Về làng

Tác giả: Nguyễn Duy

Làng ta ở tận làng ta
mấy năm một bận con xa về làng
gốc cây hòn đá cũ càng
trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay

Cha ta cầm cuốc trên tay
Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa
Lưng còng bạc nắng thâm mưa
bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì

Không răng… cha vẫn cười khì
rượu tăm còn để dành khi con về
ngọt ngào một chút nem quê
cay tê cả lưỡi đắng tê cả lòng

Gian ngoài thông thống gian trong
suốt đời làm lụng sao không có gì
không răng… cha vẫn cười khì
người còn là quý xá chi bạc vàng

Chiến tranh như trận cháy làng
Bà con ta trắng khăn tang trên đầu
vẫn đồng cạn vẫn đồng sâu
chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa

Đường làng cây cỏ lưa thưa
thanh bình từ ấy sao chưa có gì
không răng… cha vẫn cuời khì
giàu nghèo có số nghĩ chi cho buồn

mẹ ta vo gạo thổi cơm
ba ông táo sứt lửa rơm khói mù
nhà bên xay lúa ù ù
vẫn chày cối thậm thịch như thuở nào

Lũ em ta vác cuốc cào
giục nhau bước thấp bước cao ra đồng
mồ hôi đã chảy ròng ròng
máu và nước mắt sao không có gì

Không răng… cha vẫn cười khì
đời là rứa kể làm chi cho rầu
cha con xa cách đã lâu
mấy năm mới uống với nhau một lần…

Ruột ta thắt mặt ta nhăn
Cha ta thì cứ không răng cười cười
Ta đi mơ mộng trên trời
để cha cuốc đất một đời chưa xong

Thanh Hóa, cuối 1988

Những gương mặt thời gian

Tác giả: Lê Quang Sinh

Trích Trường ca Xin làng trồng lại cây đa

I

Tôi tìm lại những năm tháng cũ
Đom đóm bay lấp lóe tuổi học trò
Đền Phủ Mẫu suốt ngày chim chích hót
Trái đa rơi đầy những lời ru.

Mẹ tôi ru giọt buồn của ngoại
Con cá, con tôm, cánh vạc, thân cò…
Gió đông thổi ngập đồng Đằn năn lác
Đong đầy con mắt tháng ba.

Ngồi nghỉ dưới gốc đa
Ngả nón quạt một cánh đồng khô khốc
Những thợ cày thợ cấy
Lội qua con gió lào.

Mẹ ủ mốc tương
Trên chiếc nia cha đan mùa trước
Bữa cơm rau muống dầm sương
Cha mẹ làm nên ngon ngọt đời thường.

Thế mà con đã nghịch vỡ vại tương
Buổi trưa ấy
Trốn lên cành đa cùng lũ bạn
Gặp nắng òa,
Bóng mẹ nỏ trên sân.

Mẹ lặng lẽ nhặt lên từng mảnh vỡ
Lòng chắt chiu lại chắp, lại hàn
Ủ ấm niềm tin vô tình con đánh mất
Đem hết lòng nhân hậu vá cho con.

Đốt đèn lên mẹ đi khắp xóm
Đường sống trâu đêm lập lòe đom đóm
Tiếng tắc kè vấp lên, vấp xuống
Vin ngọn đèn làm gậy chống qua đêm.

Như dòng sông cần mẫn phù sa
Mùa ngô như trổ từ tóc mẹ
Đàn sáo ào lên từ vạt cỏ
Lắng xuống vòm đa xanh.

II

Các anh xa làng từ đầu cuộc chiến tranh
Có người đi không bao giờ trở lại
Trịnh Huy Lượng
Liệt sĩ đầu tiên thời chống Mỹ
Trần Văn Phú
Nằm lại rừng miền Đông trong trận mở màn
Vũ Văn Cần
Lê Văn Tươi
Những đứa bạn tôi
Gửi lại làng một thời tới lớp
Bạn nằm lại như cây cột mốc
“Nam quốc sơn hà…”.
Dưới tán đa
Là hương khói,
Là làng
Lặng lẽ tiễn đưa
Những vong hồn
Đền Phủ Mẫu tiếng chim thảng thốt
Nước mắt người vàng vọt lá đa xanh.

Những rễ đa những những ngón đa người
Bấu vào đất mà tìm sự sống
Những trận bão tung cây
Những mùa lũ mặt người, mặt nước
Không yêu đất làm sao trồi ngụp được
Đa với người làm một chứng nhân.

Đi qua những mùa nám bã chè
In nửa mặt chị tôi
Chồng chết sớm
Làm mẹ,
Làm người đàn ông trong nhà
Lũ con nhỏ như tổ chim gặp bão
Chạy chợ qua sông
Gặp mặt mình trong nước…

Trưa ấy chị vào đền Phủ mẫu
Dưới tán đa lẩm nhẩm khấn thầm
Làm sao tôi biết được
Chỉ trách sông trong văn vắt nước
Vô tình làm gương soi.

III

Chúng tôi lớn lên
Những trai tráng của làng
Bằng tất cả những gì làng có
Củ sắn non
Hoa bí hoa bù
Biết đặt trúm, đặt lừ
Đào bùn bắt trạch
Biết đan cái nia
Biết làm cái vách
Biết hái hoa mơ mộng ngất trời
Ăn bữa trưa phải nhìn bữa tối
Hạt ngô non bấm bụng để già
Bát nước chè xanh sớm tối
Gọi nhau qua hàng rào…
Ai cất câu hò mà sông mà nước
Để chẳng thể cầm lòng quên nhau được.

Thăm thẳm nghìn năm
Lời ru lắng lọc sông trong vắt
Chúng tôi bơi trên dòng sông ấy
Chúng tôi uống bằng nguồn nước ấy
Bằng những câu ca người mẹ nào cũng thuộc
Bãi Phốc Chùa xưa miên man hoa Cúc
Các anh từng đến đây
Leo lên gác chuông mắt đổ xuống sông này
“Bao giờ ghềnh Sét đứt đôi…”

Ghềnh Sét đứt đôi
Sông con lấp cửa
Lời niệm vào sông núi đất đai
Phù sa bồi phù sa – Gương mặt những hiền tài.

Anh lặng im
Đối mặt với ngọn đèn
Đối mặt với ước mơ
Đã đôi lần thất bại
Sông chẳng là sông nếu không còn bờ bãi
Mỗi cánh buồm chẳng có khát khao riêng!

Tôi nhận ra anh vóc dáng cánh buồm
Nơi bến đỗ xuân về hoa trổ trắng
Có một người con gái đứng chờ anh
Có một làng già trẻ đứng chờ anh
Dưới gốc đa ngày ấy
Thơ tìm ra hạt giống để gieo trồng.

IV

Chót vót cành đa một tổ chim non
Chúng ríu rít giữa vòm trời thăm thẳm
Trưa nắng đọng nghe tiếng chim mảnh mỏng
Cứ dát vàng mặt đất đợi người xa.

Cảm ơn em dưới gốc đa ngày ấy đã trao quà
Một cuốn sổ tay, đôi câu thơ đề tặng
Lời thì xa xôi, ánh mắt đầy hoang vắng
Đã bao lần cố gỡ lại bầm thêm.

Sông Mã ơi, tạc giữa trời xanh
Em xuống tắm thế mà lau trổ trắng!

Làng tôi

Tác giả: Nguyễn Bính

Trích trường ca

Làng tôi cũng có sông cùng núi
Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ
Lụt năm Tỵ1 dân xiêu đi quá nửa
Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ

Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa
Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì
Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm
Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi

Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột
Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi
Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất
Cha dìu con… gục xuống, mòn hơi rồi

Anh em nhà lý trưởng Cời
Thừa lúc làng xiêu dân đói
Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian
Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói…

Tôi mười một mười hai còn đóng khố
Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê
Chiều hôm bụng đói, em thì quấy
Ngóng mẹ đường thôn túm gạo về

Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói
Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm
Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm
Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm

Có thím Hợi mù lòa cạnh vách
(Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)
Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán2
Tỉ tê giọng oán câu hờn…

Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật
Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn
Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng
Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn…

Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt
Trộn đầy nước mắt, mưa thu
Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc
Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa

*

Mẹ tôi
Con gái làng Mai
Ai cũng phải khen rằng đẹp
Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai
Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp

Mười tám tuổi gả về xóm Núi
Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày
Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái
Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây

“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền…”
Vợ chồng đôi ngả
Con sông chảy mãi về đâu?
Bóng núi đè thâm mái rạ…

Một hôm có giấy quan về
(Ngỡ thế nào kia
Ngờ đâu ra thế!)
Lý Cời qua ngõ tạt vào
Rượu vẫn còn say bí tỉ
Tờ giấy mở ra
Trắng lốp một màu tang chế
“Này chị ấy ơi
Giấy trên vừa mới chạy về
Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ
Chính phủ Lang Sa
Đền công chồng chị
Đây tấm bằng suất đội kèm theo
Chữ kí quan Tây
Triện đồng đỏ chóe
Chị giữ lấy mà treo
Một bước lên bà
Sướng nhé!”
Hắn vê ria mép cười tình
Nhay nháy mắt lươn ti hí
“Này! Lo lợn gạo mà khao
Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế
Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho
Muốn trả, muốn không, tùy bụng chị.
Cứ ừ một tiếng là xong
Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế…
Người thế kia mà lận đận chồng con
Nghĩ thương đáo để!”
Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng
Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ
Nước mắt dài hơn người
Lòng rối như canh hẹ
Con thơ níu áo hỏi dồn:
“Ông lý cho gì hở mẹ?”

Thế là
Áo trái đường khâu
Chèn thêm chốt cửa
Bỏ ngoài tai câu ý câu tình
Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó

Giọng hát véo von
Mẹ dành để ru con ngủ
“Ạ ời ơi
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về…”
Ăn đói làm thuê
Cơm niêu nước lọ
Mẹ ở vậy nuôi con
Tháng năm vò võ…

Tôi có thằng bạn nhỏ
Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhau
Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ3
Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu…

Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc
Có tài bắn súng cao su
Trăm phát chẳng sai một phát
Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù…

Nó mấy năm ròng lẽo đẽo
Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời
No đòn vọt mà đói cơm đói cháo
Vết lằn roi không kịp lặn trên người

Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó
Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu
Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa
Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu

Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông
Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ
Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no
Người phù thũng, da vàng như xát nghệ

Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi
Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc
Giơ lưng, lật áo cho xem
Máu chảy thành dòng
Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:

“Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi
Xó chợ, đầu đường, ra Đông4, ra Bắc5
Cũng cứ liệu thôi!
Ở với nó có ngày chết mất!”
Nói rồi nó bỏ đi luôn
Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt

Nhưng ngay chiều ấy
Đinh lại quay về
Nó đứng đầu hè
Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ
“Mày ơi, nghĩ lại không đành
Đi thì yên một thân tao
Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?
Cái kiếp thằng tao
Sao mà khổ thế!
Tí nữa đây tao ló mặt về
Cầm chắc ăn đòn bội nhị”
Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi
Những trận đòn đau sắp tới:
“Thôi lại sáng mai
Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi
Bờ sông lúc nãy tớ đi qua
Sáo sậu về vô khối
Ngày mai bắt sống một con chơi
Lột lưỡi dạy cho nó nói…”

*

Tết đến, xuân về
Phây phây mưa bụi
Xanh non lá lộc nhú cành khô
Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội
Xuân vui nhà ngói nhà lim
Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi
Nhà lý trưởng Cời
Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối
Nhà tôi tết đến cũng như không
Ba nén hương đen
Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói

Xong tết bên sông làng mở hội
Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo
Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại
Vách núi ầm vang tiếng trống chèo

Ba gian đình cổ người đông nghịt
Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu
Tôi rủ Đinh chen vào góc cột
Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu

Hồi trống giãn trò vừa dứt
Cũng vừa gà gáy sang canh
Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh
Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh

Đò trở ngang sông
Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:
“Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời
Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!
Cũng ria mép đen thui,
Cũng mắt lươn trắng dã
Từ rày đừng gọi Lý Cời
Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!”

Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi
Tôi thường bàn tán với Đinh
Thương họ Thạch hàn vi côi cút
Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình
Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ
Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh…

Đinh vội cướp lời, kể lể
“Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế
Tao đương cắt cỏ bờ sông
Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông
Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng
Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống
Vội vàng nó hóa Trăn Tinh
Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình
Tao không sợ, tao liền hóa phép
Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt
Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng…”

Hai đứa nhìn nhau thích chí
Tưởng đâu đời sắp sướng rồi
Như họ Thạch hết hồi bĩ cực
Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngôi…

Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi
Sự thật ngày thêm cơ cực quá
Chẳng một lần được tiên cho phép lạ
Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai
Xóm Núi, làng Mai
Nghèo đói càng thêm nghèo đói
Thím Hợi hát rong không sống nổi
Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa
Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa
Đêm mưa tối vẫn kể Bần nữ thán
Mẹ tôi da dẻ ngày đen sạm
Kỳ giở giời lưng nhức chân tê
Những hôm mưa gió dầm dề
Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo
Nghèo rớt mồng tơi
Không mua nổi chỉ kim vá áo
Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm
Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn
Mấy bận lại quay về chịu đánh
Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh
Súng cao su không bắn chết được chằn tinh
Xám ngắt ao tù
Ngày tháng quẩn quanh
Cùng đường nghẽn lối
Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi
Xây nhà tây chót vót hai tầng
Cửa sổ há ra như mồm những con trăn
Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi
Trong nhà nó cứ vui như mở hội
Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn
Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan
Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ
Tây với Nhật ra vào lố nhố
Bắt phu, cướp thóc
Nghênh ngang súng ngắn gươm dài
Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay
Trời nghiêng đất lệch

*

Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách
Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm
Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm
Một bát canh cần cá quả
Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xỏa
Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum
Đinh đánh liều lấy trộm một con
Về nấu bát canh cho mẹ
Trời xiêu bóng xế…
Đinh múc canh bưng đến cạnh giường
Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn
Không ăn được nữa
Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở
Bát canh rơi vỡ tan tành…

Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh
Cuối xóm đường đi lút cỏ
Rờn rợn mùi hương
Lều tối lóe lên ba chấm đỏ
Đinh đang quỳ khấn nỉ non
“Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con…”
Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:
“Tao đi thật, chuyến này đi thật
Tao định rủ mày, hai đứa với nhau…”
Tôi hỏi: “Đi đâu?”
Nó rằng: “Không phải hỏi
Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội
Thân lập lấy thân
Hai bàn tay làm lấy mà ăn
Không để đói, không để ai đánh chửi”

Dằng dặc trời sao chấp chới
Gió may sương muối rét tê người
Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời
Dừng lại ngó tòa nhà tây cao ngất
Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát
Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương
Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường
Đinh chửi một câu, rút súng cao su lắp đạn
Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn
Nghe một tiếng choang
Một khung kính cửa vỡ tan
Đàn chó sủa ầm hốt hoảng
Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng…

Trời rét
Đêm khuya
Đò vắng
Cởi áo quần hai đứa lội qua sông
Tưởng mình như hai gã tiểu đồng
Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ
Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!
Qua sông. Trời sắp sáng rồi
Ngoảnh trông xóm Núi bồi hồi
Chắc mẹ đêm qua lại khóc
Xóm Núi sương giăng
Mặt trời chưa mọc
Đó đây nghe đã rộn canh gà

Bỏ làng đi năm bốn mươi ba6
Hai đứa mới mười sáu tuổi…

Nam Định 1961