình ảnh người chiến sĩ lái xe hay làm rõ những đặc sắc của bài thơ.


II – Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Câu 1 trang 80 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2 : Các bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Câu 2 trang 83 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2 : Cách tổ chức, triển khai luận điểm

Câu hỏi :

a) Trong văn bản nêu trên, đâu là phần Thân bài ? Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương ? Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao ?

b) Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không ? Vì sao ? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này ?

Trả lời :

a) Trong văn bản trong SGK, phần Thân bài bắt đầu từ “Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết” cho đến “tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh”.

Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương nồng nàn, tha thiết của tác giả thể hiện trên các hình ảnh, cảm xúc :

– Trai làng ra khơi đánh cá mạnh mẽ, hào hứng.

– Thuyền đánh cá trở về trong sự chào đón của dân làng.

– Cảm nhận tinh tế về con người, cảnh vật quê hương.

– Những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, rung động tinh tế.

Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu, những hình ảnh thơ đặc sắc. Các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài gắn kết với nhau chặt chẽ, tự nhiên. Mở bài giới thiệu ấn tượng chung về bài thơ “Quê hương”. Thân bài triển khai những thành công của bài thơ về tình cảm quê hương. Kết bài khái quát giá trị bồi đắp tình yêu quê hương của bài thơ.

b) Nhìn chung văn bản có tính thuyết phục. Người viết đã tập trung làm rõ tình yêu quê hương tha thiết của Tế Hanh được thể hiện bằng những hình ảnh đẹp, giàu sức gợi của làng chài. Trong khi nêu luận điểm, người viết đã chỉ ra đặc sắc của hình ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của những câu thơ dạt dào tình yêu quê hương. Người viết cũng thật sự xúc cảm, rung động với bài thơ, rung động với tình yêu quê hương.


Ghi nhớ:

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần được bố cục mạch lạc theo các phần :

+ Mở bài : Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nên nhận xét, đánh giá của mình. (Nếu phân tích một đoạn thơ cần nêu rõ vị trí củ đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó).

+ Thân bài : Lần lượt trình bàu những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

+ Kết bài : Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc … của tác phẩm

III – Luyện tập (trang 84 – SGK Ngữ Văn 9 tập 2)

Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.

Dàn ý

1. Mở bài :

– Giới thiệu khổ thơ đầu :

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

– Đây là khổ thơ nêu những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu mùa thu đã về.

2. Thân bài :

– Phân tích những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu của mùa thu :

+ Hương ổi chín là hương quả mùa thu.

+ Gió se là gió heo may hanh và se se lạnh – gió của mùa thu.

+ Sương chùng chình qua ngõ là sương mùa thu.

– Phân tích giá trị gợi tả của các từ phả, chùng chình, hình như.

– Những cảm nhận này kết hợp các giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác (mùi hương, cái lạnh se, sự chùng chình).

– Cảm nhận từ gần ra xa, từ bên người ra ngoài ngõ.

3. Kết bài : Nhấn mạnh sự tinh tế trong cảm nhận về dấu hiệu của mùa thu.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

I- ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

Đề 1. Phân tích các tầng nghĩa trong đoạn thơ sau:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)

Đề 2. Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đề 3. Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng cuội.
Đề 4. Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Đề 5. Bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy gợi cho em những suy nghĩ gì?
Đề 6. Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh.
Đề 7. Những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Đề 8. Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài Nói với con của Y Phương.


Câu hỏi:
a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?
b) Các từ trong bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ ( hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu yêu cầu gì đối với bài làm?
Trả lời:
a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì, … Một loại đề không đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh cụ thể (Đề 4, 7).
b) Khi đề bài yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.
Phân tích là muốn định hướng cụ thể về thao tác, khi đó phải phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng.
Cảm nhận và suy nghĩ là muốn nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng (cảm nhận) và nhận định, đánh giá (suy nghĩ) về đối tượng; đối với loại yêu cầu này, để thuyết phục, chứng minh được ý kiến của mình, người làm cũng phải tiến hành giảng giải bằng các thao tác như phân tích, giải thích…
Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.


II- CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

1. Cách bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đề bài “Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh”, ta có trình tự các bước như sau:

Bước 1. Tìm hiểu đề và tìm ý

Đề bài đưa ra vấn đề nghị luận nào? (tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hươngcủa Tế Hanh).
Đề bài có đưa ra yêu cầu (mệnh lệnh) cụ thể không, nếu có thì yêu cầu ấy là gì? (Phân tích)

– Tìm ý:
Đọc kĩ lại bài thơ (nếu là đoạn thơ thì cũng phải đọc kĩ cả bài, đặt đoạn thơ đó vào bài thơ để tìm hiểu).
Tìm hiểu khái quát về tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ (nếu có): Tế Hanh sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ mới với những bài thơ mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê hương thắm thiết.
Sắc thái cảm xúc xuyên suốt bài thơ là gì (?): tha thiết, ngọt ngào.
Tìm hiểu những nét đặc sắc nổi bật nhất về nội dung và nghệ thuật của bài thơ: Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài được thể hiện bằng những vần thơ bình dị, giàu sức gợi cảm.
Sau khi đã nắm được những nét chung nhất về bài thơ, em hãy xác định những luận điểm chính gắn với vấn đề nghị luận mà đề bài đưa ra:
Trong cách xa, nhà thơ nhớ về quê hương như thế nào? Hình ảnh làng quê hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ có những đặc điểm và vẻ đẹp gì?
Bài thơ có những hình ảnh, câu thơ nào gây ấn tượng sâu sắc đối với em? Ngôn từ, giọng điệu của bài thơ có gì đặc sắc?

Bước 2. Lập dàn bài

Trình bày các luận điểm theo bố cục 3 phần:
Mở bài: Giới thiệu bài thơ, nêu khái quát nhận định của mình về vấn đề nghị luận: Giới thiệu sơ lược về bài thơ Quê hương của Tế Hanh, nêu nhận định của em về tình yêu quê hương trong bài thơ.
Thân bài: Triển khai vấn đề nghị luận: Phân tích những biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương trong bài thơ.
Nêu nhận xét chung về bài thơ: Bài thơ Quê hương thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, đậm chất lí tưởng, lãng mạn.
Tình yêu quê hương biểu hiện cụ thể ở vẻ đẹp của cảnh ra khơi và cảnh trở về:
Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi: khoẻ khoắn, đầy sức sống
Cảnh đón thuyền cá về bến về: tấp nập, bình yên, no đủ
Tình yêu quê hương thể hiện ở nỗi nhớ: những hình ảnh của quê hương in đậm trong kí ức của nhà thơ.

Kết bài: Chốt lại vấn đề nghị luận, mở rộng liên tưởng: Khẳng định vẻ đẹp, tình yêu quê hương được gửi gắm trong bài thơ. Nêu lên ấn tượng mà vẻ đẹp của bài thơ đã để lại trong tâm trí em.
Bước 3. Viết bài
Bước 4. Đọc lại bài viết và sửa chữa


2.Cách tổ chức, triển khai luận điểm

Đọc và trả lời câu hỏi:
QUÊ HƯƠNG TRONG TÌNH THƯƠNG, NỖI NHỚ
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng chài nghèo ở một vùng cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ.
Nhà thơ đã viết về Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng một sớm mai đẹp như mơ :

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Tâm hồn nhà thơ náo nức những hình ảnh đầy sức mạnh :
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng máu chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiêng ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Bằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm ! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng : Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy. Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết :

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền hơi thơ băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương :

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Chỉ ai là người con của một vạn chài mới viết được những câu thơ như thế. Tế Hanh như khắc tạc bức tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn : bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muốn mặn mòi ấy thấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã thấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kỳ diệu ?

Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỷ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá – Câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh. Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.
(Bài làm của học sinh)

Câu hỏi:
a) Trong văn bản trên đâu là phần thân bài? Ở phần ngày người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương? Những suy nghĩ ý kiến ấy được dẫn dắt khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần mở bài và thân bài ra sao?
b) Văn bản có sức thuyết phục và hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì về cách làm bài nghị luận văn học này?
Trả lời:
a)
Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết về…” cho đến “…thành thực của Tế Hanh.”): Trình bày những cảm nhận, phân tích về tình yêu quê hương tha thiết, trong sáng, thơ mộng của nhà thơ qua bức tranh dân chài ra khơi và cảnh trở về bến cùng những hình ảnh đặc sắc thể hiện nỗi nhớ, tình thương của tác giả.
Những suy nghĩ ý kiến ấy được dẫn dắt khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần mở bài và thân bài được phân tích, bingh giảng cụ thể gắn liền với hình ảnh, ngôn từ giọng điệu của bài thơ. Phần thân bài kết nối với phần thân bài một cách chặt chẽ, đó chính là sự phân tích, chứng minh làm sáng tỏ nhận định, nhận xét bao quát ở mở bài. Từ đó dẫn đến kết bài nhằm đánh giá sức hấp dẫn, ý nghĩa của bài viết.

b) Văn bản có sức thuyết phục và hấp dẫn. Bởi vì:
Bố cục mạch lạc, sáng rõ.
Luận điểm được triển khai rõ ràng, từng luận điểm được chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong bài thơ.
Bài văn ngắn gọn, lời lẽ súc tích, thể hiện được rung động, đồng cảm của người viết trước vẻ đẹp và cảm xúc của bài thơ.
Rút ra bài học: Bài nghị luận về một đoạn thơ bài thơ cần nêu lên được các nhận xét đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải được gắn với sự phân tích, bình giá ngôn ngữ hình ảnh giọng điệu nội dung cảm xúc của tác phẩm.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

III- LUYỆN TẬP

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Sang thu Hữu Thỉnh

Bài làm:
Mùa thu mang đến cho tâm hồn con người những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất. Mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất khơi gợi nhiều những suy nghĩ tâm tư rung động của mỗi nhà văn nhà thơ. Nếu như mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời thì mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người đặc biệt biệt qua khổ thơ:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta. Khổ trện mở đầu cho bài thơ Sang thu là những cảm xúc khơi nguồn cảm hứng sáng tác của tác giả. Nếu như Xuân Diệu bắt đầu mùa thu với tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê dược “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.”

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .”Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê.“Hương ổi” được hữu hình trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm dà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Tác giả sử dụng thành công từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.

Đoạn thơ mở đầu diễn biến mạch theo mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả vào lúc sang thu.Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Cách sử dụng thể thơ ngũ ngôn thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Đoạn thơ với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 5

Kiến thức cơ bản

Những kiến thức quan trọng bạn cần ghi nhớ:

• Bài nghị luận tác phẩm văn học cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng

– Phần mở bài: giới thiệu tác phẩm và bước đầu nêu ý kiến đánh giá của mình.

– Phần thân bài: Lần lượt trình bày những ý kiến, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ, phân tích, chứng minh các luận điểm đã nêu ở phân mở bài bằng những luận cứ cụ thể, đáng tin cậy.

– Phần kết bài: khái quát, giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

– Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc… của tác phẩm.

• Lời văn của bài nghị luận một đoạn thơ, bài thơ cần phải tự nhiên, giàu cảm xúc, thể hiện sự tự tin, nhiệt tình trước vấn đề đang trình bày.

Hướng dẫn soạn bài cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Gợi ý trả lời câu hỏi sách giáo khoa.

Đề bài nghị luận về một đoạn thơ

Đọc các đề bài (tr 79;80 SGK Ngữ văn 9 tập 2 )và trả lời câu hỏi

a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?

b) Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ (hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm? (Gợi ý: Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làms bài. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiểu bài” khác nhau.)

Trả lời

a) Tám đề văn trong sách giáo khoa đều có cấu tạo giống nhau là yêu cầu người viết phải nêu lên cảm nhận, suy nghĩ của mình về đoạn thơ hoặc bài thơ. Những bài thơ có trong các đề này đều là những bài các em đã học qua trong chương trình ngữ văn 9.

b) Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ từ suy nghĩ nhấn mạnh đến nhận định, phân tích của người viết. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các “kiều bài” khác nhau.

Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ

Câu 2 – Trang 83 SGK

Đọc văn bản Quê hương trong tình thương, nỗi nhớ (Tr 81 – 93 SGK)sau và trả lời câu hỏi:

a) Trong văn bản trên, đâu là phần Thân bài? Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương? Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao?

b) Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này?

Trả lời

a) – Các phần của văn bản:

+ Mở bài: từ đầu đến “thành công khởi đầu rực rỡ”: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.

+ Thân bài: Từ “nhà thơ đã viết” đến “thành thực của Tế Hanh”: Phân tích vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và cảnh đoàn thuyền đánh cả lúc trở về.

+ Kết bài: Phần còn lại: Nêu lên giá trị của bài thơ đối với người đọc trong việc bồi đắp tình yêu quê hương.

– Cách dẫn dắt khẳng định: tác giả nêu lên những nhận xét, đánh giá khái quát, sau đó nêu lên dẫn chứng và phân tích.

b) Văn bản có sức thuyết phục bởi:

– Hệ thống luận điểm rõ ràng, hợp lí.

– Có những nhận xét và cảm thụ riêng của tác giả.

– Giọng văn truyền cảm, lôi cuốn.

Luyện tập

Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

Bài làm tham khảo

Mùa thu đến với anh khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Bắt đầu không phải là những nét đặc trưng của trời mây sắc vàng hoa cúc như trong thơ cổ điển. Bắt đầu là hương ổi thơm nức. Một chữ “phả” kia đủ gợi hương thơm như sánh lại. Nó sánh bởi vì hương đậm một phần, sánh còn bởi tại hương gió se. Hương thơm lùa vào trong gió được tinh lọc, được cô đặc thêm. Gió mùa thu hào phóng đem chia hương mùa thu – bấy giờ là hương ổi chín tới khắp nơi trong vũ trụ. Tại một vùng quê nhỏ, trong một phút giây nào đó, người viết chợt bắt gặp hương thu và bỗng sững sờ.

Đã cảm được hương ổi, đã nhận ra gió se, hơn thế nữa, mắt lại còn nhìn thấy sương đang chùng chình qua ngõ. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế mà sao tác giả lại viết “hình như thu đã về”. Còn điều chi nữa mà ngờ? Thu đã vể thật đấy rồi, sao lại còn nghi hoặc? Như đã nói ở trên. Cái chính là sự bất ngờ, đột ngột. Do bất ngờ nên cả khứu giác (mùi hương ổi) cả xúc giác (hơi gió se) cả thị giác (sương chùng chình) đều mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, vẫn chưa dám chắc. Cái bảng lảng mơ hồ chính trong cảm giác “hình như” ấy đã tôn thêm vẻ khói sương lãng đăng lúc thu sang. Đó là một nguyên nhân. Nhưng sâu xa hơn, ở đây còn bộc lộ nét “sang thu” trong hồn người mà sau chúng ta sẽ nói tới.

Hình như thu đã về.

Đó là một ấn tượng tổng hợp từ những cảm giác riêng về hương, về gió, về sương. Từ hương nhận ra gió. Từ gió nhận ra sương. Nhưng khi phát hiện “sương chùng chình qua ngõ” thì trong sương cũng có hương, trong sương cũng có gió, và trong sương như còn có cả tình. “Chùng chình” hay chính là sự lưu luyến, bâng khuâng, ngập ngừng, bịn rịn? Cái ngõ mà sương đẫm hương, sương nương theo gió đang ngập ngừng đi qua vừa là cái ngõ thực, vừa là cải ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Phút giây giao mùa của thiên nhiên ấy, nhìn thấy rồi, cảm thấy rồi mà sững sờ tưởng khó tin. Do đó “hình như thu đã vể“ còn như là một câu thầm hỏi lại mình để có một sự khẳng định.

Bài soạn “Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” số 6

I. Đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Các đề bài trên chia làm hai loại :

Có đề bài không kèm theo lệnh cụ thể: đề 4, 7.., mà chỉ có yêu cầu ngầm.
Có đề bài kèm theo mệnh lệnh cụ thể như các đề còn lại.
b. Yêu cầu phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị :

Phân tích : phân tách, xem xét đối tượng dưới nhiều góc độ, đối chiếu, so sánh… để từ đó đi đến nhận định về đối tượng, nghiêng về nghị luận.
Cảm nhận: nhấn mạnh đến việc đưa ra cảm thụ, ấn tượng riêng.
Suy nghĩ : nhấn mạnh nhận định, đánh giá về đối tượng.
Với đề bài không có lệnh cụ thể, người làm tự lựa chọn những thao tác cần thiết để làm rõ, chứng minh cho ý kiến của mình về đối tượng được nêu ra trong đề bài.

II. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

1. Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):

4 bước

Tìm hiểu đề, tìm ý
Lập dàn ý
Viết thành văn
Đọc và sửa chữa.


2. Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):

Bài văn: Quê hương trong tình thương nỗi nhớ.

a. Phần Thân bài của văn bản : “Nhà thơ đã viết về … thành thực của Tế Hanh”.

Nhận xét của người viết trong phần Thân bài : cảm nhận về cảm xúc nồng nàn, mạnh mẽ, lắng sâu của Tế Hanh.
Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt theo từng luận điểm từ khái quát đến chi tiết, những hình ảnh nổi bật. Giữa Mở bài, Thân bài và Kết bài có mối liên kết chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức. Thân bài phân tích làm rõ nhận định ở Mở bài, từ các luận điểm ở Thân bài dẫn đến kết luận ở Kết bài.
b. Văn bản hấp dẫn, thuyết phục bởi:

Bố cục mạch lạc rõ ràng.
VB tập trung trình bày nhận xét, đánh giá về những giá trị đặc sắc nổi bật về nội dung cảm xúc và nghệ thuật của bài thơ, người viết phân tích những đặc sắc vê h/ả và ngôn từ…
Qua VB thấy người viết trình bày cảm nghĩ bằng cả sự rung cảm thiết tha đối với quê hương.


III. Luyện tập Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

a. Tìm hiểu đề và tìm ý:

Tìm hiểu đề: Vấn đề nghị luận là gì? (khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh). Yêu cầu (mệnh lệnh) làm gì? (phân tích).
Tìm ý: Nội dung cảm xúc chung của bài thơ Sang thu là gì? Nội dung của khổ thơ đầu bài thơ này là gì? Cảm xúc của nhà thơ được gợi lên từ hương vị, đặc điểm gì của thiên nhiên? Khổ thơ có gì đặc sắc về hình ảnh thơ, ngôn từ?
Lập dàn bài theo bố cục 3 phần: Chú ý xây dựng các luận điểm chính và chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong khổ thơ.
b. Ở phần Thân bài, có thể triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:

Cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng : bỗng, hình như.
Cảm nhận tinh tế về dấu hiệu mùa thu : hương ổi phả vào trong gió se, sương chùng chình, sông nước, chim, mây, nắng, mưa, sấm.
Hình ảnh thơ độc đáo và từ ngữ giàu sức gợi cảm

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh ra trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời. Hàn Mặc Tử làm thơ từ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do thị xã tổ chức. Hàn Mặc Tử có rất nhiều tác phẩm thơ hay được mọi người chú ý, cùng phongnguyet.info điểm danh những bài thơ tiêu biểu của tác giả nhé.

Đây thôn Vĩ Dạ

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Mùa xuân chín

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
– “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”

Những giọt lệ

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?

Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa…
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Đà Lạt trăng mờ

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu,
Trời mơ trong cảnh thật huyền mơ.
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt,
Như đón từ xa một ý thơ.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đáy nước hồ reo.
Để nghe tơ liễu run trong gió,
Và để xem trời giải nghĩa yêu.

Hàng thông lấp loáng đứng trong im,
Cành lá in như đã lặng chìm.
Hư thực làm sao phân biệt được?
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.

Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng!

Trăng vàng trăng ngọc

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Một cõi quên

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Đêm ấy lại đêm thức với trăng
Mưa ngoài hiên lạnh ẩn dáng Hằng
Cô đơn! Ừ nhỉ, chừng quạnh quẽ
Đêm rất riêng mình – Một cõi quên!

Tôi trả cho tôi những ngại ngần
Trả người – đây nhé những phân vân
Cõi riêng lặng lẽ gài then kín
Ngoài ấy người vui với bụi trần.

Cơn gió lập đông buốt lạnh lùng
Tứ bề gom lại một cõi không
Lặng nghe – Tôi nhé, nghe tôi khóc
Hiện hữu mà chi? Chỉ nghẹn lòng.

Sống khổ và phấn đấu

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng
Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn.
Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than,
Dưới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang.
Ngán thay! Cuộc đời sống khổ!
Nào non sông mưa mưa, gió gió,
Nào trời đất lơ láo, láo lơ.
Phủ màn mây ảm đạm, mịt mờ,
Như biến mất vào trong cõi mộng.
Kìa đại hải, kìa tràng giang ầm ỳ tiếng sóng,
Như bất bình tức tối đấng Cao xanh…
Nào những ai tự phụ bực tài danh,
Trong cảnh huống càng nên phấn đấu.
Phải, phấn đấu dầu đường đầy những máu,
Cứ hùng cường, dũng liệt bước lên.
Đạp cho bằng trở lực của thiên nhiên,
Là những sự chướng gai thường thế lộ.
Hãy tự mình bền gan tiến thủ,
Chí không lay thì trở lực phải lung lay.
Rồi bao nhiêu nỗi thống khổ đắng cay,
Lần lần sẽ phẳng lì tiêu tán.
Rồi trời đất quang minh sáng láng,
Đem về cho làn không khí trong xanh.
Nỗi bất bình bên cạnh sẽ thanh thanh,
Làn sóng hận lặng trang trên bãi ải,
Hết ta thán cõi đời là bể khổ,
Phải vậy chăng hỏi khách tài tình?

Trên cầu Tràng Tiền

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Lớp lớp ngựa xe qua
Đờn ông với đờn bà
Biết bao cô áo tím
Nước da trắng nõn nà…
Tà áo gió lung lay
Nhìn xem cũng hay hay
Cô em dường đỏ mặt
Bẽn lẽn làn tóc bay…
Lớp lớp ngựa xe qua
Quan non với quan già
Ung dung trong áo gấm
Trước ngực cái bài ngà…
Thất thểu trên vệ đường
Anh chàng bận áo lương
Trời không mưa không nắng
Thỉnh thoảng lấy dù trương
Lớp lớp ngựa xe qua
Tàu Tây với lại Chà
Ô kìa con “đĩ thúi”
Bao tóc bỏ đuôi gà…!

Nắng vàng

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Mê trăng là đâm mê trinh tiết
Mê nắng vàng như phối hiệp tình duyên.
Phơi lòng chi, cho áo gió ngả nghiêng
Đem trong chữ muôn câu thêm sáng nghĩa
Xuân trên má, ý thơ lan thấm thía
Hây hây mơ, chín gấc giữa mùa hương.
Cô đương đi, – tôi đương thả dây thương
Sẽ cuống quýt trên đôi môi luôn chớp,
Nắng sẽ dai và trí cô sẽ ngớp,
Ý ưng đi, -nhưng chân vướng tơ yêu…
Môi bối rối, không lẽ nói cho nhiều
Bị mắc cỡ với muôn chim đường bộ
Cô say nắng, hay nắng say tiếng thơt.
A ha ha! Trong một phút thôi miên!
Nín hơi thơm bằng sức điện tình truyền
Tôi gò được một mùa xuân phẩm tiết.
Mùa xuân ấy là lòng tôi tha thiết.
Mê cuống cuồng say điêu đứng vì thương
Ôi chao ôi! Trong nắng rực mùi hương…

Đêm khuya ở nhà quê

Tác giả: Hàn Mặc Tử

Lều tranh lạnh lẽo mấy canh thâu,
Lạnh cỏ cây trời lạnh đến đâu…
Hé cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Gài then thắp nến, nến rơi châu.
Chiêm bao bóng lẩn Dao Trì động,
Mường tượng hồn chơi thệ thuỷ cầm.
Năm ngón đường tơ ngồi dậy bấm,
Gió quên than thở dế quên sầu.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã góp vào nền văn học Việt Nam những bài thơ đặc sắc và dạt dào cảm xúc. Mong rằng,phongnguyet.info lần này đã mang đến cho bạn một lượng kiến thức bổ ích. Còn chờ gì nữa mà không pha một tách trà ngồi ngẫm nghĩ những ý thơ thiết tha ấy!

Top 10 Khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng về đội hình mà cô giáo mầm non nên biết

Với tính hiếu động, nghịch ngợm của trẻ thì có lẽ việc tập hợp thành một đội hình luôn gây ra không ít khó khăn cho các cô giáo. Tập hợp hình tròn thì như bầy ong vỡ tổ, chạy lung tung. Tập hợp hàng dọc thì đứa đứng trái, đứa đứng phải khiến cô hoa cả mắt. Và bài viết sau đây sẽ giúp các cô giáo mầm non giải quyết vấn đề này bằng những khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng về đội hình.

Hiệu lệnh vào hàng

Nhanh lên nào em nhanh lên nào. 1,2,3 chúng ta vào hàng, bé đứng trước lớn đứng sau, không cãi nhau vào thẳng hàng 1,2,3,4,5. Hoặc nhanh lên nào nhanh lên nào 1.2.3 chúng ta vô hàng. (do trẻ nhỏ cô nên di chuyển nhanh đến vị trí cần tập trung. Muốn đội hình thế nào cô đã quy ước trước và đưa tay ra hiệu đội hình đó)

Hiệu lệnh tập trung thành vòng tròn

Cô đứng ở giữa làm trung tâm, sau đó hô to:

Bé ngoan, bé ngoan (các bé xúm quanh cô)

Tay đâu, tay đâu, nắm chặt tay. (các bé nắm chặt tay nhau)

Dãn cách, dãn cách (cho các bé dãn cách nhau)

Đi đều, đi đều (cho các bé đi theo hình vòng tròn)

Đi cho đến khi hình tròn được hình thành

Bài thơ tập trung thẳng hàng – đàn kiến nhỏ

Một đàn kiến nhỏ

Chăm chỉ tha mồi

Từng top, từng top

Nối bước theo nhau

Ôi, trời đã tối

Nhanh nhanh về tổ

Cùng miếng mồi ngon

Cũng như đàn kiến

Em xếp thẳng hàng

Nhanh chân vào lớp

Một hai, một hai

Tác giả: Nlp Trinh

Bài thơ tập trung vòng tròn – đoàn tàu hỏa

Cô đóng vai đầu tàu hỏa, chạy quanh lớp và hô:

Sình sịch, sình sịch

Tàu hỏa đến ga

Xin mời quý khách

Nhanh chân lên tàu

Cứ thế mỗi học sinh sẽ bám theo cô, bạn đến sau sẽ đặt tay lên bạn đến trước và cô chạy vòng thành vòng tròn đến khi cô chạm được bạn bám theo cuối cùng thì lúc đó vòng tròn cũng được hình thành.

Bài thơ tập trung hàng ngang

Có đàn cua nhỏ

Ẩn nấp bên kia

Tám cẳng, hai càng

Bò ngang, liếc mắt

Một hai, ba bốn

Ngang ngang, ngang ngang

Tập hợp hàng ngang nào các con!

Bài thơ tập hợp nhanh

Cô: Tập hợp nhanh

Trẻ:

Nghe lời cô gọi
Các bé đến ngay
Tập hợp thẳng tay
Đều hàng bước tới
Cô không phải đợi
Mới là bé ngoan
So hàng
Thẳng

Khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng về đội hình

Cô: chim sơn ca

Trẻ: tung cánh

Cô: chim sơn ca

Trẻ: bay xa

Cô: chim sơn ca

Trẻ: về tổ.

Bài thơ tập hợp nhanh – So hàng

Một, hai, ba, bốn

Chúng ta bước đều

Năm, sáu, bảy, tám

Chúng ta so hàng

Liếc mắt sang trái

Liếc mắt sang phải

Thẳng đều theo cô

Tác giả: Nlp Trinh

Khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng xếp hàng vào lớp

Vâng lời cô giáo

Chúng em xếp hàng

Ngay ngắn trước sau

Trật tự vào lớp

Khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng về đội hình

Cô là gà mẹ, Trẻ là gà con

Đàn gà bé xíu

Cùng đi kiếm mồi

Gà mẹ ở đây

Gà con tập hợp

1, 2, 3 sang trái

4, 5, 6 sang phải

Đi ta đi tìm mồi

Về nhanh kẻo trời tối

Trên đây là các khẩu hiệu, bài thơ hay giúp trẻ nhanh chóng tập hợp đội hình hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn mà cô giáo mầm non nên biết. Hi vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn!

Top 13 Bài thơ hay của nhà thơ Tế Hanh

Nhà thơ Tế Hanh (1921-2009) được biết đến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam trong giai đoạn phong trào thơ mới cũng như giai đoạn thơ tiền chiến. Ở ông, chất thơ có một sự rung cảm đặc biệt sâu sắc. Điều đó được thể hiện ở giọng điệu, lối viết cũng như hình ảnh thơ ông xây dựng trong những tác phẩm của mình. Chính vì vậy, các tác phẩm thơ của ông đều được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng nhận được sự ủng hộ từ các độc giả mọi miền trên đất nước.

Quê hương

Tác giả: Tế Hanh

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Nhớ con sông quê hương

Tác giả: Tế Hanh

Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu

Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
Hình ảnh cô em đôi má ửng hồng…

Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ không nguôi ánh sáng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết…
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không gành thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương.

Rét nàng Bân

Tác giả: Tế Hanh

Khi em đan áo ấm cho anh
Gió còn thổi qua bàn tay lạnh
Những đôi chim tìm nhau ủ cánh
Mây đầy trời, rơi rớt nắng mong manh

Em vội dệt thời gian qua sợi thắm
Những giờ trưa không nghỉ những đêm thâu
Sợi len mịn so sợi lòng rối rắm
Áo đan rồi, mùa lạnh hết còn đâu!

Em gửi áo lo anh giận dỗi
Nhận áo em anh lại ngại em phiền
Đời cán bộ ít giờ nhàn rỗi
Vì việc chung đôi lúc nhẹ niềm riêng

Hoa bắt đầu thưa thớt cuối đường xuân
Cành cây đã sum suê lá đậm
Tháng ba đến với những ngày nắng ấm
Bỗng mùa đông trở lại! Rét nàng Bân

Nàng Bân xưa may áo ấm cho chồng
Áo may xong không còn mùa lạnh nữa
Nàng Bân khóc, đất trời thương lệ ứa
Cho rét về đáp lại nỗi chờ mong

Anh mặc áo của em và cảm thấy
Bàn tay yêu nhân ấm gấp hai lần
Thời gian hiểu lòng ta biết mấy:
Có tình người nên có rét nàng Bân.

Bão

Tác giả: Tế Hanh

Cơn bão nghiêng đêm
Cây gãy cành bay lá
Ta nắm tay em
Cùng nhau qua đường cho khỏi ngã
Cơn bão tạnh lâu rồi
Hàng cây xanh thắm lại
Nhưng em đã xa xôi

Và cơn bão lòng ta thổi mãi.

Bài thơ tình ở Hàng Châu

Tác giả: Tế Hanh

Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ…

Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu

Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa.
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa
Làn nước qua, ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm…

Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy ngùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trắng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?

Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây.

Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.

Anh đến với em là lẽ tất nhiên

Tác giả: Tế Hanh

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như con sông trở về với biển
Như qua mùa đông mùa xuân lại đến
Như sau cơn mưa là lúc mặt trời lên

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như cái hoa đến ngày kết quả
Như con chim buổi chiều quay về tổ
Như máu trong người trở lại tim

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như quyển truyện phải đến hồi kết thúc
Như cây kim địa bàn quay về hướng bắc
Cuộc đời anh hướng đến cuộc đời em

Anh đến với em là lẽ tất nhiên

Anh yêu em

Tác giả: Tế Hanh

Anh yêu em như hoa nở không nghĩ đến giờ tàn
Anh yêu em như trăng tròn không nghĩ đến hồi khuyết
Anh yêu em như người vào bữa tiệc
Uống cốc rượu đầy không nghĩ đến khi tan.

Hoa hồng Bun-ga-ri

Tác giả: Tế Hanh

Hoa Hồng Bun-ga-ri
Ôi! Loài hoa diệu kì

Hoa ở đâu chẳng biết
Theo người hay gió bay
Từ thế kỉ mười bảy
Hoa về mọc nơi đây.

Giữa bốn bề núi dựng,
Một thung lũng hoa hồng
Mỗi năm một lần nở
Trời đất bắt đầu xuân.

Nhớ thời bọn vua chúa
Chúng cướp hết hoa hồng
Bàn tay gai chảy máu
Người dân chỉ tay không.

Đến thời bọn Hít-le
Chúng không cho hoa mọc
Muốn diệt hương thiên nhiên
Chỉ còn hương hoá học.

Nhưng cả bọn bạo tàn
Cuối cùng rồi tiêu diệt
Và thung lũng hoa hồng
Đẹp hơn bao giờ hết.

Ôi! Loài hoa diệu kì
Hoa hồng Bun-ga-ri.

Hà Nội 1966

Tác giả: Tế Hanh

Hà Nội bớt phố đông
Hà Nội bớt ánh điện

Hà Nội về nông thôn
Hà Nội đi tiền tuyến

Hà Nội vận xanh, nâu
Khoác trên vai khẩu súng

Hà Nội vẫn yêu nhau
Miệng cười tươi, bước vững

Hà Nội vút mây xanh
Cánh thiên thần phản lực

Hà Nội nối nghìn năm
Nước sông Hồng thao thức

Hà Nội ở khắp nơi
Như lương tâm thời đại

Hà Nội trong mọi người
Như trái tim nóng hổi

Một góc Hà Nội bom
Tim Quảng Bình sôi sục

Tên lửa Hà Nội vang
Lòng Sài Gòn rạo rực

Ơi hình ảnh Bác Hồ
Nước hồ Gươm sáng chói

Hà Nội mãi thủ đô
Hà Nội mãi Hà Nội…

Mai vàng

Tác giả: Tế Hanh

Xuân bảy lăm. Tết Tân Biên
Mai rừng một nhánh nở bên giếng rừng
Em đang múc nước bỗng dưng
Nhìn mai vàng nở rưng rưng nhớ nhà
Giờ này mẹ ở quê xa
Cành mai mẹ cắm chắc là vàng thêm.

Người Mẹ

Tác giả: Tế Hanh

Người mẹ đầu tiên lặng ngó con,

Nao nao nghe tự đáy tâm hồn,

Nỗi niềm xương thịt tan như nước

Sự sống nhân đôi, sóng dập dồn

Mới mẻ người mang một mối tình

Bàng hoàng cơ thể chói tâm linh

Từ ta-như-thế sang ta-phải

Người đứng cao hơn số phận mình.

Trông đứa hài nhi thịt thắm tươi

Y nguyên người gặp lại thân người

Tưởng đà chia xẻ trong sinh hóa

Nay lại giàu thêm hạt máu rơi

Người bế con lên trong ánh sáng.

Vui mừng bày tỏ với xa khơi,

Từ trong vật chất vô tri giác

Sự sống vươn lên ánh mặt trời.

Hoàng Hôn

Tác giả: Tế Hanh

Trái tim hấp hối của ngày tàn

Ứa lệ chan hòa ám thế gian

Ấy lúc trời cao buồn goá bụa

Cúi ôm trái đất đỡ băng hàn

Có phải vì tôi kiểu cách đâu!

Khách quan, ngoại cảnh gợi khêu sầu

Hư vô, ý chết luồn trong gió,

Hồn đứng bơ phờ trước vực sâu

Lẻ loi cho đến cả bên chân

Cái bóng trung trinh cũng chẳng quầng

Tay trái thờ ơ, tay phải lạnh

Hững hờ buông thõng hết tương thân.

Một con gà nhỏ lạc trong thôn

Mất mẹ bi thương gọi đứt hồn

Có phải lòng tôi đau quạnh quẽ

Kêu tìm lòng bạn giữa hoàng hôn?

Nhớ Quy Nhơn

Tác giả: Tế Hanh

Lần này ta lại nhớ Quy Nhơn

Tâm trí nao nao, sáng chập chờn

Bình Định bao giờ em trở lại?

Hàng dừa trong gió gọi từng cơn.

Trên đây là các bài thơ hay của nhà thơ Tế Hanh. Hãy đọc và cảm nhận ý nghĩa cái đẹp của những vần thơ nhé! Nó chắc chắn sẽ mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị đấy!

Top 15 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Thị Nguyệt Anh

Nhà thơ Moon Anh tên thật là : Nguyễn Thị Nguyệt Anh quê ở Hoa Lư, Ninh Bình. Hiện đang sống và làm việc tại Macau –
Hongkong. Moon Anh là một nhà thơ được nhiều bạn đọc biết đến trên mạng xã hội. Chị viết được nhiều thể loại thơ khác nhau, chủ đề cuộc sống khác nhau. Thơ của của chị đã được xuất bản trong 7 cuốn in chung nhiều tác giả, và một trong số đó đã được phổ nhạc thành các bài hát được nhiều người yêu thích. Và hôm nay phongnguyet.info xin giới thiệu đến bạn đọc các bài thơ hay nhất của nhà thơ Moom Anh qua bài viết dưới đây nhé.

Miền thương nhớ

Mong ngày trở lại thăm quê
Qua miền thương nhớ câu thề nặng mang
Ngày đi chân bước vội vàng
Cánh cò cõng cả đa đoan dặm trường.

Đêm mình nếm những giọt sương
Chân buồn gót lẻ tha phương xứ người
Tình hoang hoải, nghĩa chơi vơi
Lòng se sắt lạnh nửa đời chưa vui.

Nào ai chia ngọt sẻ bùi
Nào ai đồng cảm ngậm ngùi thương nhau
Nào ai làm nát tim nhàu
Nào ai nhoen lửa đẹp màu phục sinh.

Khi nào trở lại Ninh Bình
Anh cho em gửi chút tình hương quê
Nghĩ ân Cha Mẹ đi về
Nơi miền thương nhớ câu thề mãi ghi.

MC 8/5/2018

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Tràng An quê mẹ

Ta lạc giữa màu xanh dải lụa

Ngỡ Tràng An là của riêng mình
Đắm chìm trong cõi phiêu linh
Núi non phong cảnh hữu tình nên thơ.

Ngắm Bồng Lai lòng mơ huyền ảo
Cưỡi rồng bay đi dạo chốn quê
Dọc ngang thủy động tứ bề
Thiên đường tuyệt mỹ dụ mê hồn người.

Sử nghìn năm một thời còn đó
Đất địa linh cây cỏ đẹp thay
Hào quang chiếu rọi nơi này
Bông lau dựng nghiệp đổi thay thái bình.

Áo Hoàng Bào nhà Đinh trị nước
Kinh đô xưa đi ngược thời gian
Hôm nay đổi mới ngỡ ngàng
Ninh Bình cảnh đẹp ngang hàng Tây Âu.

NB 10/5/2018

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Bên nhau

Hẹn nhau chín đợi mười chờ

Vỗ về khát vọng đổ bờ sông tương
Nhớ ai thức trọn đêm trường
Nghe như đã chạm môi hường buổi nao.

Hương tình trỗi dậy sóng trào
Thấy người e thẹn nép vào song thưa
Lên thuyền du khúc đò đưa
Hữu tình sông núi say sưa non bồng.

Mây vờn nước biếc xanh trong
Dõi theo cánh hạc bóng lồng nguyệt sa
Thung Nham chiều đẹp ánh tà
Ta cùng phiêu cảnh tưởng là đang mơ.

Gặp nhau thỏa ý mong chờ
Yêu em anh ngỏ bằng thơ chữ tình
Đêm ngày đan mộng trúc xinh
Buộc duyên hai đứa chúng mình bên nhau.

Hk : 19/4/2018

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Tình mẹ

Tháng ba về ..! Bên nhà hoa gạo nở

Nặng nghĩa tình nhắc nhở đứa con xa
Ơn người sinh ở mãi chốn quê nhà
Nay mùng tám mua hoa về tặng mẹ

Cả cuộc đời mẹ âm thầm lặng lẽ
Che chở con từ bé đến trưởng thành
Mong đàn con học giỏi đạt thành danh
Niềm hạnh phúc an lành nơi tâm mẹ

Đạo làm con hiếu trung cho phải lẽ
Mẹ đâu cần con trẻ biếu tiền nong
Mà chỉ mong con có một tấm lòng
Biết ăn ở đối trong ngoài êm đẹp

Lối gia phong mình nghèo nhưng khuôn phép
Đừng học đòi bẻm mép thói điêu toa
Để người chê mẹ tủi mắt nhạt nhòa
Nhìn đứa con lời ngoa mà chua sót

Tháng ba về hương xuân càng thêm ngọt
Chim truyền cành luôn hót gọi hè sang
Quà mùng tám bằng thơ viết vội vàng
Kính tặng mẹ khỏe ngang tùng vạn tuổi!.

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –


Cố hương

Ngày con về …!

Qua Hoàng Long đứng đợi
Chuyến đò chiều để tới động Hoa Lư
Trải nghìn năm vẫn đẹp đến bây chừ
Khí oai hùng toàn thư còn ghi lại.

Nền lịch sử đã đi vào huyền thoại
Văn hiến còn sống mãi với thời gian
Thời nhà Đinh lẫm liệt giữa đại ngàn
Vạn chiến tích khải hoàn khai Cồ Việt.

Chuông chùa ngân từ bi tâm bất diệt
Nguyễn Minh không thiền triết đạo cao sâu
Người lừng danh lương y đứng bảng đầu
Giúp Vua Lý trị đau an long thể.

Đức khiêm nhường trăm họ tôn kính nể
Nơi bồng lai kinh kệ tỏa càn khôn
Mùi hương sen quyện trong tiếng mõ dồn
Chùa Bái Đính tôn nghiêm chân – thiện – mỹ.

Đất địa linh sản sinh nhiều Chủ Súy
Có lẽ trời thi vị giúp Hoa Lư
Đến hôm nay lại tái xuất Nhân từ
Theo quán chiếu thiên thư hành phụng chỉ.

Công hiền tài trải qua nhiều thế kỷ
Nay Văn Trường thật đúng một doanh nhân
Xây Tràng An tráng lệ gấp bội lần
Đưa Ninh Bình đẹp ngang tầm Quốc Tế.

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Nhớ quê

Bên ngoài rả rích giọt sầu vương

Lặng lẽ nhìn mưa đổ cuối đường

Dạ nhớ người thân buồn mãi tưởng

Tâm hờn bạn hữu chán rồi thương.

Bao ngày chẳng gặp lâu nhìn sướng

Những buổi gần nhau lại thấy thường

Vẫn hiểu lòng vui vì ép gượng

Mong giờ được ở chốn quê hương.

Nghe lời cha dậy

Lời Cha dạy con còn ghi nhớ mãi

Lúc vừa sinh thơ dại bước vào đời
Lớn lên rồi tung hoành khắp mọi nơi
Con phải hiểu lẽ đời luân đạo lý..

Học luyện tâm nuôi rèn thêm ý chí
Đừng lười nhác ỷ lại dựa người thân
Gặp bất trắc dùng trí để xoay vần
Tránh xa kẻ bội ân không nhãn tuệ.

Sống ở đời ai bon chen mặc kệ
Đừng hạ mình và dễ với tiểu nhân
Giúp đỡ rồi phản ác bạc vô ân
Bỏ yêu thương tình thân lìa đứt đoạn.

Chơi với người đừng bao giờ tính toán
Đừng tự cao ngạo mạn sẽ bị khinh
Đừng khoe khoang quảng đại nhất là mình
Đừng cậy giỏi chê khinh người thấp kém.

Đã chắc gì ta là người trọn vẹn
Sống thiện trung không hổ thẹn lương chi
Vậy lâu nay con học được những gì
Lớn khôn rồi bay đi chim nhạn nhỏ..!

Ra ngoài đời giữ mình mới là khó
Cạm bẫy nhiều nhìn rõ ở quanh ta
Tự mình bươn trong cảnh kẻ không nhà
Mới thấm thía lời Cha mà vững bước.

Dòng đời trôi chảy song hành xuôi ngược
Giữ niềm tin lòng được mãi bình yên
Chẳng âu lo chẳng sợ ám ưu phiền
Con thanh thản hồn nhiên vui cuộc sống.

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Tháng ba về

Xuân đã đi…!

Nhưng tình còn ở lại
Vị ngọt nào giữ được trái tim yêu
Men say nào để nhung nhớ thật nhiều
Nuối tiếc nào khiến lòng buồn hoang hoải.

Màn đêm buông
Thấy tim mình khờ dại
Giọt đìu hiu rơi mãi chốn tha phương
Nỗi cô đơn vò nát vụn miên trường
Nhớ thương người vấn vương buồn tâm khảm.

Giữa thinh không
Nhìn sao trời ảm đạm
Có phải rằng thiếu bạn để hàn huyên
Ta hái trăng cắt nửa vội làm thuyền
Chở thân ái về miền duyên trót nợ.

Tháng ba về ..!
Hoa bên vườn đã nở
Cánh tròn xoe gợi nhớ lúc người đi
Tay đan tay nghẹn chẳng nói câu gì
Hương bưởi thơm thầm thì thay hẹn ước.

Tháng ba ơi..!
Niềm vui nào sánh được
Khúc khải hoàn dìu bước dưới cơn mưa
Hương bưởi thơm nặng nghĩa ái ân vừa
Quyện hồn quê sớm trưa lòng nhớ mãi.

Xuân đã đi ..!
Nhưng tình người ở lại
Ta yêu người… yêu mãi quê hương ơi ..!

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Tiếng gọi quê hương

Về đi em …!

Em đi hoài đi mãi
Sao không về nán lại ghé thăm tôi
Vắng bóng em đường rêu phủ kín rồi
Đêm trùng xuống đất trời nghe im quá.

Ngày em đi..!
Mưa lăn dài trên má
Chuyến đò buồn lạnh giá cả dòng sông
Khúc nghê thường ai hát giữa ngày dông
Tiễn người đi má hồng cay phận đắng.

Em đi rồi. !
Tôi mang sầu phơi nắng
Đan nghĩa tình sưởi ấm lại bờ môi
Giữ tin yêu trao gửi mỗi một người
Xây hạnh phúc mong đời vui an lạc.

Em có nghe..!
Ân tình qua bản nhạc
Bến sông quê dào dạt nhớ người đi
Cho dù em đã hết tuổi xuân thì
Sông ngàn năm rầm rì trông ngóng đợi.

Về đi em..!
Quê mình thay đổi mới
Đang chuyển mình đi tới đỉnh tương lai
Kinh đô xưa mọc cung điện đền đài
Nét cổ kính chạy dài theo lịch sử.

Về đi em.. !
Thôi đừng nên do dự
Đất Mẹ hiền đợi lữ thứ xa quê
Đường thênh thang mở rộng đón em về
Ấm tình người , tình quê hương yêu dấu.!

Mc : 11/8/2018

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Nhớ quê

Ngồi nghĩ về quê lại thấy buồn

Xa nhà biệt xứ tủi mình bươn
Nơi người vất vả gian nan lắm
Nhớ mẹ thương cha nhớ cội nguồn

Sắp hết năm rồi vẫn lạnh đông
Mẹ bên bếp lửa có ấm không?
Hay lòng lạnh lẽo vì con vắng
Khổ đợi chờ mong mắt lệ dòng.

Thương lắm mẹ ơi con biết rồi
Từ khi còn nhỏ ẫm trong nôi
Ngày đêm vất vả nuôi con lớn
Nghĩa mẹ bây giờ vẫn thế thôi.

Đông đã xa dần xuân sắp sang
Nhà ai cũng đẹp rất khang trang
Gia đình sum họp chờ năm mới
Chỉ mỗi mẹ thôi nước mắt tràn.

Thứ lỗi cho con nhé Mẹ ơi!
Mẹ người vĩ đại nhất trên đời..!
Tình như biển rộng con ghi nhớ
Nghĩa tạc ghi lòng mãi chẳng vơi!

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

HOA CỦA NẮNG

Em chưa về ..!

Con phố nhỏ buồn tênh

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

SẮC TÍM DUYÊN QUÊ

Giọt nắng hồng sưởi ấm áp buồng tim

Cơn mưa hạ khát tìm duyên ngọt lẫy

Khẽ đánh thức mộng huyền say tỉnh dậy

Phút ân nồng đưa đẩy sóng lòng khua

Hè sắp đi gọi hanh để giao mùa

Đường thảm tím hoa mua màu rực rỡ

Ta hái tặng trao tình riêng bớt nhớ

Bao tháng chờ cứ sợ sắc tàn phai

Hoa đã quen khắc nghiệt những năm dài

Biết thương cảm đời ai nhiều sóng gió

Sớm vui nhấm từng giọt sương nho nhỏ

Hay thích đùa trước ngõ với đêm thanh

Có một hôm trăng bỗng lọt qua mành

Thấy Lãng Tử vẽ tranh màu tim tím

Điểm tình tứ lên rèm thưa bịn rịn

Đẹp ngỡ ngàng thầm kín nét thủy chung.

Hk :18/6/2019

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

HẸN NGÀY VỀ

Con đi mãi ..!

Giữa dòng đời xuôi ngược

Nợ ân hồng tổ nghiệp chốn Con sinh

Nợ quê hương một mái ấm gia đình

Nợ chữ hiếu, chữ trung chưa tròn vẹn

Con phải trốn ..!

kẻ lòng lang “trơ trẽn”

Nhận kiếp tằm kéo kén quặn nhả tơ

Đường duyên sinh mấy nẻo tuyết giăng mờ

Dòng trong, đục ..lững lờ trôi mải miết

Con rất hãi… !

Cõi trần gian mỏi mệt

Tủi một mình da diết nhớ thương quê

Ước ngày mai Con sẽ lại trở về

Tìm người đã nguyện thề đêm trăng tỏ

Con thỏa mãn ..!

Nhìn sen hồng trước ngõ

Mùi hương trầm theo gió nhẹ bay xa

Gặp tri âm hàn huyên dưới bóng tà

Nâng chén nghĩa rượu trà thơm hoan hỷ.

Hk: 10/6/2019

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

KHIÊM NHƯỜNG

Người mải miết cuốn theo dòng cuộn chảy

Tới một ngày xin hãy nghỉ dừng chân

Bởi vì hên chỉ đến một hai lần

Thì cố giữ đừng để thân mờ nhạt

Đời mãi ước biển trời xanh bát ngát

Luôn nồng nàn thơm ngát đủ vị hương

Nét tinh khôi trải khắp mọi con đường

Nhìn sẽ thấy tình thương nhiều vô hạn

Trong cõi tạm lắm lọc lừa thấy ngán

Chỉ lòng tham nghĩa cạn khó đường lui

Chẳng tri âm để chia sẻ ngọt bùi

Ôm tủi cực chôn vùi danh dĩ vãng

Lời thánh thiện như bình minh tỏa sáng

Bậc Hiền tài tỏa rạng đức ngời tâm

Sống tinh anh biết nhẫn kẻ hại ngầm

Cốt để giữ tình thân đừng ly biệt

Đời là vậy oán ân buồn thảm thiết

Kẻ hai lòng quân phiệt mấy người ưa

Hám lợi danh quẫn chí hoảng làm bừa

Luật nhân quả xin thưa nằm đợi sẵn.

HK :3/6/2019

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

THỜI GIAN KHÔNG TRỞ LẠI

Em mơ gì ngày tháng dần trôi

Ôm kỷ niệm đêm ngồi lặng lẽ

Bên khóe mắt hằn chân chim sẻ

Vết thời gian kẻ vẽ nhăn nhiều

Em dỗi gì để biếng lời yêu

Thềm cỏ úa bơ chiều nắng nhạt

Đôi chân nhỏ giẫm mềm sỏi cát

Bàn tay trần hứng hạt mưa sa

Em thương người hay khóc thương ta

Buồn trong cõi ta bà mệt mỏi

Trời hửng nắng niềm tin vẫy gọi

Những ưu tư cuộn gói gửi rừng

Mượn đại ngàn cơn gió dửng dưng

Thổi bay hết sầu đừng ở lại

Để tóc xanh đẹp màu trẻ mãi

Để nhân loài kết trái yêu thương.

Hk: 22/5/2019

– Nguyễn Thị Nguyệt Anh –

Thơ Nguyễn Thị Nguyệt Anh mềm mại và đầy uyển chuyển trong từng cách dùng từ nhưng vẫn mang đầy tính triết lý và nhân văn. Đọc thơ của chị ta cảm nhận được nỗi nhớ quê hương da diết của nữ thi sĩ xinh đẹp này.

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Anh Ngọc

Nhà thơ Anh Ngọc tên thật là Nguyễn Đức Ngọc, sinh năm 1943 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Bút danh khác còn có Ly Sơn. Thể loại sáng tác: thơ, dịch, truyện ký. 1964-1972 dạy trường Trung cấp và Đại học Thương nghiệp, 1971-1973 là lính thông tin ở mặt trận Quảng Trị, 1973-1979 là phóng viên báo Quân đội nhân dân, từ năm 1979 là biên tập viên, cán bộ sáng tác tạp chí Văn nghệ quân đội. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1980). phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Mỵ Châu

Mỵ Châu

Thơ Anh Ngọc

Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không biết tự dấu mình.

Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết.

Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.

Giá như như trên đời còn có một Mỵ Châu
Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác

Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ

Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
Ðể chung thuỷ với tình yêu hai ngàn năm có lẻ

Như anh với em dẫu yêu nhau chung thuỷ
Ðến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.

Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết

Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.

Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống.

Cái đầu cụt gợi nhớ dòng màu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.

Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu
Ðời còn giặc xin đừng quên cảnh giác.

Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình.

Bài thơ: Cây xấu hổ

Cây xấu hổ

Thơ Anh Ngọc


Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ
Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười

Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Tất cả lộ nguyên hình trần trụi
Cây xấu hổ với màu xanh bối rối
Tự giấu mình trong lá khép lim dim

Chiến sĩ qua đây ai cũng bước rất êm
Khi bất chợt thoảng một bàn chân lạ
Cây vội vã nhắm nghìn con mắt lá
Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào

Người ra rồi bóng dáng cứ theo sau
Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm
Cây đã hé những mắt tròn chúm chím
Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo

Phút lạ lùng trời đất trong veo
Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ
Nhiều dáng điệu thoáng qua trong trí nhớ
Rất thân quen mà chẳng gọi nên lời

Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Cây hiện lên như một niềm ấp ủ
Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ
Ướp vào trong trang sổ của mình

Và chuyện này chỉ cây biết với anh.

Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009

Bài thơ: Vị tướng già

Vị tướng già

(Kính tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Thơ Anh Ngọc

Những đối thủ của ông đã chết từ lâu
Bạn chiến đấu cũng chẳng còn ai nữa
Ông ngồi giữa thời gian vây bủa
Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình

Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh
Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy
Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy
Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù

Trong góc vườn mùa thu
Cây lá cũng như ông lặng lẽ
Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ
Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây

Ông ra đi
Và…
Ông đã về đây
Đời là cuộc hành trình khép kín
Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến
Là một trời nhớ nhớ với quên quên

Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên
Cõi nhân thế mây bay và gió thổi
Bầy ngựa chiến đã chân chồn, gối mỏi
Đi về miền cát bụi phía trời xa

Ru giấc mơ của vị tướng già
Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở
Một chân ông đã đặt vào lịch sử
Một chân còn vương vấn với mùa thu.

Bài thơ này được viết năm 1994 sau khi tác giả cùng các nhà văn quân đội vào ngôi nhà 30 phố Hoàng Diệu thăm Đại tướng nhân kỷ niệm 50 năm thành lập quân đội.

Bài thơ: Giá như

Giá như

Thơ Anh Ngọc

Nhớ xưa em bảo cùng anh:
Nếu mai hai đứa chúng mình chán nhau
Thì đời buồn biết bao nhiêu…
Vô tư anh chẳng nghĩ điều ấy đâu.

Ngày vui thấm thoắt qua mau
Bây giờ mình đã xa nhau thật rồi
Người xưa đã vắng bên trời
Lời xưa đã hoá thành lời tiên tri

Tình yêu đến, tình yêu đi
Biết chăng thì cũng làm gì được đâu

Giá ngày ấy chẳng gặp nhau
Chẳng trao ánh mắt, chẳng trao nụ cười

Thản nhiên hai cái mặt người
Dửng dưng đi giữa cuộc đời dửng dưng
Rồi ra mỗi đứa một đường
Không xao xuyến, chẳng vấn vương trong lòng

Chẳng buồn, chẳng nhớ, chẳng mong
Đêm không mộng mị, ngày không đợi chờ…

Giá như hai đứa… ngày xưa
Chán nhau ngay lúc mới vừa gặp nhau…

(27-1-2007)

Bài thơ: Thị Màu

Thị Màu

Thơ Anh Ngọc

Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo
Người không hề biết sợ
Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo
Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng
Người trung thực đến không cần giấu giếm
Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa

Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa
Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo
Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu
Nên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Người đi qua nghiêng ngả những trận cười
Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa
Người chịu hết mọi thói đời độc địa
Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung

Trên môi người câu hát cứ trẻ trung
Từng sợi tóc cũng rung theo nhịp phách
Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt
Người đi qua sân khấu tới đời thường

Người sống trong hơi thở của nhân dân
Mấy trăm năm ai để thương để giận
Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn
Nhịp trống gầm lên những khát vọng không lời

Những khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim người
Được sống đúng với lòng mình thực chất
Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Màu

Những cánh màn đã khép lại đằng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
Bao Thị Màu đã trở về đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi .

Bài thơ: Cho một người

Cho một người

Thơ Anh Ngọc

Tiễn người ra cửa rồi
Tôi quay vào lặng lẽ
Chợt thấy mình cô đơn
Giữa ngổn ngang bàn ghế

Khi người không yêu ta
Buồn đã đành một nhẽ
Khi ta không yêu người
Sao cũng buồn đến thế

Như đánh mất điều gì
Lòng bâng khuâng khó tả
Như thể mắc nợ ai
Món nợ không thể trả

Có lẽ ta thương người
Giờ này đang lủi thủi
Hay là ta thương ta
Từng chịu nhiều hắt hủi

Ngỡ chẳng có gì đâu
Mà sao thành rắc rối
Tất cả chỉ một lời
Nói hay là không nói?

Bởi đơn giản thế thôi
Biết làm sao cho được
Khi người thì yêu tôi
Còn tôi yêu người khác.

Bài thơ: Ánh mắt

Ánh mắt

Thơ Anh Ngọc


Ánh sao trời muôn ngàn tia lấp lánh.
Như muôn ngàn hoa trắng điểm trời cao.
Nuôi ước mơ từ những thuở năm nào.
Muốn bay bổng tới vì sao xa thẳm.
Sao trời kia ôi muôn vàn đẹp lắm.
Nhưng ngàn năm vẫn lơ lửng góc trời.
Mặc không gian cho ngày tháng năm trôi.
Sao không hiểu nỗi lòng em ngọt đắng.
Sao không hiểu trái tim em khát vọng.
Hiểu làm sao những thiên thể lạnh lùng.
Chỉ có mắt anh – ôi ánh mắt sáng trong.
Là có thể hiểu lòng em tất cả.
Ánh mắt anh – ôi ánh sao rực rỡ.
Sao tình yêu, sao lửa cháy lòng em.

Bài thơ: Có lẽ nào anh lại sợ tình yêu

Có lẽ nào anh lại sợ tình yêu

Thơ Anh Ngọc

Có lẽ nào anh lại sợ tình yêu
Như sợ hãi lòng người quay quắt
Sợ sáng nắng chiều mưa
Sợ có rồi lại mất
Sợ nước chảy hoa trôi trơ lại bọt bèo

Có lẽ nào anh lại sợ tình yêu
Như sợ cảnh xây nhà trên cát
Sợ bắt tép nuôi cò
Khi cò lớn cò dò bay mất
Khổ thân ai công cốc dã tràng

Ôi tình yêu ngươi là thứ vết thương
Phủ đầy gấm vóc
Lời ân ái với ngươi là thuốc độc
Giấu gươm dao sau đường mật ngọt ngào

Có lẽ nào anh lại sợ tình yêu
Cái vẻ đẹp làm bằng đau đớn
Anh như kẻ sợ ma nên hết lớn:
Sợ gì ma, ta chỉ sợ con người.

(2001)

Một con mèo nằm ngủ trên ngực tôi

Một con mèo nằm ngủ trên ngực tôi

Thơ Anh Ngọc

Một con mèo nằm ngủ trên ngực tôi
Dưới con mèo trái tim tôi đang đập
Tôi nằm nghe nhịp nhàng thánh thót
Trái tim tôi hoà nhịp trái tim mèo

Khép lại rồi đôi mắt biếc trong veo
Khép lại rồi hàm răng dài nhọn hoắt
Nỗi kinh hoàng của bầy chuột nhắt
Khép lại rồi bóng tối của đêm đen

Giờ nằm đây trong cơn mơ bình yên
Như đứa trẻ trong vòng tay ấp ủ
Trên ngực tôi một con mèo đang ngủ
Trưa mùa đông nằng nặng đám mây chì…

Trái tim tôi trong một phút bỗng mềm
Có chút gì rưng rưng như hạnh phúc
Được che chở được vuốt ve, đùm bọc
Được âm thầm cất tiếng hát ca ru…

Ngủ đi ngủ đi đôi tai vểnh ngây thơ
Ngủ đi ngủ đi cái đuôi dài bướng bỉnh
Ngủ đi ngủ đi con hổ con kiêu hãnh
Hàng ria mép ngang tàng đôi mắt biếc trong veo

Tôi nằm nghe trái tim mình ca hát
Trên ngực tôi nằm ngủ một con mèo…

Bài thơ: Chuyện nhỏ trong rừng

Chuyện nhỏ trong rừng

Thơ Anh Ngọc

Anh chợt vung dao chém xuống
Một thân cây nhỏ dịu hiền
Đột ngột rơi đầy mặt đất
Những chùm hoa nhỏ không tên.

Con đường phải đi, phải đến
Cột, xà, dây, sứ chờ anh
Mặt đất chừng như chảy máu
Bâng khuâng một phút không đành.
Thế đó, làm sao khác được
Những cánh rừng và chiến tranh
Cho đến câu thơ anh viết
Nhiều khi bằng máu của mình.
Bông hoa nằm trên mặt đất
Lặng im không nói một lời
Mỗi bước dây lên phía trước
Lát đầy những cánh hoa rơi

Nhà thơ Anh ngọc là một cây bút gạo cội trong nền thi ca Việt Nam. Thơ ông luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng dộc giả