Câu thơ tài hoa được nhiều người tìm đọc nhất hôm nay 11/12/2025

Mùa thu đã đủ trình bày
Thì mùa thu chín trên cây cho mình
Hương cho gặp,sắc cho nhìn
Hái hay không cũng của tình yêu thương

Tính cách - Phạm Ngọc Thảo

Top 20 bài thơ có tổng lượt xem nhiều nhất hôm nay 11/12/2025

Khóc Chồng Làm Thuốc

Khóc Chồng Làm Thuốc

Khóc Chồng Làm Thuốc (Hồ Xuân Hương)

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên phải khóc tì ti
Ngọt ngào thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ôi vị quế chi
Thạch nhũ trần bì sao để lại
Quy thân liên nhục tẩm đem đi
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ
Sinh ký chàng ôi tử tắc quy

(Bản khắc 1914)

– Bản Quốc văn tùng ký
Tựa đề: Cô lang thuốc khóc chồng
Câu 2: Thương chồng nên nỗi khóc tì ti
Câu 6: Quy thân liên nhục nhớ đem đi
Câu 7: Dao cầu thiếp biết trao ai được

– Bản Quế Sơn thi tập
Tựa đề: Vô đề 42
Câu 2: Khóc gì những tiếng tỉ tì ti
Câu 5: Thạch nhũ trần bì phong để lại
Câu 6: Quy thân liên nhục gói đem đi
Câu 7: Đông hoa thảm đạm hay chăng tá
Câu 8: Sinh giã thương tâm tử giã ly

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Khóc Chồng Làm Thuốc” của tác giả Hồ Xuân Hương. Thuộc tập Thơ Nôm Truyền Tụng, danh mục Thơ Hồ Xuân Hương trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Top 10 Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát (lớp 8) hay nhất

Top 10 Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát (lớp 8) hay nhất

Trong chương trình Ngữ Văn các khối, chúng ta đã được tiếp xúc và tìm hiểu rất nhiều thể loại, văn bản văn học khác nhau. Về thể loại có thể kể đến: thơ lục bát, song thất lục bát, thơ thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, thơ tự do, truyện ngắn, tiểu thuyết hay sử thi,… Khi làm bài văn thuyết minh, chúng ta chú ý đến các phần chính: nêu nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa, sự phát triển. Đặc biệt học sinh cần đưa thông tin chính xác nhưng có sức thuyết phục với người đọc. Mời các bạn tham khảo một số bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát hay nhất đã được phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 1

Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ớ câu tám chữ. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, thanh và vần, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Luật thanh trong thơ lục bát: Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1, 3, 5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2, 4, 6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:

Câu lục: Theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng

Câu bát: Theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B

Ví dụ:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân (B-T-B)

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều (B-T-B-B)

(Tố Hữu)

Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.

Ví dụ:

Có xáo thì xáo nước trong T-T-B

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B

Hay:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B

Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Như thế ngoài vần chân có ở hai câu 6 8, lại có cả vần lưng trong câu tám.Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đôi thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.

Ví dụ:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Ngoài đối thanh còn có đối ý:

Dù mặt lạ, đã lòng quen

(Bích câu kì ngộ)

Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…

Người thương/ơi hỡi/ người thương

Đi đâu /mà để /buồng hương/ lạnh lùng

Đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3: Chồng gì anh/ vợ gì tôi Chẳng qua là cái nợ đòi chi đây. Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5… Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này.

Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mồi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần… đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.

Bên cạnh lục bát truyền thống còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần… Hiện tượng lục bát biến thể là vàn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trường hợp: Lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng. Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu…

Do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vần là thể lục bát vì nó có khả năng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: Tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất được, yêu lao động, yêu thiên nhiên…. Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao, tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyền tải bằng lục bát. Việc sáng tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi vận dụng thể lục bát trong các sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Dòng lục bát hiện đại có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu…

Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nên nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 2

Bắt nguồn từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện thơ Nôm… thơ lục bát đã đạt đến sự hoàn thiện hoàn mĩ với Truyện Kiều của thiên tài Nguyễn Du. Trong thơ ca hiện đại, thơ lục bát vẫn được tiếp tục phát huy qua thơ Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa… và nhiều nhà thơ khác, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong lòng người đọc.

Có thể nói rằng không người Việt Nam nào mà lại không biết đến thơ lục bát, một thể thơ thuần túy dân tộc, xuất hiện đã hàng ngàn năm nay. Từ thuở nằm nôi, nằm võng, theo lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, thơ lục bát đã ngấm vào tim óc, làm nên đời sống tâm hồn phong phú của mỗi con người. Nghiên cứu về đặc điểm của các thể thơ nói chung và thơ lục bát nói riêng, chúng ta cần lưu ý đến các mặt như: Số tiếng, số câu, cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp.

Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: Câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Số câu trong bài không hạn định, ít nhất là hai, nhiều có thể lên tới hàng ngàn, vài ngàn câu như các truyện thơ Nôm mà tiêu biểu nhất là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong ca dao, có những bài chỉ vẻn vẹn hai câu mà đủ sức thể hiện, khái quát một nội dung, một vấn đề nào đó của xã hội, hay một trạng thái tình cảm của con người. Bên cạnh đó là những truyện thơ lục bát trường thiên kể về bao biến cố trong suốt cuộc đời dài dằng dặc của nhân vật. Điều đó chứng tỏ độ dài ngắn của thơ lục bát là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ định của người sáng tác.

Vần trong thơ lục bát có hai loại: Vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài thì tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Ngoài dạng lục bát nguyên thể như trên, còn có dạng lục bát biến thể đôi chút bằng cách thêm bớt một số tiếng hoặc xê dịch về cách hiệp vần hay phối thanh.

Ví dụ:

Cơm ăn mỗi bữa lưng lưng,

Uống nước cầm chừng, để dạ thương em.

(Ca dao)

Tiếng thứ sáu của câu lục lại vần với tiếng thứ tư của câu bát, tuy vậy đọc lên vẫn thấy du dương. Trường hợp thêm chữ như câu ca dao sau đây:

Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,

Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.

(Ca dao)

Câu lục đã được thêm vào hai tiếng (gió đẩy). Nếu bớt đi hai tiếng này thì hai câu lục bát trên sẽ trở lại dạng nguyên thể về vần, nó vẫn tuân thủ theo cách hiệp vần lưng. Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thường thường thì các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là thanh bằng, vị trí thứ tư là thanh trắc. Còn các tiếng ở vị trí lẻ một, ba, năm, bảy thì có thể là bằng hay trắc đều được cả.

Ví dụ:

Bần thần hương huệ thơm đêm

b t b

Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết Bàn

B t b b

Chân nhang lấm láp tro tàn

b t b

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.

b t b b

(Mẹ và em – Nguyễn Duy)

Nếu ở câu lục có hiện tượng tiểu đối thì luật bằng trắc có thể thay đổi.

Ví dụ:

Khi tựa gối, khi cúi đầu,

t b b

Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tiếng thứ hai thanh trắc, tiếng thứ tư thanh bằng, khác với cách phối thanh của câu lục bình thường.

Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nên âm điệu êm đềm, thong thả, thích hợp làm lời hát ru, hát ngâm.

Ví dụ:

Vì mây / cho núi / lên trời,

Vì chưng / gió thổi / hoa cười/ với trăng.

Hay:

Gió sao / gió mát / sau lưng

Dạ sao / dạ nhớ / người dưng / thế này?

(Ca dao)

Nhưng khi cần biểu đạt một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định nào đó, người ta có thể biến đổi nhịp thơ cho thích hợp. Ví dụ như lời Thúy Kiều nói với Hoạn Thư trong cảnh Kiều báo ân báo oán:

Dễ dàng / là thói / hồng nhan,

Càng / cay nghiệt lắm / càng / oan trái nhiều!

Rõ ràng là giọng đay nghiến, chì chiết khi Thúy Kiều nhắc tới máu ghen đáo để có một không hai của tiểu thư họ Hoạn. Thơ lục bát đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam. Cái hay, cái đẹp của nó là kết tinh hoa ngôn ngữ tiếng Việt. Với những ưu điểm trong cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp… biến hóa linh hoạt, uyển chuyển, thơ lục bát dễ nhớ, dễ đi sâu vào tâm hồn. Điều quan trọng là thơ lục bát đủ khả năng diễn tả đời sống tình cảm phong phú, đa dạng của người Việt.

Cho đến nay, giữa rất nhiều thể thơ khác nhau, thì thơ lục bát vẫn có vị trí xứng đáng và vẫn được đông đảo bạn đọc yêu mến. Sau kiệt tác Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du đã tôn vinh thơ lục bát lên tới đỉnh cao của nghệ thuật thi ca, các bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa và một số nhà thơ khác vẫn kế tục và phát huy thế mạnh của thể thơ thuần túy dân tộc, để thơ lục bát mãi mãi là niềm tự hào – là sản phẩm tinh thần vô giá của non sông, đất nước.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 3

Trong nền văn học đồ sộ của Việt Nam, để làm nên các tác phẩm thực sự có giá trị không thể kể đến công lao của các hình thức thơ mà các nhà thơ, nhà văn đã lựa chọn làm chất liệu cho tác phẩm của mình. Nếu nói nội dung là phần hồn của bài thơ, bài văn thì hình thức thơ lại được xem là phương tiện truyền tải để những nội dung ấy, quan niệm của tác giả có thể đến được với bạn đọc. Một trong những thể thơ được xem là mang đậm màu sắc của dân tộc Việt Nam có thể kể đến là thể thơ Lục Bát.

So với nền văn học già lâu đời như nền văn học Trung Hoa, nền văn học Việt Nam có thể coi là non trẻ hơn. Nhưng qua bao thế hệ người Việt Nam luôn có ý thức trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, sau đó tiếp thu, chọn lọc một cách có sáng tạo vào Việt Nam, sự chọn lọc này hoàn toàn sáng tạo, bởi người Việt Nam ta chỉ tiếp thu những cái phù hợp nhất với quốc gia, dân tộc mình, và sự kế thừa đó không phải sao chép mà là sáng tạo. Nhìn lại quá trình tiếp thu ấy ta có thể thấy được bản lĩnh dân tộc của con người Việt Nam.

Xét về thể loại và các hình thức thơ trong văn học, người Việt Nam bên cạnh tiếp thu của người Trung Hoa như thể thơ Cổ Phong hay thơ Đường Luật. Bên cạnh đó, ông cha ta cũng sáng tạo riêng cho dân tộc mình những thể thơ độc đáo, mang đậm màu sắc, văn hóa của dân tộc Việt Nam, như thể thơ Song thất lục bát hay thể thơ Lục bát đã trở nên vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam. Trong đó, thể thơ Lục bát được nhiều nhà thơ lựa chọn làm chất liệu để xây dựng nên các tác phẩm văn chương của mình, cũng là xây dựng nên những bài văn mang đậm tinh thần dân tộc nhất.

Thơ lục bát là thể thơ bao gồm có hai phần câu sáu ( câu lục) và câu tám (câu bát) nối tiếp nhau. Thông thường một bài thơ lục bát thường được mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Về số lượng câu trong một bài thơ lục bát không hề bị giới hạn nghiêm ngặt như các bài thơ đường luật hay thể thơ song thất lục bát. Một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Hoặc cũng có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ, mà điển hình nhất mà ta có thể kể đến, đó chính là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du ( gồm 3253 câu, trong đó gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải đến những độc giả. Về cách gieo vần, thơ Lục bát tuy không bị giới hạn bởi những luật lệ nghiêm ngặt như thể thơ Đường luật nhưng vẫn phải đảm bải những yếu tố cơ bản. Cụ thể là trong một bài thơ Lục bát thì câu thơ cuối của câu lục phải vần với câu thơ thứ sáu của câu bát. Tương tự, câu cuối của câu bát phải hiệp vần với câu cuối của câu lục. Có thể lấy một ví dụ trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu như:

“Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Những câu thơ trên thể hiện được tình cảm thiết tha, gắn bó của nhà thơ Tố Hữu với chiến khu Việt Bắc. Nhưng ở đây ta quan tâm đến cách gieo vần của bốn câu thơ này. Như ta thấy, câu thơ cuối của câu lục kết khúc là chữ “ta” thì trong câu thơ thứ tám của câu bát được hiệp vần bằng từ “tha”. Tương tự, câu bát kết thúc bằng vần “ông” thì câu cuối của câu lục lại được hiệp vần bằng từ “không”. Chính vì đảm bảo những quy tắc trên mà những câu thơ lục bát đọc lên rất dễ nhớ, dễ hiểu, dù đọc một lần thì người đọc cũng có thể có thể đọc lại.

Về thanh điệu của bài thơ Lục bát ta có thể thấy, chữ thứu hai và chữu thứ sáu của câu bát thì đều là vần bằng, nhưng yêu cầu đặt ra ở đây là chúng không được cùng một thanh. Nếu thứ thứ sáu là thanh không có dấu , hay còn gọi là phù bình thì chữ thứ tám phải thuộc thanh trầm bình. Ví dụ cụ thể như trong bài ca dao sau:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

Như vậy, ta có thể thấy một cách khái quát về định nghĩa cũng như những đặc điểm, những luật lệ cơ bản trong một bài thơ lục bát. Qua đó ta cũng phần nào hiểu được cách mà các nhà thơ sáng tạo ra một tác phẩm văn chương, đó là cả một quá trình, vừa thể hiện được tài năng, vừa thể hiện được tư duy nhanh nhạy của các thi sĩ.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 4

Để có được nền văn học phong phú như hiện nay, chúng ta phải kể đến công lao của các nhà thơ, nhà văn từ thuở sơ khai cho đến hiện đại. Nội dung của tác phẩm là phần hồn và hình thức thơ giúp chuyển tải cho người đọc sự tinh túy của tác phẩm. Trong các thể thơ nổi tiếng của nước nhà phải kể đến thể thơ lục bát.

Nền văn học Việt Nam hình thành và phát triển hàng ngàn năm và tiếp thu và chọn lọc nhiều từ văn chương của Trung Quốc. Trải qua bao thế hệ người Việt ý thức tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, chọn lọc sáng tạo tạo ra sự phù hợp quốc gia, dân tộc. Đối với thể loại và hình thức thơ, người Việt tiếp thu tinh hoa của Trung Hoa như thể thơ Cổ Phong, thơ Đường Luật làm đa dạng văn học. Ngoài ra, ông cha còn tạo ra thể thơ độc đáo, thể hiện tinh hóa dân tộc Việt Nam, các thể thơ Song thất lục bát hay thơ Lục bát vô cùng quen thuộc và gần gũi với nhiều người. Thể thơ Lục bát được nhiều nhà thơ trong nước sử dụng trong các tác phẩm nhằm chuyển tải nội dung đến người đọc hiệu quả.

Thơ lục bát đặc trưng dễ nhận ra đó là cau đầu sáu (câu lục) và câu sau tám (câu bát). Bài thơ lục bát mở đầu bằng câu lục và kết thúc bài thơ bằng câu bát. Trong bài thơ sẽ không bị giới hạn cứng nhắc như các thể thơ khác. Thơ lục bát có thể hai bốn hoặc sáu câu như:

“Con cò lặn lội bờ sông

Lam lũ nuôi chồng, nuôi cả đàn con

Tháng năm thân mẹ hao mòn

Sớm khuya vất vả, héo hon khô gầy.”

Có trường hợp thơ có hàng nghìn câu như tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) Nguyễn Du. Số lượng câu thơ không giới hạn mà dựa vào tác giả. Trong thơ lục bát cách gieo vần khá đặc biệt, trong bài thơ Lục bát câu thơ cuối trong câu lục phải vần với câu thơ thứ sáu trong câu bát. Tương tự như vậy câu cuối câu bát cần phải hiệp vần với câu cuối câu lục bên dưới. Có thể thấy cách gieo vần có điểm độc đáo riêng không giống với các thể thơ khác. Về thanh điệu thơ Lục bát, tiếng hiệp vần thường mang thanh bằng:

“Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.

Ước gì anh lấy được nàng,

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây”

Hoặc

“Trèo lên cây khế nửa ngày

Ai làm chua xót lòng này khế ơi”

Thanh bằng trong thơ lục bát chính là điểm nhấn. Thanh bằng kết hợp cùng vần /ay/ gợi lên cảm giác đau xót cho người nghe. Thơ lục bát còn có đặc điểm riêng đó là sự phối hợp bổng trầm, chuyển đổi bổng trầm của tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám trong bát. Với sự chuyển đổi linnh hoạt giúp âm điệu bài thơ trở nên thanh thoát.

Thơ lục bát chính là tinh hoa của nước nha, thể thơ có sự phóng khoáng chứ không quá nghiêm ngặt như thơ Đường luật. Song vẫn đảm bảo các yếu tố cơ bản nhằm giúp chuyển tải nội dung bài thơ đến người đọc. Thơ lục bát cũng là thể thơ dễ đọc dễ nhớ vì vậy rất phổ biến và được nhiều tác giả sử dụng trong các tác phẩm văn học.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 5

Văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều từ văn học Trung Quốc nhưng không vì thế mà dân tộc ta không sáng tạo ra được những tác phẩm văn chương và những thể loại văn chương giá trị cao. Một trong số những sáng tác đặc biệt của nền văn học dân tộc và chính là thể thơ giản dị – lục bát.

Lục bát là một thể thơ của dân tộc ta nhưng thời điểm chính xác thơ lục bát ra đời từ bao giờ và bắt nguồn từ đâu vẫn chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên các nghiên cứu tới thời điểm hiện tại thường nghiêng theo hướng lục bát bắt nguồn từ văn học dân gian.

Thơ lục bát ngay từ tên gọi đã cho ta biết số tiếng trong mỗi câu. Thơ gồm các cặp, mỗi cặp lục bát sẽ bao gồm hai câu, một câu sáu chữ (tiếng) và một câu tám chữ (tiếng). Về cách gieo vần, thơ lục bát vừa gieo vần chân cũng vừa gieo vần lưng. Tiếng cuối của lục sẽ vẫn với đến thứ sáu của bát và tiếng cuối của câu bát sẽ vần với tiếng cuối của câu lục bên dưới. Một bài thơ lục bát thường sẽ có số câu chẵn. Thơ lục bát có tuân thủ theo luật bằng trắc, tức có sự quy định về thanh. Giữa các tiếng 2, 4, 6 của câu lục sẽ lần lượt mang thanh (bằng – trắc- bằng), còn đối với các tiếng thứ 2, 4, 6, 8 của câu bát thường sẽ là (bằng – trắc – bằng -bằng):

“Đầu lòng (B) hai ả (T) tố nga (B)

Thúy Kiều (B) là chị (T) em là (B) Thúy Vân (B)”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thơ lục bát có cách ngắt nhịp hết sức linh hoạt, nhưng thường sẽ ngắt nhịp chẵn, có nhiều bài thơ ngắt nhịp 2/2/2. Khi diễn tả tình cảm đau thương, buồn bã, lục bát sẽ được ngắt theo nhịp 4/4. Đôi lúc để nhấn mạnh, người ta cũng có thể đưa lục bát theo cách ngắt nhịp 3/3 đối với câu sáu chữ và 3/5 đối với câu tám chữ. Có thể thấy, đây là một thể thơ tương đối tự do và linh hoạt trong cách ngắt nhịp.

Bên cạnh những thể thơ lục bát truyền thống còn có những thể thơ lục bát biến thể, tức có sự biến đổi nhất định về âm tiết hay về cách hiệp vần. Thơ lục bát là một thể thơ giản dị và dễ tiếp nhận đối với mỗi người, đây cũng là một thể thơ diễn đạt được hầu hết những cung bậc cảm xúc của con người. Những tác phẩm lớn của dân tộc đều được làm bằng thể thơ này như Truyện Kiều hay truyện Lục Vân Tiên. Một số tác giả văn học hiện đại cũng rất ưa chuộng thể thơ này như Tố Hữu, Nguyễn Bính,…

Những bài thơ được làm theo thể thơ lục bát rất gần gũi và gắn bó với nhân dân, dễ dàng tiếp cận, rất dễ để thuộc, để nhớ đối với những tầng lớp nhân dân có trình độ học vấn chưa cao. Chính vì vậy, đây là một thể thơ phổ biến trong đời sống nhân dân lao động.

Dù có sự ra đời cũng như du nhập của rất nhiều những thể loại văn học khác, nhưng thơ lục bát sẽ vẫn sẽ giữ được vị trí quan trọng của nó trong lòng mỗi người. Điều đó được khẳng định là bởi mỗi dịp lễ tết, thông thường chúng ta sẽ luôn được nghe rất nhiều những bài thơ tự sáng tác bởi những người dân làm theo thể thơ này. Mỗi chúng ta cần trân quý, gìn giữ, phát huy thể thơ này bởi đó là một thể thơ mang bản sắc và dấu ấn của dân tộc Việt Nam.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 6

Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre. Nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen. Nếu chọn trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu chọn nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu… Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là thơ lục bát – một thể thơ cách luật cổ điển thuần túy Việt Nam.

Thơ lục bát vốn rất phổ biến trong ca dao dân ca và lời ăn tiếng nói của dân tộc. Bởi thê mà, nhiều người nhầm lẫn thể thơ này có từ lâu đời. Thực tế, thể thơ lục bát có thể xuất hiện vào khoảng trước thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII. Từ một loại hình nghệ thuật dân gian, lục bát trở thành một kiểu loại của văn học viết và bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các thế kỉ sau đó.

Có thể nói, người Việt sống trong “bầu thi quyển” lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giông nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát. Bắt nguồn từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện thơ Nôm, các kịch bản ca kịch dân tộc và đạt đến sự hoàn thiện với thiên tài Nguyễn Du, thể thơ lục bát vẫn được tiếp tục phát huy qua thơ Tố Hữu, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Một bài lục bất phải bao gồm từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Chính đặc điểm này có thể xem lục bát là mọt thể loại đoản thiên hay trường thiên đều được.

Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần. Vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Đơn vị cơ bản của thể thơ này là một tổ hợp gồm hai câu sáu tiếng và tám tiếng. Số câu không hạn định, về gieo vần, chủ yếu là vần bằng, cứ mỗi cặp hai câu mới đổi vần. Tiếng cuối câu sáu vần với tiếng thứ sáu câu tám, rồi tiếng cuối câu tám lại vần với tiếng cuối câu sáu sau. Như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu sáu và tám, lại có cả vần lưng trong câu tám:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”(Ca dao)

Luật thanh trong thơ lục bát; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ.

Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng. Nhưng trong câu tám, hai tiếng thứ sáu và thứ tám phải khác dấu. Nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu, hoặc ngược lại:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”(Truyện Kiều)

Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

(Truyện Kiều)

Ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8 lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 hoặc để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…

“Một mình một ngọn đèn khuya

Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

(Truyện Kiều)

Ngoài ra, còn có thể loại lục bát biến thể. Luật thơ vẫn tuân thủ luật thơ lục bát nhưng số chữ hoặc cách gieo vần có thể thay đổi. Kiểu biến thể vốn phổ biến trong ca dao:

“Thương nhau ba bốn núi cũng trèo

Năm sáu sông cũng lội, bảy tám đèo cũng qua”

(Ca dao)

Thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có khả năng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên… Bởi thé có thể coi, lục bát là tiếng nói. là lời ca, lời than vãn,… của người bình dân trong lao động và đời sống hàng ngày.

Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, tuy đời sống thi ca có phần đi xuống nhưng sự ưa chuộng của người Việt đối với thể thơ lục bát vẫn còn rất sâu đậm. Không những nó là một thể thơ có khả năng thể hiện cái hồn tính của dân tộc mà còn là một loại hình nghệ thuật độc đáo và tài hoa bậc nhất thế giới. So với một vài thể loại thơ của các quốc gia khác, ta hoàn toàn có đủ căn cứ để khẳng định mạnh mẽ điều đó.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 7

Trong tất cả các thể loại văn học được sáng tác bằng tiếng Việt, có thể nói lục bát là thể thơ thuần dân tộc nhất. Nó là sáng tạo riêng của người Việt và vì thế, một cách tự nhiên nó có khả năng diễn tả một cách đắc địa nhất tâm hồn của con người đất Việt. Những kiệt tác của dân tộc đều kết tinh trên cơ sở thể loại văn học này.

Đặc điểm riêng biệt của mỗi thể loại thơ được thể hiện ở những quy định về số câu, số tiếng, cách hiệp vần, cách phối thanh và nhịp điệu. Ở lục bát không có quy định số câu trong một bài nhưng chia thành từng cặp, mỗi cặp có hai câu, câu trên 6 tiếng gọi là câu lục, câu dưới 8 tiếng gọi là câu bát và cứ như vậy nối tiếp nhau đến hết bài. Bởi vậy có những bài lục bát chỉ gồm hai câu như bài “Hoa cỏ may” của Nguyễn Bính:

Hồn anh như hoa cỏ may

Một chiều cả gió bám đầy áo em.

Ngược lại có tác phẩm dài đến hơn 3000 câu như Truyện Kiều. Cách hiệp vần trong lục bát được quy định như sau: tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát, rồi tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục tiếp theo. Vì vậy, lục bát có hai vần là vần lưng ở tiếng thứ sáu và vần chân ở tiếng thứ tám. Ví dụ:

Bần thần hương huệ thơm đêm

Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn

Chân nhang lấm láp tro tàn

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.

(Nguyễn Duy)

Về ngắt nhịp, lục bát ngắt nhịp chẵn là chủ yếu trong đó nhịp đôi là cơ sở:

Một nhà dọn dẹp linh đình

Quét sân / đặt trác/ rửa bình / thắp nhang.

(Nguyễn Du)

Tuy nhiên đôi khi có những linh hoạt. Ví dụ:

Bắt phong trần / phải phong trần

Cho thanh cao / mới được phần / thanh cao

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Về thanh, thường tiếng thứ hai, tiếng thứ sáu, tiếng thứ tám thanh bằng, tiếng thứ tư thanh trắc, còn các tiếng ở vị trí lẻ thì tự do theo luật “nhất, tam, ngũ bất luận”. Nếu có tiểu đối ở câu lục thì có sự thay đổi về thanh:

Người quốc sắc/ kẻ thiên tài

Tình trong như đã / mặt ngoài còn e.

(Nguyễn Du)

Ở đây, tiếng thứ hai (quốc) và tiếng thứ tư (kẻ) của câu lục đều thanh trắc. Ngoài ra, về thanh còn có luật cao-thấp, trong đó quy định nếu tiếng thứ sáu của câu bát mà là thanh ngang thì tiếng thứ tám phải là thanh huyền và ngược lại. Trong quá trình phát triển của mình, lục bát nảy sinh những biến thể. Lục bát biến thể có sự thêm, bớt một số tiếng, xê dịch các hiệp vần, thay đổi cách phối thanh. Đó có thể là lối gieo vần lưng ở tiếng thứ tư khiến cho tiếng thứ sáu của câu bát thành thanh trắc như:

Núi cao chi lắm núi ơi

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương

(Ca dao)

So với các thể thơ khác, lục bát là thể thơ xuất hiện sớm nhất. Ngay từ khi văn học viết của dân tộc chưa định hình thì lục bát đã được sử dụng trong văn học dân gian với việc sáng tác ca dao và dân ca truyền miệng. Tuy nhiên, phải đến thế kỉ XVIII, khi văn học viết phát triển, đặc biệt với sự ra đời của chữ Nôm thì lục bát mới được hoàn thiện để đạt đến độ tinh tế và uyển chuyển nhất. Đỉnh cao của thể thơ lục bát được thể hiện trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ở đây, thể lục bát đạt đến độ toàn mĩ cả về nhịp điệu, cách gieo vần, cách phối thanh để trở thành thể thơ nhuần nhị, mềm mại, xứng đáng là mẫu mực.

Ngày nay, lục bát vẫn là thể loại yêu thích của các nhà thơ. Lục bát dễ làm nhưng làm được lục bát hay thì phải là những người có tài năng thực sự, nếu không sẽ rất dễ sa sang vè chứ không còn là thơ nữa. Bởi thế, người làm thơ lục bát rất nhiều nhưng những tên tuổi còn lại thì khá ít. Có thể kể đến những tên tuổi như Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu… và gần đây là Nguyễn Duy . Những nhà thơ sử dụng lục bát trong sáng đều mang đến cho người đọc cảm nhận về một hồn thơ có sự gần gũi, gắn bó với cội nguồn dân tộc từ trong những nét tư duy

.

Thể thơ lục bát mềm mại, du dương đã đi từ ca dao đến thơ hiện đại. Với âm điệu mượt mà của mình nó trở thành thể loại phù hợp nhất để diễn tả điệu hồn dân tộc hiền hòa, tình cảm thiết tha, sâu lắng.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 8

Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta không còn xa lạ gì với thể lục bát vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm nga, là những lời ru, câu hát mà bà hay mẹ ru ta vào giấc ngủ.

Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta. Thơ lục bát có từ hai câu trở lên. Trong đó cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám chữ. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, thanh và vần. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1, 3, 5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2, 4, 6 thì phải theo luật chặt chẽ. Ở câu lục theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng, câu bát theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B

“Vườn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.

“Có xáo thì sáo nước trong
Chớ xáo nước đục, đau lòng cò con”

Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Và tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp.

“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Thơ lục bát nhẹ nhàng có khả năng diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Trong xax hội xưa, người bình dân hay mượn thể loại văn vần này đê bày tỏ tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của bản thân mình. Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao là thể thơ đặc trưng của dân tộc Việt Nam, đi đi về về trong các sáng tác bất hủ của dân tộc. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi học tập và vận dụng sáng tạo thể lục bát trong các sáng tác của mình để bày tỏ nỗi lòng của mình.

Thơ lục bát dịu dàng, chân phương như đóa hoa hàm tiếu hé nở mang hương sắc cho đời. Hôm nay và mai sau, thể thơ lục bát mãi luôn tự hào là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 9

Lục bát được xem là một trong những thể thơ ra đời sớm ở Việt Nam. Bởi thơ lục bát giản dị; gần gũi; gắn bó với người nông dân, nhân dân Việt nên được ưa chuộng rất nhiều. Nói đến thơ lục bát Việt Nam ta như dựng lên cả một bức tranh hòa hợp; hữu tình; đậm đà trong đó. Thơ lục bát- thơ truyền thống của con người Việt, dân tộc Việt.

Thể thơ Lục Bát có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử văn học nhân loại. Có nhiều ý kiến cho rằng thơ lục bát xuất hiện từ cuối thế kỉ XV; là bắt nguồn từ các câu ca dao; đồng dao của người nông dân; người lao động để xua tan mệt mỏi; hứng thú hăng say lao động. Trải qua hàng nghìn năm phát triển thơ lục bát cũng ngày càng hoàn thiện hơn; khuôn mẫu hơn và có những biến chuyển cho phù hợp với tiêu chí thơ ca, trở thành nét đặc sắc rất riêng của người Việt.

Về cấu tạo, thơ lục bát gồm một cặp câu đối ứng. Một câu 6 chữ bên trên và câu 8 chữ đặt liền kề bên dưới. Trong bài không giới hạn số câu. Thông thường sẽ mở đầu bằng câu 6 chữ và kết thúc bằng câu 8 chữ trừ những trường hợp đặc biệt với ẩn ý, tình cảm và dư vị riêng của tác giả. Hai câu thơ đan xen, hài hòa, bệ đỡ nhau nhằm biểu đạt ý nghĩa rất riêng của cặp câu và ý nghĩa chung cho toàn bài.

Tuy là thể thơ phóng khoáng; gợi nhiều hơn tả nhưng thơ Lục Bát vẫn tôn trọng nghiêm ngặt quy luật về thanh. Cũng giống như thơ đường Luật; thanh trong câu lục bát cũng phải theo sườn: Nhất; tam; ngũ bất luận nhị tứ lục phân minh. Theo đó, các tiếng 2 4 và 6 sẽ theo khuôn khổ. Cụ thể như sau:

Đối với câu lục: 2-4-6 lần lượt sẽ là Bằng(B)- Trắc- Bằng. Đồi với câu bát: các thanh 2-4-6-8 sẽ tương ứng với B-T-B-B (Tiếng thứ 6 với tiếng thứ 8 không được đồng dấu). Quy luật chặt chẽ về thanh tạo nên âm hương thanh nhẹ; cộng hưởng trong mỗi cặp câu thơ tương ứng.

Một điểm đặc trưng không thể trộn lẫn của thể thơ lục bát đó chính là cách gieo vần của thơ. Vần được sử dụng trong thơ hầu hết là vần bằng. Tùy khả năng tác giả và tình cảm cũng như nội dung biểu đạt mà có thể gieo nhiều vần linh hoạt, vấn đề này không hề khiên cưỡng nhưng nhà thơ vẫn phải đáp ứng yêu cầu: đó là tiếng cuối cùng câu lục phải hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu bát, cứ như thế tiếp tục cho đến hết bài. Sở dĩ có quy định như vậy là để thơ được xuyên suốt, dòng cảm xúc được bất tận và thăng hoa. Ví dụ như trong bài thơ Quê hương nỗi nhớ có viết:

“Trở về tìm mái nhà quê

Tìm hình bóng mẹ bộn bề nắng mưa

Tìm nắng xuyên ngọn cây dừa

Tìm hương mạ mới gió lùa thơm tho

Tìm đàn trâu với con đò

Áo bà ba mẹ câu hò trên sông”

Nỗi nhớ quê hương trong lòng tác giả như trải dài ra đầy miên man, da diết, dư cảm đong đầy. Nổi tiếng với bút danh thơ của dân gian; thơ gần gũi Thơ lục bát khoác trên mình cái dáng vẻ nền nã; đôi lúc trầm mặc; yên ả nhưng đôi lúc cũng dữ dội; da diết khôn cùng. Chính nhịp thơ đã làm chất hồn; chất sóng trong thơ. Để diễn tả nỗi buồn đau thê lương tha thiết người ta dùng nhịp chẵn 2/2/2; 4/4. Trái lại để diễn tả dữ đội; súc cảm mạnh mẽ; quyết liệt; những đột ngột bất ngờ ta dùng nhịp lẻ 1/5; 3/5 Và đôi khi để nhấn mạnh; để phô bày cái cảm xúc hạnh phúc, vui sướng ta lại dùng nhịp 3/3.

Thơ lục bát là thể thơ được sử dụng khá nhiều trong cả văn nói lẫn văn viết bởi khả năng sử dụng linh hoạt; ý nghĩa câu từ phong phú; đơn giản; không kén người đọc; người nghe; người sáng tác. Thơ lục bát xuất hiện nhiều chiều trong cuộc sống từ sinh hoạt đến vui chơi; giải trí; lao động. Thơ lục bát là tiếng nói hạnh phúc; ngọt ngào của tình yêu đôi lứa:

“Dạt dào ngây ngất đắm say

Giận hờn đến nỗi lung lay dạ lòng”

Là tình yêu gia đình, xóm làng thống thiết:

“Cuộc đời bao nỗi đắng cay

Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào

Hôm nay nước mắt tuôn trào

Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang”

Và đó còn là những giọt tâm sự sâu cay của người phụ nữ trong xã hội bạc bẽo:

“Thương thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Thơ lục bát là tiếng nói, là nhịp đập của người nhân dân Việt Nam; thể hiện biết bao ước mơ về một cuộc sống âm no; thái bình thịnh trị của đất nước Đại Việt. Những bài thơ Lục bát nổi tiếng như vẫn còn nguyên hơi thở và giá trị cho đến ngày nay ta có thể kể đến như Truyện Lục Vân Tiên; Truyện kiều hay những câu ru con chan chữa nghĩa lý nghĩa tình. Hiện nay với sự phát triển và làm giàu hơn vốn văn thơ nước nhà thể thơ lục bát có nhiều dạng biến thể phong phú hơn: nhịp; tăng số tiếng; tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng; hiệp vần thay đỏi;… Nhưng dù thay đổi nó vẫn mang một khí chất rất riêng rất nồng nàn truyền thống.

Duyên dáng, nền nã, pha chút đỏng đảnh; bỡ ngỡ; thẹn thùng; dữ dội thể thơ Lục Bát như món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa người Việt xưa và nay, trở thành một nét độc đáo, đặc sắc rất riêng, rất khác, rất đẹp; trở thành dấu ấn đầy tự hào gửi đến mỗi du khách nước ngoài khi ghé thăm đất nước Việt Nam xinh đẹp.

Bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát số 10

Kho tàng thơ văn Việt Nam có rất nhiều những tác phẩm đặc sắc, từ nội dung cho đến từng thể loại. Và khi nhắc riêng đến thi ca Việt Nam thì chúng ta không thể không nhắc đến những bài thơ đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người như Truyện Kiều của Nguyễn Du hay cho đến các câu ca dao được bà, được mẹ đưa vào mỗi giấc ngủ.

Tất cả từng câu từng chữ như mang một giai điệu khác nhau và khi được kết hợp bằng thể lục bát thì chúng như hòa vào làm một, thật nhịp nhàng và hoàn hảo, nhưng lại gần gũi, mộc mạc, chân chất như chính hơi thở cuộc sống. Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải tỏa tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn.Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.Thật tự hào mỗi khi nhắc đến thể thơ của dân tộc là nhắc đến lục bát.

Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm câu trả lời nhưng đây vẫn là câu hỏi chưa có câu trả lời chính xác, chỉ biết là đã từ rất lâu rồi. Văn hóa đặc trưng của người Việt là văn hóa lúa nước, gắn liền với lao động sản xuất nên luôn có những cách sáng tạo để quên đi nỗi nhọc nhằn sớm hôm. Họ thường vừa cùng nhau làm việc trên đồng, vừa cùng nhau sáng tạo thi ca. Đơn giản chỉ là thể hiện những ước mong giản đơn:

“Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”

Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Thông thường một bài thơ lục bát thường được mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát.Về số lượng câu trong một bài thơ lục bát không hề bị giới hạn nghiêm ngặt như các bài thơ đường luật. Một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như:

“Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”.

Hoặc cũng có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ, mà điển hình nhất mà ta có thể kể đến, đó chính là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du ( gồm 3253 câu, trong đó gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải độc giả.

Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà.Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau, tạo ra “tiếng nhạc” cho cả bài thơ.Vần trong thơ lục bát có hai loại: vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài thì tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:

“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thường thường thì ở câu lục các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu là bằng (B), trắc (T), bằng (T), còn ở câu bát các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là B-T-B-B.

“Trăm năm trong cõi người ta, (B-T-B)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.(B-T-B-B)

Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nên âm điệu êm đềm, thong thả, thích hợp làm lời hát ru, hát ngâm.
Ví dụ:
Nhớ sao/ tiếng mõ/ rừng chiều
Chày đêm/ nện cối/ đều đều/ suối xa
(Việt Bắc – Tố Hữu )
Hay có thể đảo nhịp:
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lẽ
( Lời thề cỏ may – Phạm Công Trứ)

Thơ lục bát từ lâu đến nay luôn có một vị trí vững chắc trong lòng mỗi người dân đất Việt. Chúng ta dùng lục bát để bày tỏ những tâm tư tình cảm, những cung bậc cảm xúc của mình trong cuộc sống, công việc, tình bạn, tình yêu,… Chúng ta cũng đến với lục bát như là chốn an yên cho tâm hồn được tĩnh lặng sau những giông bão, khó khăn của cuộc đời, là được trở về với ấu thơ cùng câu hát ru chứa chan yêu thương của bà, của mẹ. Chẳng thể tìm ở đâu được loại thơ mà từng câu từng chữ đều mang giai điệu, đều chất chứa cảm xúc mà lại gần gũi, mộc mạc đến lạ.

Dù không rõ là bắt đầu từ khi nào nhưng lục bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn lục bát, đồng thời, chính lục bát cũng góp mình làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn.

Trên đây là một số bài văn thuyết minh về thể thơ lục bát hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp hi vọng giúp bạn tham khảo để làm tốt bài văn của chính mình. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn khác trên phongnguyet.info

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Duy

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Duy

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7/12/1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, rồi sau này là mặt trận phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại tuần báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Trưởng đại diện của báo này tại phía Nam.

Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ Trên sân trường viết từ đầu những năm 60, khi còn là một học sinh phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá. Nhưng phải mãi đến năm 1973, ông mới thực sự nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Và cũng bắt đầu từ đấy, chúng ta có Nguyễn Duy, một thi sĩ đặc sắc cuối những năm chiến tranh và lại rực rỡ trong hoà bình. Ông được tặng Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Tre Việt Nam

Tre Việt Nam

Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con

Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh

1970-1972

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…

Thơ Nguyễn Duy

Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò… sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…

Saigon, mùa thu 1986

Nguồn: Nguyễn Duy, Mẹ và Em, Nxb Thanh Hoá, 1987

Bài thơ: Ánh trăng

Ánh trăng

Thơ Nguyễn Duy

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

TP. Hồ Chí Minh, 1978

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, NXB Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Đò Lèn

Đò Lèn

Thơ Nguyễn Duy

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

9-1983

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Ngữ văn 12 từ 2007.

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Đánh thức tiềm lực

Đánh thức tiềm lực

Thơ Nguyễn Duy

Tiễn đưa anh S.D. đi làm kinh tế

Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn – đẹp, và giàu, và sung sướng hơn

Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?

***

Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi lớn lên bên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bảy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…

***

Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng
một bên là Trường-Sơn-cây-xanh
bên còn lại Trường-Sơn-cát-trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi!

Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời

***

Tôi về quê em – châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi

Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn nào phèn
má sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em

Đã qua đi những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa ma không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!

Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán nhậu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm

***

Này, đất nước của ba miền cày ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì
và trả lại được gì cho cuộc sống?

Em có nghĩ tôi là con chích choè ăn và gại mỏ?

Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?

Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy
múa võ bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc

Em có nghĩ…
mà thôi!

***

Xin em nhìn kia – người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!

Xin em nhìn – người gánh phân, gánh thóc
(tôi cũng từng mòn vai gánh phân, gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!

Những cái đẹp thế kia… em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xưa ngày xửa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!

Em có chạnh lòng chăng
giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù cái xe hơi chạy than
vệt than rơi toé lửa mặt đường

Em có chạnh lòng chăng
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm

Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày

Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm!…
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

***

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bô-xít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ…
dù sau này có như thế… như thế… đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
rằng
đừng quên đất nước mình nghèo!

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành

Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ ru nhau
ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt

***

Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng

Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn

Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thuỷ tinh thể

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ

Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác

Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi

***

Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường

Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười là lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng rát hơn lá mía
hôn má bên này bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về

Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình

Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng, nghề ngổi lê, nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…

Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê

***

Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…

Tp. Hồ Chí Minh 1980-1982

Đoạn đầu bài thơ này được sử dụng trong đề thi tốt nghiệp THPT quốc gia môn Ngữ văn năm 2018.

Nguồn: Nguyễn Duy, Mẹ và Em, NXB Thanh Hoá, 1987

Bài thơ: Hơi ấm ổ rơm

Hơi ấm ổ rơm

Thơ Nguyễn Duy

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người

Bình Lục – một đêm lỡ đường

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Tiếng hát mùa gặt

Tiếng hát mùa gặt

Lúa chín
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời

Gặt lúa
Tay nhè nhẹ chút người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng
Dễ rơi là hạt đầu bông
Công một nén, của một đồng là đây

Tuốt lúa
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Rơm vò từng búi rối tinh
Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi

Phơi khô
Nắng non mầm mục mất thôi
Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn
Nắng già hạt gạo thêm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho

Quạt sạch
Cám ơn cơn gió vô tư
Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi
Hạt nào lép cứ bay thôi
Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

Đông Vệ – vụ chiêm 1971

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Vườn cây của ba

Vườn cây của ba

Thơ Nguyễn Duy

Má trồng toàn những cây dễ thương
Nào là hoa, là rau, là lúa
Còn ba trồng toàn cây dễ sợ
Cây xù xì, cây lại có gai

Cái gai bưởi đụng vào thì chảy máu
Trái sầu riêng rớt xuống thì đầu u
Nhựa hột điều dính vào là rách áo
Cây dừa cao eo ơi, cao là cao

Cây ba trồng sống lâu thiệt là lâu
Mưa chẳng dập gió lay chẳng đổ
Thân xù xì cứ đứng trơ trơ
Cành gai góc đâm ngang tua tủa

Bưởi, sầu riêng, dừa, điều nhiều nhiều nữa
Cho em bốn mùa vị ngọt hương thơm
Vườn của ba cây trồng thì dễ sợ
Mà trái nào cũng thiệt dễ thương.

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Nhân phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Bài thơ: Đà Lạt một lần trăng

Đà Lạt một lần trăng

Thơ Nguyễn Duy

Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng
ngọn gió nhà ai thấp thoáng ở bên đồi
tiếng móng ngựa gõ ròn trên dốc vắng
nghe mơ hồ một chiếc lá thông rơi

Em nhóm bếp bằng củi ngo chẻ nhỏ
ngọn lửa lấp đi khoảng vắng giữa hai người
tôi lơ đãng nhìn em nhìn lơ đãng
siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi

Em biết chứ, chả ai lơ đãng cả
hòn than kia đang đỏ đến hết lòng
mà ngọn lửa cứ giả vờ le lói
mùi nhựa thông theo sợi khói đi vòng…

Đà Lạt, 1984

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Được yêu như thể ca dao

Được yêu như thể ca dao

Thơ Nguyễn Duy

Bao giờ cho tới ngày xưa
yêu như các cụ cho vừa lòng ta
cái thời chưa nhiễm SIDA
yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa

Ðược yêu như các cụ xưa
cũng trăng gió cũng mây mưa ào ào
được yêu như thể ca dao
đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời

Tây Tàu cũng thế thì thôi
y chang cay đắng ngọt bùi khổ đau
không trầu mà cũng chẳng cau
làm sao cho thắm môi nhau thì làm

(22-12-1993)

Nguồn: Nguyễn Duy, Về, NXB Hội nhà văn, 1994

Trịnh Công Sơn đã có nhận xét về Nguyễn Duy: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó…”.

Nhắn Nhe

Nhắn Nhe

Nhắn Nhe (Tế Hanh)

Ai qua sông đó ai ơi!
Cho tôi nhắn gửi đôi lời nhớ nhung
Người, tôi không cách muôn trùng:
Chỉ con sóng nhỏ não nùng đôi bên,
Đất liền tình chửa bình yên,
Lựa là nước chảy triền miên mấy giòng…
Nhắn nhe theo nước theo sông!
Bên đây, bên đấy, tấm lòng sẻ chia…

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Nhắn Nhe” của tác giả Trần Tế Hanh. Thuộc tập Nghẹn Ngào (1939), danh mục Thơ Tế Hanh trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

ANH LÀ THẾ

ANH LÀ THẾ

Anh từng nói sẽ yêu em mãi mãi
Nhưng bây giờ mãi mãi là bao lâu
Chắc anh quên tiếng hẹn ước ban đầu
Mình say đắm từng câu thơ ngày cũ

Anh từng nói chỉ cần yêu là đủ
Một chữ yêu ấp ủ vị ngọt ngào
Mình đã từng hay nói chuyện tâm giao
Để hai đứa bên nhau tình nồng thắm

Anh từng nói tình anh là sâu thẳm
Dù thế nào vẫn sưởi ấm tim em
Và lau khô đôi mắt ngọc ướt nhèm
Cho em thấy chỉ có em duy nhất

Anh từng nói lời yêu thương chân thật
Sẽ cho em ngây ngất nụ ái tình
Tô môi hồng giữ nét đẹp trung trinh
Nhưng tất cả là biện minh giả dối

Anh tàn nhẫn bỏ em đi quá vội
Bỏ em rồi anh hỡi có vui không
Giá như em có đủ ngọn lửa lòng
Thì có lẽ đã không đau đớn thế.

Tác giả: Thu Thảo

 

 

Mưa

Mưa

Mưa (Huy Cận)

Mưa giong buồn sợi xuống lơi lơi,
Lạnh của không gian thấm xuống người.
Rơi rớt về đây muôn hướng gió;
Lòng sầu vạn dặm gió mưa phơi.

Hiu hắt đày tôi giữa xứ hờ.
Ý buồn tự kể mộng bâng quơ
Tương tư thấp thoáng sau khe cửa,
Tuy chẳng mong ai cũng đợi chờ.

Tôi luồn tay nhỏ hứng không gian,
Với gió xa xôi lạnh lẽo ngàn.
Tôi để cho hòn theo với lá,
Xiêu xiêu cúi nhẹ trút buồn tràn.

Buồn hão nhưng lòng biết nguôi.
Buồn mưa không định, chỉ ngùi ngùi,
Lòng êm như chiếc thuyền trên bến
Nghe rét thu về hạ bớt mui…

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Mưa” của tác giả Cù Huy Cận. Thuộc tập Lửa Thiêng (1940), danh mục Thơ Huy Cận trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Ai Có Qua Cầu

Ai Có Qua Cầu

Ai Có Qua Cầu (Vũ Hoàng Chương)

(Lời thiếu nữ )

Hôm nay mình là cô dâu;
Của hồi môn: chiếc gối sầu mang theo.
Các bạn chê điềm gở;
Mình cười nghe trong veo,
Mà lạ chưa, má phấn đỏ lên nhiều!
Tiếng gì như ngọc vỡ?
Hay là hạt sương?
Hay là châu lệ
xe hoa nghiến nát trên đường?
Mấy chị! làm ơn mở hộp gương,
Ta cùng soi chút nhé!
Kìa: bên Đông, bên Tây,
giờ đây bao người vợ trẻ
Xếp gối thành đôi
ngồi đối bóng canh trường…
Duyên chưa đầy năm
một rằng yêu hai rằng yêu,
Đã ngày tiễn đưa nhau
trăm thương ngàn muôn thương,
Để rồi đêm đêm
Mênh mông chiếu giường…
Hồn chinh phụ: khói lò hương
Thả làm mây, trắng biên cương tìm chồng.
Ngược chiều xe hoa
sao nhiều xe thế nhỉ?
Nét chữ hồng
Tươi hơn môi mấy chị;
Mà chẳng xe nào chở không!
Những ai đó? ai còn? ai mất?
Ai? Nào ai xương sắt da đồng!
Lưỡi mình đắng như mật;
Trăng nhà ai ngọt đâu!
Bước vu quy đứt ruột lũ “qua cầu”…

Ngây thơ là những cô dâu
Gối mang “đủ cặp” cho sầu càng cao.

(Sài-gòn, 1966)

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Ai Có Qua Cầu” của tác giả Vũ Hoàng Chương. Thuộc tập Cành Mai Trắng Mộng (1968) > Thi Phẩm, danh mục Thơ Vũ Hoàng Chương trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Top 25 Bài thơ hay viết về sự hiếu kính cha mẹ

Top 25 Bài thơ hay viết về sự hiếu kính cha mẹ

Hiếu kính với ông bà, cha mẹ vốn là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Từ ngàn năm qua, phẩm chất quý báu ấy đã là sợi chỉ kết nối tình cảm gia đình và dân tộc tạo nên một lối sống nghĩa tình, đằm thắm của dân tộc Việt Nam. Lòng hiếu kính cha mẹ là một trong những phẩm chất tốt đẹp cần có ở mỗi con người. phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay về sự hiếu kính cha mẹ.

Bài thơ: Cha – Phạm Hùng

CHA

Tác giả: Phạm Hùng

Cây dồn đất vun bồi cho quả
Dẫu gió mưa làm lá bạc, sờn
Hưởng rồi liệu có trả ơn
Hay là bỏ mặc gió vờn tan hoang?

Nhìn bụi chuối úa vàng đầu ngõ
Khiến đau lòng, con nhỏ thương Cha
Thủa xưa xanh nõn mượt mà
Bỗng đâu tàn, héo… vì hoa trổ rồi.

Vừa bỏ nôi, Mẹ đi xa mãi
Mấy con khờ để lại Cha nom
Trống hoa, thoảng chốc gầy còm
Gà con béo mẫm cãi om khắp vườn.

Ngày tiết hạ trưa bươn giãi nắng
Buổi lập đông đêm trắng dầm sương
Bôn ba khắp mọi nẻo đường
Lòng Cha đầy ắp tình thương trẻ khờ!

Hòa gió bụi, con thơ cũng lớn
Chợt thấy rằng… Người gợn nếp da
Chuối kia quả cũng đã già
Nhưng cây kiệt sức bởi qua thăng trầm.

Con khờ mãi khắc tâm hình ảnh
Của trưa hè, giá lạnh đêm đông
Mồ hôi Người đã chảy ròng
Làn da thâm tím… mà không nửa điều!

Thành tâm nguyện, Cha yêu khỏe mãi
Để ngày ngày con lại phụng, chăm
Mong Cha mãi tựa trăng rằm
Ở bên con cháu tháng năm thật dài!

PH. 13.12.2015.

Bài thơ: Trộm vía thời gian – Phan Thúc Định

TRỘM VÍA THỜI GIAN!

Tác giả: Phan Thúc Định

Con thầm trộm vía thời gian
Mẹ Cha thất thập song toàn với con!
Nhân ngày lễ trọng Vu Lan
Mượn câu thơ vụng gửi ngàn yêu thương!

Thu về mưa gió dập dồn
Lá vàng gắng gượng, tủi hờn lá xanh!
Cội già hư ảo mong manh
Nguyện chia sắc lá để dành cho con!

Nắng chiều lấm lét hoàng hôn
Núi thâm quầng mắt đỏ dồn xót xa!
Con còn có mẹ có cha
Sá gì mưa gió phong ba cuộc đời!

Cầu mong thọ tỉ mười mươi!
Mẹ Cha là của để đời của con!
Dù cho sông cạn đá mòn
Thâm tình, hiếu nghĩa chẳng sờn lòng con!

30/7/2018.
Cụ Định.

Bài thơ: Tháng sáu tiễn đưa – Đỗ Hương

THÁNG SÁU TIỄN ĐƯA

Tác giả: Đỗ Hương

( dành tặng Mẹ!)

Mùa hạ dắt nắng vàng về quê Mẹ
Gom tinh khôi rải lên cánh đồng Sen
Ngọt lịm hương rắc dọc quãng đường quen
Lũ ve cũng nhanh chân theo về xứ sở!

Đường về hôm nay lạc những màu mây
Bải hoải rưng rưng, thẫn thờ, loang lổ
Giấc mơ xưa tần ngần ghềnh thơ cũ
Chở nhớ thương nặng cả quãng đường xa.

Về thăm cha thương nhớ áo Mẹ ta
Tấm lưng dãi dầu cõng nắng mưa bết bát
Liêu xiêu trưa gày, tóc vãi vương sợi bạc
Vành nón nghiêng cười chuyện vụn vặt con thơ…

Mẹ kính yêu ơi! Nắng nơi đó nhạt chưa?
Hay những giọt vàng còn rót đầy vai áo mẹ
Ơi tấm lưng oằn gánh một đời dâu bể!
Mà mặn thuỷ chung đằm thắm tháng ngày…

Biết bao giờ con được hôn nữa, bàn tay?
Nõn nà một thời cha thương cha nhớ!
Những ngón dài đã cứu cánh cha một thưở
Khi một trận càn giặc Pháp tràn qua.

Rồi mẹ về hạnh phúc ngọt dâng cha
Tình yêu lớn dâng đời trái ngọt
Cha với Người dệt tròn mộng ước
Trọn vẹn tình bảy ba (73) Mùa Xuân.

Mẹ đã về với cát bụi ngàn năm
Vắng bóng Người vườn khế thêm xào xạc
Tiếng chim chùng chình vườn xưa ngại ngọt
Thương lắm điệu hò chao cánh võng mắt thưa!

Con vội đi khai phá những miền xa
Thảng tiếng lòng mỗi mùa Sen tháng Sáu
Trái Sấu xanh xao giấu mình nương náu
Nơi cuối vườn dấu chân Mẹ còn êm…

Tháng Sáu về hương Dạ Lan đêm
Cứ thơm nức bên vòm cổng cũ
Cái bể to, chín đỏ dâu bên nhà chú
Rụng vơi đầy… than khóc Mẹ xa!

Mỗi bước chân, Sam cụp lại chào ta
Cung cúc tựa hồ vòng tay con thuở bé
Đòi bánh, đòi quà, đòi tôm, đòi cá…
Món quê nhà, một đời, ăn có đủ nguôi ngoai?

Tháng Sáu ơi! đưa tiễn! một ngày mai!

30/6/2017

Bài thơ: Một đời – Phan Huy Hùng

MỘT ĐỜI

Tác giả : Phan Huy Hùng

Một đời tiếng dế kêu sương
Một đời kẽo kẹt tre vườn gió lay
Một đời lật ngửa luống cày
Một đời gieo hạt đợi ngày bội thu …

Một đời mẹ vẫn còn lo
Mai kia con có làm Vua
– Cũng vì :
Luống cày mẹ dắt con đi
Cho con mãi nhớ đường về quê hương !

Bài thơ: Về quê mẹ – Trần Lực

VỀ QUÊ MẸ

Tác giả: Trần Lực

Chiều đổ vạt nắng cuối thu
Ta về với những lời ru thuở nào?
Cánh cò gầy guộc nghiêng chao
À ơi tiếng mẹ lạc vào giấc mơ…

Ta về tìm chút tuổi thơ
Rưng rưng tóc mẹ bạc phơ …xế chiều
Ta về với mái …tranh xiêu
Sợ cơn giông bão, sợ diều…đứt dây…

Sợ ngày nào chuối chín cây
Mẹ theo bóng hạc, vội bay về trời
Còn đâu nghe tiếng à ơi!
Thân cò lặn lội… một đời…còn đâu?…

Trần Lực

Bài thơ: Cha tôi – Chu Long

CHA TÔI

Tác giả: Chu Long

Cánh đồng dưới nắng tháng năm
Rau xanh rủ ngọn cỏ nằm rũ cây
Trời cao xanh chẳng sợi mây
Nắng chan chát nắng đổ đầy ruộng sâu.

Cha tôi đội nắng trên đầu
Chiếc cày bạn với con trâu cấy trồng
Một đời công việc nhà nông
Đôi chân mòn bởi đất đồng – Cha tôi

Nước mắt quyên với mồ hôi
Vắt kiệt nhựa sống cuộc đời cho con
Cha tôi tuổi xế hoàng hôn
Thân cò vẫn lội sớm hôm tảo tần.

Để con có những mùa xuân
Thân cha có khổ muôn phần cũng cam.
HP 20/6/2018 – Chu Long

Bài thơ: Mẹ – Phạm Hồng Giang

MẸ

Tác giả: Phạm Hồng Giang

Con đã viết ngàn bài thơ có lẻ
Mà chưa từng viết tặng Mẹ một câu
Đã qua rồi bẩy mươi mấy mùa ngâu
Sương gió nhuộm mái đầu phơ tóc bạc.

Còng lưng ghánh cho đời con chững chạc
Mắt thâm quầng xao xác suốt canh thâu
Vai áo sờn miếng vá chẳng kịp khâu
Dòng sông chảy đục ngầu phù sa đỏ.

Chín tháng cưu mang dầm mưa dãi gió
Mấy chục năm trời cửa ngỏ chờ trông
Rút ruột vì con hết dạ vì chồng
Mặc nắng rát bão giông không nản chí.

Cuối cuộc đời Mẹ nào đâu ngơi nghỉ
Cháu quấy bà con bì tị ghét thương
Như đóa hoa đời vẫn mãi tỏa hương
Nâng đỡ chúng con chặng đường phía trước.

Nếu có thể cho con xin điều ước
Để Mẹ hiền ….
Mãi mãi được …..
Bình an !
Hồng Giang .

Bài thơ: Nhìn cau nhớ Bầm – Đình Khải

NHÌN CAU NHỚ BẦM(*)

Tác giả: Đình Khải

Con ngồi lặng ngắm hàng cau
Nhìn quả cau lớn, lòng đau nhớ bầm
Nhớ những ngày nhỏ bầm chăm
Miếng cơm, manh áo, đêm nằm bầm ru.

Xa bầm đã mấy mùa Thu
Ngắm hàng cau, chợt thấy như bầm gần
Thấy bầm, con bước nhẹ chân
Đến bên bầm tựa bao lần đã lâu.

Con nhìn lên những trái cau
Bầm ơi con hái, têm trầu bầm ăn
Dù qua bao tháng, bao năm
Bầm nhai trầu vẫn cứ đằm trong con…

ĐÌNH KHẢI

*) Ở Phú Thọ quê tôi gọi Mẹ là Bầm

Bài thơ: Mồ côi – Phan Thu Hà

MỒ CÔI
Tác giả: Phan Thu Hà

Thuở nhỏ ngây thơ con hỏi:
“ Ba ơi ,mồ côi là gì ?”
Ba xoa đầu con rồi bảo :
“ Là khi ba mẹ mất đi “

Bây giờ thì con đã hiểu
Thấm thía hai từ “ mồ côi “
Là những tháng ngày trống vắng
Khi ba mẹ mất đi rồi.

Không còn bàn tay trìu mến
Ấu thơ ba mẹ ẵm bồng
Không còn lời thương da diết
Ru con bằng trái tim nồng.

Còn đâu bóng hình yêu dấu
Còn đâu ánh mắt nhân từ
Giọng cười lạc quan hào sảng
Tìm đâu thấy nữa …bây giờ.

Cả một chặng đường trọn vẹn
Tâm sen không vướng mùi bùn
Bước chân ra đi thật nhẹ
Đâu muốn làm phiền cháu con.

Tiễn ba mẹ về cõi Phật
Con ngăn dòng lệ chảy dài
Để người ra đi thanh thản
Nhẹ lòng ở cõi bồng lai.

Nhớ người chúng con xin nguyện
Làm theo lời dạy của người
Trong tim con luôn còn mãi
Tình ba mẹ tựa biển khơi

Phan Thu Hà – 30/7/2018

Bài thơ: Thương cha – Bùi Thế Uyên

THƯƠNG CHA

Thơ: Bùi Thế Uyên
( Viết cho ngày giỗ Cha lần thứ năm)

Hoàng hôn dần tắt nhạt mầu
Mình con đất khách dãi dầu gió sương
Cô đơn trải gọt đêm trường
Sướng sa đêm lạnh nhớ thương quê nhà

Đêm đêm nhớ bóng mẹ cha
Đời người viễn xứ phôi pha tháng ngày

Xứ người con gánh đắng cay
Bao năm mòn mỏi ngày ngày sầu vương
Thương Cha cách biệt dặm đường
Giờ đây hai ngả âm dương xa vời

Hồng cúc lan dịu hương đời
Khói nhang nghi ngút tỏa nơi niết bàn
Hương hoa quyện lẫn nhang tàn
Cha đi con cháu bần thần ngày nào

Giờ đây con biết làm sao
Âm dương cách biệt nghen ngào chim di
Sinh ly tử biệt có thì
Mà giờ cũng đã năm kỳ giỗ Cha

Mình con vò võ xứ xa
Thân trai bươn chải hải hà quan san
Chịu bao tủi cực gian nan
Chưa ngày báo hiếu song thân sinh thành

Hương thơ dâng kính nghiêng mình
Cầu cho Cha Mẹ hiển linh niết bàn….

Warszawa
01/12/2016

Bài thơ: Viết về mẹ – Dạ Quỳnh

VIẾT VỀ MẸ!
Tác giả: Dạ Quỳnh

Con về nhặt nắng cuối vườn dong
Thương mẹ cõng….mưa qua tháng ngày khó nhọc
Vai mẹ oằn hơn sau mỗi mùa cỏ mọc
Những vết lăn trầm theo vóc dáng con cao.

Con về nghe lại ngọn gió lao xao
Chúng hát… à ơi… theo lời ru của mẹ
Mới năm nao thôi con còn thơ trẻ
Biết gọi mẹ, đánh vần ngọng nghịu chữ o, a.

Bao nhiêu năm miệt mài mãi miền xa
Quên vị chiếc bánh đa nướng dưới than giòn tí tách
Quên mẹ cha mãi là nguồn khơi mạch
Khát giữa chợ đời, thèm tắm khúc sông quê.

Mỏi gối chùn chân rồi cũng sẽ quay về
Nơi mẹ ngóng… bộn bề ngay bậu cửa
Dù trăm năm hay ngàn năm sau nữa
Chỉ mẹ mới lấp đầy
khoảng trống giữa đời con

Dạ Quỳnh

Bài thơ: Mừng sinh nhật mẹ – Nguyễn Thị Xuân Hương

MỪNG SINH NHẬT MẸ
Tác giả: Nguyễn Thị Xuân Hương

Bà ngoại sinh mẹ mẹ sinh con
Mẹ năm ba(53) tuổi con tròn ba hai (32)
Gập ghềnh mọi nẻo chông gai
Chắt chiu từng giọt nắng mai cuối trời.

Đời mẹ bao giọt lệ rơi
Mồ hôi mặn chát giữa đời mưu sinh
Đa đoan bởi nặng nghĩa tình
Sầu đau mình mẹ hi sinh âm thầm.

Mẹ ơi qua hết thăng trầm
Cầu trời cho mẹ muôn phần khỏe vui
Bình an tâm dạ thảnh thơi
A DI ĐÀ PHẬT! chứng lời nguyện tâm!!!

– Nguyễn Thị Xuân Hương-

Bài thơ: Nhà vắng – Doãn Kim Oanh

Nhà vắng
Tác giả: Doãn Kim Oanh

Con về thương nhớ rưng rưng
Thềm rêu cửa khóa mà không thấy người
Bờ rào xưa đã xây rồi
Bà giờ cũng đã về trời buôn cau
Cha đi công tác đã lâu
Đường xa khấp khểnh còn đâu dáng người
Năm mùa xuân đã xa rồi
Lòng con lạnh lắm nhớ nơi cha nằm
Thơ Doãn kim Oanh

Bài thơ: Con khờ viết tặng ba – Trần Đức Nghĩa

CON KHỜ VIẾT TẶNG BA
Tác giả: Trần Đức Nghĩa

Con nợ ba …nợ một mối ân tình …
Ly trà ấm hương nồng trinh thơm mãi
Vương vấn mãi cuộc đời xin gác lại
Về với ba …con trai nhớ thương người…

“Ba nuôi à”! Con gọi lên mỉm cười
Con vui lắm vì người không ghét bỏ
Ba mươi năm không cha mồ côi đó
Đến hôm nay con nhỏ lại gặp người …

Nợ thế gian ba trả cả cuộc đời
Ba xuống tóc thảnh thơi nơi cửa phật
Mặc chiếc áo màu vàng bay phản phất
Ba mỉm cười con thật thấy bình an….

Cám ơn ba lời khuyên nhủ dịu dàng
Con có mệt Bình an vui hạnh phúc
Sông có khúc dòng đời luôn vẫn đục
Giữ tâm hồn như Trúc trước ban mai ..

Lời ba yêu như hương lúa ,hương lài
Luôn thoang thoảng bên tai con ghi nhớ
Có những lúc cuộc đời con thấy sợ
Chén trà ngon …con nợ….để ba mời….

(Tặng sư thầy: Thích Tâm Căn, biệt hiệu Liên Hoa Trà, chân tu tại chùa Phước Thể – Liên Hương )

Bài thơ: Nhớ mẹ – Hồ Viết Bình

NHỚ MẸ
Tác giả Hồ Viết Bình

Về quê thăm mẹ, mẹ ơi!
Miệng cười móm mém mẹ tôi nhai trầu
Cuộc đời mưa nắng giãi dầu
Cuốc đất, nhổ cỏ, bán rau chợ chiều.
Vai gầy gánh nặng liêu xiêu
Mong sao kiếm được ít nhiều nuôi con
Ốm đau mẹ nấu cháo ngon
Bón ăn từng muỗng thức tròn suốt đêm
Quạt cho con ngủ thật êm
Mắt thâm chẳng quản mẹ quên nhọc nhằn.
Bữa cơm chỉ có rau xanh
Mẹ ăn dưa muối, cá dành cho con
Nhà nghèo khoai sắn thay cơm
Mong con học giỏi tiếng thơm để đời.
Đến khi con lớn thật rồi
Trải nhiều vất vả mẹ tôi lưng còng.
Chao ôi nước mắt lưng tròng
Bộ đồ con gởi xếp trong rương hồng
Quần đen với áo nâu sồng
Mẹ thích mặc thế cho lòng thảnh thơi
Bây giờ mẹ đã về trời
Rưng rưng nhớ mẹ một đời vì con.

Bài thơ: Tạ lỗi song thân – Phan Trung

TẠ LỖI SONG THÂN…!
Thơ: Phan Trung

Con lặng đứng giữa trùng khơi lộng gió
Ngẫm đời mình nhiều biến cố chông gai
Tuổi thanh xuân đằng đẵng cứ miệt mài
Trong binh biến để sương mai điểm tóc.

Giờ ngoảnh lại thời gian trôi mấy chốc
Khiến Mẹ Cha vẫn phải khóc nghĩ suy
Sinh có hạn nhưng tử lại bất kỳ
Con tự hỏi đã làm chi báo hiếu.

Bao biện hộ thì lòng con vẫn hiểu
Nợ sinh thành con mãi thiếu cả đời
Dù song thân chôn đáy dạ sầu khơi
Khi già yếu chưa người dâu thơm thảo.

Nay con vẫn đang vùng trời biên đảo
Trước sói lang phải bảo vệ Non Sông
Dưới lá cờ nguyện tô thắm máu hồng
Xin Cha hãy đừng chờ trông thêm nữa.

Lời cha dạy lính thì không chọn lựa
Là niềm tin phải thắp lửa cho Dân
Chuyện vợ con đúng thật cũng rất cần
Nhưng sống nhục thì ngàn lần khổ ải.

Một lần nữa có cho con chọn lại
Vẫn thế thôi Cha mãi chẳng chạnh lòng
Cả đời này xin tạ lỗi tổ tông
Con sẽ gắng lập chiến công bù đắp…!

Bài thơ: Nghĩa Mẹ tình Cha – Đồng Văn Thanh

NGHĨA MẸ, TÌNH CHA
Tác giả: Đồng Văn Thanh
( Kính tặng cha mẹ yêu dấu)

Trọn một đời cha mẹ chăm lo
Bầy con thơ, sớm chiều vụng dại
Bao khắc khổ, oằn vai nhẫn nại
Cho cuộc đời, mỗi bát cơm thơm.

Nhớ ngày xưa, chiến tranh lửa đạn
Cha lên đường diệt giặc, trừ gian
Còng lưng mẹ, hao tâm vất vả
Nuôi con bằng hạt tấm, rãi khoai.

Cha trở về, nỗi nhớ khôn nguôi
Rời trận mạc, tay cày tay cuốc
Sắn khoai ngô, những điều thân thuộc
Thân cha héo gầy, con lớn khôn.

Cha gánh gồng đầu bờ, cuối bến
Mẹ tảo tần con cáy, con cua
Trắng mái đầu, sớm nắng, chiều mưa
Con thấu hiểu, tình cha, nghĩa mẹ.

Bấm ngón tay tính mùa thay lá
Con bàng hoàng, Thượng đế người ơi…!
Đời mẹ cha lao lực, bần hàn
Giờ xế bóng, đau lòng con trẻ.

Con vẫn biết cuộc đời dâu bể
Thương mẹ cha, da dẻ đồi mồi
Những đêm khuya trái gió, trở trời
Nỗi đau nén chèn tim mẫu phụ.

Vâng con hiểu, bấy nhiêu cho đủ
Cha mẹ hiền, để phúc đời con
Vâng con nhớ, một dạ sắt son
Tình phụ mẫu vuông tròn năm tháng.

Ai vô tình ví núi Thái sơn
Bằng công cha sương gió mỏi mòn ?
Nước nguồn kia sánh bằng sữa mẹ ?
Cha mẹ nghèo, Thượng đế đời con./.

Đ. V. T

Bài thơ: Đưa cha đi chơi Bờ Hồ – Đỗ Thị Phương Lan

ĐƯA CHA ĐI CHƠI BỜ HỒ
Tác giả: Đỗ Thị Phương Lan

Cha đã già quá rồi
Chẳng còn nhanh còn khoẻ
Như ngày con còn bé
Cha đưa con đi chơi.

Giờ đến lượt con rồi
Đưa cha đi chơi nhé
Như ngày xưa con bé
Hai cha con đi chơi.

Ra thăm hồ Gươm thôi
Cha háo hức ngắm nhìn
Người sao đông kìn kìn
Chẳng như ngày xưa nữa.

Rồi cha thoáng tần ngần
Bên Tháp Bút dừng chân
Kể chuyện xưa con khéo
Bậc đá hộc dám trèo.

Nước hồ bớt trong veo
Tháp Rùa rêu phong đó
Cụ Rùa không còn nữa
Cha ngắm nhìn than thở.

Bao giờ đến ngày xưa
Cụ Rùa đùa trong mưa
Liễu trên bờ lả lướt
Du khách nhìn ngẩn ngơ…

Vòng được nửa Bờ Hồ
Cha đã thấm mệt rồi
Hai cha con tự chụp
Tấm ảnh kỉ niệm chơi.

Cha ơi mình về nhé
Lần sau lại ra hồ
Ta rủ thêm cả mẹ
Cùng với cha dạo phố.

Ừ, về thôi con gái
Hôm nay thế vui rồi
Lần sau mẹ đi chơi
Ta dạo lâu hơn nữa.

Cảm ơn con gái yêu
Cha mẹ đều rất hiểu
Cuộc đời không cần nhiều
Có các con là đủ.
Con gái ĐTPL(03/05/2018)

Bài thơ: Mừng sinh nhật mẹ – Nghiêm Mẫn

TÌNH MẸ

Mẹ mang đến sự ngọt ngào
Bao nhiêu năm ấy là bao nhiêu tình
Mẹ mang đến phút thanh bình
Công ơn trời biển nghĩa tình cháu con

Bài và ảnh: NGHIÊM Mẫn

Bài thơ: Kính mẹ – Trịnh Thanh Hằng

KÍNH MẸ

Tác giả: Trịnh Thanh Hằng

Nhìn bóng mẹ sao thấy lòng trĩu nặng
Mẹ già rồi đèn trước gió hắt hiu
Đời của mẹ cơ cực cũng nhiều rồi
Cây bóng cả biết khi nào gió thổi
Dáng liêu siêu hao gầy mà vồi vội
Trong tim người một biển lớn bao la
Lòng bao dung đức độ lại hiền hòa
Tấm gương sáng suốt đời con soi tỏ
Dẫu già rồi con vẫn là đứa nhỏ
Vẫn khát thèm vòng tay mẹ ầu ơ
Sợ lắm ngày con đứa trẻ bơ vơ
Xa xa mãi xa rời vòng tay mẹ
Dẫu biết rằng thời gian rồi cũng sẽ
Đẩy đưa ai đến với cõi vĩnh hằng
Nhưng lòng con vẫn muốn nguyện cầu rằng
Cây đại thụ sẽ muôn đời bất tử
Để những khi con rã rời mệt lử
Đến bên con vầng dương sáng rạng ngời
Dìu con bước qua u sầu tăm tối
Mẹ yêu nhé mẹ hãy đừng đi vội
Công sinh thành báo đáp chẳng được bao
Dù già nua hay bạc tóc thế nào
Vẫn thèm lắm một vòng tay che chở
Vẫn thèm lắm câu mắng yêu dang dở
Cái con này đã Nở lại vô duyên

Thơ Trịnh Thanh Hằng

Bài thơ: Con tặng mẹ cả trời xuân – Thanh Trang

CON TẶNG MẸ CẢ TRỜI XUÂN

Tác giả: Thanh Trang

Cả một đời mẹ vất vả ngược xuôi
Lưng gồng gánh dưỡng nuôi con ăn học
Chốn nhiệt ngã cướp màu xanh mái tóc
Miệng vẫn cười xóa mệt nhọc vây quanh…

Gom lời thương để tình cảm đơm cành
Gửi đến mẹ điều an lành may mắn
Nụ cười nở làm tan mồ hôi mặn
Gió mùa về, con vội nhắn tiếng yêu.

Mẹ biết không? Con yêu mẹ rất nhiều
Ngực trái đập như có điều muốn nói
Hạnh phúc tỏa, ánh mặt trời luôn rọi
Con thu vào tay gói lại trời Xuân.

Tặng mẹ yêu ánh mắt đẹp vô ngần
Cầu sức khỏe mong không lần đau ốm
Nụ cười rạng như mặt trời buổi sớm
Soi cuộc đời khi con chớm biết đi.

Đối với con mẹ vẫn lúc xuân thì…
Thanh Trang.

Bài thơ: Vĩnh biệt mẹ – Trần Diệu Hương

VÍNH BIỆT MẸ YÊU

Tác giả: Trần Diệu Hương

Sụt sùi ai rải mưa ngâu
Quấn vành tang trắng trên đầu mẹ ơi
Được tin con bỗng rụng rời
Trời buồn cũng đổ mưa rơi chẳng ngừng

Mẹ mình đâu phải người dưng
Tìm con sầu não quá chừng mẹ ơi
Mẹ về chín suối xa xôi
Trần âm cách biệt đành thôi từ giờ

Chỉ mong gặp mẹ trong mơ
Để nghe tiếng mẹ ầu ơ đêm trường
Nay thời cách biệt âm dương
Con xin cúi lậy mười phương di đà

Linh hồn mẹ ở nơi xa
Trên vườn tiên cảnh mãi là thảnh thơi
Phan Trần con dạ ngậm ngùi
Xin dâng đến mẹ ngàn lời của con

Dẫu mai biển cạn non mòn
Tình cha nghĩa mẹ mãi còn trong tâm.

Bài thơ: Mẹ và quê hương – Nguyễn Nguyệt Anh

MẸ VÀ QUÊ HƯƠNG

Tác giả: Nguyễn Nguyệt Anh

Con sẽ về thăm lại cố hương
Nỗi nhớ quê xa khổ dặm trường
Đêm áng mây buồn giăng ngập lối
Nặng tình ân nghĩa cảnh tha phương

Nhìn ánh đèn khuya hắt xuống tường
In hình bóng mẹ nghĩ mà thương
Đêm ngồi xíu lại từng khuy áo
Rách bởi mưu sinh cực biết nhường

Bây giờ bước chậm mắt nhòa sương
Mỗi bước chân đi gậy dẫn đường
Cứ buổi chiều về ra ngõ ngóng
Đợi đàn con ở khắp muôn phương

Con sẽ về thăm Mẹ Tổng Trường *
Đầu đời nếm được đủ vị hương
Của người dưỡng dục nuôi con lớn
Chắp cánh bay xa mọi nẻo đường

Mc: 30/7/2018

* tổng trường—-> tên một địa danh

Bài thơ: Bên bờ vai mẹ – Lâm Bình

BÊN BỜ VAI MẸ

Thơ : NS Lâm Bình

Giữa không gian vắng vẻ
Bên bờ vai của Mẹ
Khoảng khắc chợt trở về
Trong ngần như mắt bé

Cuộc đời là bão táp
Mẹ che chắn cho con
Lặng lẽ buớc vào đời
Từ bước đi chập chững

Mẹ tiếp sức cho con
Vượt qua bao gềnh thác
Nếu như con không Mẹ
Liệu trụ nổi đời này ?

Bao bon chen ngọt chát
Khi con khóc có Mẹ
Cha chỉ biết thở dài
Con xà vào lòng Mẹ
Giọt ngắn cứ tuôn rơi
Mẹ nụ cười an ủi…

Giờ Mẹ đã đi rồi …
Hằng đêm con vẫn mơ
Bên bờ vai thương nhớ
Mẹ dịu hiền vị tha
Lời Mẹ dạy ngân nga
Về trái tim nhân ái
Con ơn Mẹ muôn đời

HCM 31/7/2018

Bài thơ: Mẹ tôi – Khánh An

MẸ TÔI

Tác giả: Khánh An

DÂNG hết cả tuổi thanh xuân
LÊN trường xuống chợ tảo tần nuôi con,
NGƯỜI đi chân cứng đá mòn
MẸ là ánh sáng cho con soi đường.
KÍNH bề trên, dưới thì nhường
YÊU chồng con với tình thương dạt dào.
BÀI ru của Mẹ năm nào
THƠ đưa cánh võng con vào giấc mơ
CON cò con vạc ngẩn ngơ
VIẾT cho con những giấc mơ cuộc đời.
MỘT cuộc đời – một con người
CHIỀU nay con thấy bồi hồi Mẹ ơi.
CUỐI hoàng hôn… Chẳng thành lời …
NĂM qua… tóc bạc, da mồi, chân xiêu…
DÂNG LÊN NGƯỜI MẸ KÍNH YÊU
BÀI THƠ CON VIẾT MỘT CHIỀU CUỐI NĂM.
P/s: bài tôi viết tặng Mẹ của mình năm Bà sinh nhật lần thứ 70.

” Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Lời răn dạy của cha ông luôn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải luôn nhớ đến công ơn của cha mẹ. Hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận và trách nhiệm của mỗi con người.

Hờn Dỗi

Hờn Dỗi

Hờn Dỗi (Vũ Hoàng Chương)

Tối qua em ngồi học
Lơ đãng nhìn đi đâu
Dưới đèn anh thoáng nhận
Nét mặt em rầu rầu.

– Em buồn? anh gặng hỏi
Mấy lần, em chẳng nói
Rồi anh không biết vì sao
Đẩy ghế đứng lên em giận giỗi

Rũ tung làn tóc rún đôi vai
Em vùng vằng
Ôm sách vở
Sang phòng bên

Không học nữa
Không cho ai vào nữa
Cũng không thèm nghe nữa
Lời thiết tha anh van ngọi mãi ngoài

Nhưng anh nghe thổn thức
Em khóc trên gối thêu
Nhưng anh nghe tấm tức
Em giận hờn bao nhiêu

Em khóc? Làm sao mà dỗ được?
Nhưng anh còn biết làm sao!
Gọi em em nhất định
Không mở khoá cho vào
Từng giây từng phút lòng anh càng bối rối nao nao

Anh vẫn nghe tiếng khóc
Trong vạt áo len hồng
Anh vẫn nghe tiếng nấc
Dồn dập trên gối nhung

Sao em khóc? vì đâu hờn tủi?
Em buồn, có phải lỗi anh không
Hỏi em em chẳng nói
Mặc anh xô cửa phòng

Ngoài hiên vắng gió đưa vàng rụng đến
Ngọn tường vi xuống mãi chiếc liềm cong
Đêm gần khuya, sương đổ
Anh thấy ướt vai áo
Anh thấy lạnh trong lòng

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Hờn Dỗi” của tác giả Vũ Hoàng Chương. Thuộc tập Thơ Say (1940), danh mục Thơ Vũ Hoàng Chương trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Tháng 3 miền nhớ: bài thơ khắc khoải nỗi nhớ nhung một thời yêu

Mời quý độc giả tham khảo những ý thơ hay trong bài tháng 3 miền nhớ của Violet Hoa dưới đây để thấu hiểu được nỗi nhớ da diết người thương, nhớ những kỉ niệm, nhớ mối tình đẹp, hạnh phúc lứa đôi. Bài thơ đầy tâm trạng này chất chứa nỗi niềm này được rất nhiều yêu thích đặc biệt là những bạn yêu thơ.

THÁNG 3 MIỀN NHỚ
Thơ: Violet Hoa

Anh có thấy trên cành phơi sắc đỏ
Cánh Mộc Miên cứ ngỡ lửa tim mình
Chuyện xưa cũ lặng thinh trong miền nhớ
Bỗng giật mình nức nở áng thơ xinh

Vần thơ cũ ướp tình trong cánh bưởi
Vẫn nồng nàn như buổi ấy – đầu tiên
Màu trinh trắng dịu hiền giây phút cuối
Mãi còn đây đắm đuối một nỗi niềm

Nhành hoa ấy tặng riêng nhau một thuở
Chiếc khăn tay chưa dám mở lần nào
Chỉ ôm ấp mà lòng nao nao nhớ
Nhớ nụ cười, hơi thở phút trao nhau

Tháng Ba đến đẹp màu hoa kỷ niệm
Cháy trong ta dâng hiến tuổi xuân thì
Yêu thương ấy khắc ghi hoài trong dạ
Rồi một ngày bỗng hóa cánh thiên di…

Nhà thơ Violet Hoa đã gợi tả được nỗi nhớ khắc khoải trong bài thơ tháng ba miền nhớ . Cùng nhau theo dõi phongnguyet.info để cập nhật những bài thơ hay của những nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam nhé. Chúng tôi xin chúc các bạn luôn vui vẻ, thành công nhé!Hẹn gặp lại các bạn!