Thơ ca là tiếng nói của cảm xúc, là nhịp tâm hồn, là tiếng lòng của tác giả. Nghe thơ, đọc thơ, làm thơ là nghệ sĩ của nghệ thuật cao quý. Nhưng không phải ai thích thơ cũng làm được thơ. Nghề nào cũng thế, lĩnh vực nào cũng vậy, không có luyện tập, không có kĩ năng thì chẳng thể làm nên nghệ thuật. Làm thơ bên cạnh năng khiếu cũng phải có kiến thức, phải có rèn luyện mới có thơ hay. Trong chương trình Ngữ văn lớp 9 chúng ta có cơ hội rèn luyện làm thơ, nắm bắt kiến thức cơ bản về thơ tám chữ qua bài học “Tập làm thơ tám chữ”. Bài học vô cùng bổ ích giúp chúng ta có thêm thật nhiều kiến thức và kĩ năng trong việc sáng tạo thơ ca. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” hay nhất mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu hơn và chuẩn bị tốt nội dung tiết học.
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 1
I. Nhận diện thể thơ tám chữ
1. Đọc thơ
2. Đối với thể thơ tám chữ, người ta có thể gieo vần theo nhiều cách (vần chân, vần lưng) phổ biến nhất vẫn là vần chân (những chữ in đậm là vị trí gieo vần); được gieo liên tiếp, gián cách hoặc kết hợp cả hai
3. Thể thơ tám chữ không bị bó về số dòng thơ, có thể tổ chức thành các khổ thơ (thường là khổ 4 câu); ngắt nhịp tự do, linh hoạt
II. Rèn luyện kĩ năng
1. Thứ tự các từ cần điền là: ca hát, ngày qua, bát ngát, muôn hoa
2. Thứ tự: cũng mất, tuần hoàn, mãi, đất trời
3. Câu thơ thứ 3 trong bài Tựu trường của Huy Cận sai ở chỗ: sử dụng từ rộn rã
Từ này không vần với từ “gương” ở câu thơ thứ hai.
Sửa: Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
4. Học sinh tự tìm chủ đề và làm thơ tám chữ
Hà Nội vào hè râm ran tiếng ve
Những đứa trẻ tan trường cười rộn rã
Nghe bàn chân gợi về ngôi trường cũ
Nắng ươm vàng rủ mái ngói thân quen
III. Thực hành làm thơ tám chữ
1. Từ thích hợp điền vào khổ thơ lần lượt là: vườn, qua
2. Câu thơ: Hạ qua rồi còn xác lá thu bay.
3. Cần nhận định thể thơ có đúng 8 chữ không, có gieo vần, ngắt nhịp chưa, cách gieo vần ngắt nhịp đặc sắc
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 2
I. NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
1. Đọc các đoạn thơ sau:
2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:
a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.
b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
Trả lời:
a. Mỗi dòng ở các đoạn thơ có 8 chữ.
b. Có nhiều cách gieo vần (vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách) nhưng phổ biến nhất vẫn là gieo vần chân :
– Đoạn thơ (a) : vần chân liền tan – ngàn (câu 2 – 3), bừng – rừng (câu 6 – 7).
– Đoạn thơ (b) : vần chân liền học – nhọc (câu 3 – 4), bà – xa (câu 5 -6).
– Đoạn thơ (c) : vần chân cách ngát – hát (câu 1 – 3), non – son (câu 2 – 4), đứng – dựng (câu 5 – 7), tiên – nhiên (câu 6 – 8).
c. Cách ngắt nhịp tự do, linh hoạt diễn tả những trạng thái khác nhau.
II. LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Trả lời câu 1 (trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn /…/
Những sắc tàn vị nhạt của /…/
Nâng đón lấy màu xanh hương /…/
Của ngày mai muôn thuở với /…/.
Trả lời:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.
Trả lời câu 2 (trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn /…/
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /…/;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than phiền tiễn biệt…
Trả lời:
– Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
– Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
– Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời:
– Đoạn thơ trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thơ thứ ba với từ “rộn rã”. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ “gương” ở cuối câu thơ trước đó; đồng thời cụm từ “vào trường” còn có tác dụng liên kết về ý với toàn bài.
– Sửa lại:
Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời câu 4 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.
Trả lời:
Tự làm một bài thơ tám chữ (tham khảo):
Đó là nơi tôi hằng yêu mến nhất
Ngôi trường xưa bé nhỏ dưới lùm cây
Bao bạn bè ở lứa tuổi thơ ngây
Cùng tôi sống những tháng ngày tươi đẹp…
III. THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ
Trả lời câu 1 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.
(Theo Anh Thơ, Trưa hè)
Trả lời:
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
Trả lời câu 2 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1):
Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
/…/
Trả lời:
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
Sao trong lòng giờ vẫn cứ vấn vương
Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1): Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình.– Bài thơ có đúng thể tám chữ không?
– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?
– Kết cấu bài thơ có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?
– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Gợi ý: Ngoài nhận xét về vần, nhịp đã đạt chưa, nếu có bài thơ hay, câu thơ hay nên “bình” để làm sáng rõ cái hay, cái đẹp của bài thơ, câu thơ.
Đoạn thơ tham khảo:
Lòng chợt buồn nhớ lại thời thơ ấu
Thời gian trôi thấm thoát đã lớn khôn
Kỉ niệm ngày xưa bao điều chôn giấu
Bỗng ùa về trong nỗi nhớ quê hương.
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 3
I. NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Câu 1 trang 148 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc các đoạn thơ sau:
a) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
b) Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
(Bằng Việt, Bếp lửa)
c) Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy, những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son!
Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng
Của đời ta chập chững buổi đầu tiên
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
(Tố Hữu, Mùa thu mới)
Trả lời:
a. Ở các đoạn thơ đã cho, mỗi dòng thơ có tám chữ (tiếng)
b. – Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ nhất: tan – ngàn; mới – gội; bừng – rừng; gắt – mật. Đây là cách gieo vần chân liên tiếp, chuyển đổi theo từng cặp.
– Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ hai: về – nghe; học – nhọc; nhà – xa; gắt – mật. Đây là cách gieo vần chân liên tiếp, chuyển đổi theo từng cặp.
– Những chữ có chức năng gieo vần ở đoạn thơ thứ ba: hát – ngát; non – son; đứng – dựng; tiên – nhiên. Đây là cách gieo vần chân gián cách.
c. Cách ngắt nhịp trong mỗi đoạn thơ cũng rất đa dạng:
– Nào đâu / những đêm vàng / bên bờ suối
Ta say mồi / đứng uống / ánh trăng tan
Đâu những ngày / mưa chuyển / bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm / giang sơn / ta đổi mới?
– Mẹ cùng cha / công tác bận / không về
Cháu ở cùng bà,/ bà bảo / cháu nghe…
Câu 2 trang 149 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.
b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
Trả lời:
a) Số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ là: 8 chữ.
b) Cách gieo vần:
+ Vần chân liền
+ Vần chân cách.
→ Theo từng khuôn âm.
+ Hình thức: có thể dài, ngắn tùy ý.
c) Cách ngắt nhịp tự do, đa dạng, linh hoạt.
II. LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Câu 1 trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn /…/
Những sắc tàn vị nhạt của /…/
Nâng đón lấy màu xanh hương /…/
Của ngày mai muôn thuở với /…/.
Trả lời:
Điền từ thích hợp vào chỗ trống:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.
Câu 2 trang 150 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn /…/
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /…/;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than phiền tiễn biệt…
Trả lời:
– Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
– Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
– Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Câu 3 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời:
Đoạn thơ trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thơ thứ ba với từ “rộn rã”. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ “gương” ở cuối câu thơ trước đó; đồng thời cụm từ “vào trường” còn có tác dụng liên kết về ý với toàn bài.
Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Câu 4 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.
Trả lời:
Tự làm một bài thơ tám chữ (tham khảo):
Đó là nơi tôi hằng yêu mến nhất
Ngôi trường xưa bé nhỏ dưới lùm cây
Bao bạn bè ở lứa tuổi thơ ngây
Cùng tôi sống những tháng ngày tươi đẹp…
III. THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ
Câu 1 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.
(Theo Anh Thơ, Trưa hè)
Trả lời:
Điền từ thích hợp vào chỗ trống:Trời trong biếc không qua mây gợn trắngGió nồm nam lộng thổi cánh diều xaHoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắngLũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
Câu 2 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã /…/
Trả lời:
Điền một câu thơ cuối sao cho phù hợp với đoạn thơ:
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
Sao trong lòng giờ vẫn cứ vấn vương
Câu 3 trang 151 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình.
– Bài thơ có đúng thể tám chữ không?
– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?
– Kết cấu bài thơ có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?
– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?
Gợi ý:
Ngoài nhận xét về vần, nhịp đã đạt chưa, nếu có bài thơ hay, câu thơ hay nên “bình” để làm sáng rõ cái hay, cái đẹp của bài thơ, câu thơ.
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 4
Nhận diện thể thơ tám chữ
Câu 2 – Trang 149 SGK
Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:
a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên (trang 148 SGK)
b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
Trả lời
a) Mỗi dòng (ở tất cả 3 đoạn trích) đều gồm 8 chữ.
b)
Đoạn 1: các tiếng bắt vần nhau: tam – ngàn, suối – mới – gợi, bừng – rừng, gắt – mật.
➜ Nhận xét: gieo vần liên tiếp
Đoạn 2: các tiếng bắt vần nhau: về – nghe, học – nhọc, bà – xa
➜ Nhận xét: gieo vần liên tiếp
Đoạn 3: các tiếng bắt vần nhau: ngát – hát, non – son, đứng – đựng, tiên – nhiên
➜ Nhận xét: gieo vần gián cách.
c) Cách ngắt nhịp của thể thơ tám chữ cũng rất đa dạng, linh hoạt.
Chẳng hạn:
– Nào đâu/những đêm vàng/ bên bờ suối
Ta say mồi/ đứng uống/ ánh trăng tan
Đâu những ngày/ mưa chuyển/ bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm/ giang sơn ta/ đổi mới…
– Mẹ cùng cha/ công tác bận/ không về
Cháu ở cùng bà/ bà bảo/ cháu nghe…
Luyện tập nhận diện thể thơ tám chữ
Câu 1 – Trang 150 SGK
Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ngữ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Trả lời:
Hãy cắt đứt những dây đàn /ca hát/
Những sắc tàn vị nhạt của /ngày qua/
Nâng đón lấy màu xanh hương /bát ngát/
Của ngày mai muôn thuở với /muôn hoa/
(Tố Hữu, Tháp đổ)
Câu 2 – Trang 150 SGK
Đoạn thơ sau trích trong bài Vội vàng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Trả lời
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi /cũng mất/
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn /tuần hoàn/.
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /đất trời/;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thâm tiễn biệt…
Câu 3 – Trang 151 SGK
Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời
Câu thứ ba bị chép sai ở mấy chữ rộn rã
Li do: Đây là khổ thơ gieo vần gián cách. Lẽ ra hai chữ cuối cùng câu thứ 3 phải hợp vần với hai chữ cuối cùng câu thứ nhất. Vì chép sai nên rộn rã không vần được với trẻ lại.
Sửa: Những chàng trai mười tám tuổi vào trường hoặc Những chàng trai tuổi mới độ mười hai.
Câu 4 – Trang 151 SGK
Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.
Hướng dẫn
Nếu chưa quen với thể thơ này, trước hết em chưa cần làm hay, mà hãy làm cho “xuôi nghĩa” (thông về nghĩa, không gượng ép đến nỗi mất cả nghĩa) và “xuôi tai” (đảm bảo đúng số chữ, có vần, có nhịp).
Thực hành làm thơ tám chữ
Câu 1 – Trang 151 SGK
Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:
Trời trong biết không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một /…/ đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay /…/.
(Theo Anh Thơ, Trưa hè)
Trả lời
Đọc toàn bộ khổ thơ để thấy khổ thơ này gieo vần gián cách: Tiếng “trắng” (câu 1) vần với tiếng “nắng” (câu 3). Vậy tiếng cuối cùng của câu 4 phải mang thanh bằng và chứa vần “a” để vần với “xa” ở câu 2. Tiếng thứ sáu câu 3 phải là thanh bằng để giữ nhịp (đổi thanh điệu so với câu 2).
Khổ thơ chép đầy đủ là:
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng,
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
(Anh Thơ, Trưa hè)
Câu 2 – Trang 151 SGK
Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã/…/
Gợi ý:
Em tự sáng tác câu thơ thứ tư. Gợi ý: Với 3 câu đã cho, ta thấy khổ thơ gieo vần gián cách: tiếng “lạ” (Câu 1) vần với “rã” (Câu 3). Vậy tiếng cuối cùng câu 4 phải vần với “trường” (Câu 2). Ngoài ra còn phải tính đến sự phù hợp về nghĩa.
Ví dụ:
– Áo trắng tung bay vui bước tới trường.
– Bước chân nhẹ nâng tà áo trắng sương.
– Cô giáo hiền những cử chỉ thân thương.
Câu 3 – Trang 151 SGK
Mỗi nhóm, tổ cử đại diện đọc và bình trước lớp bài thơ đã chuẩn bị. Cả lớp, dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, tham gia nhận xét, đánh giá các bài thơ đã được đọc, bình theo các tiêu chí sau:
– Bài thơ đó có đúng thể 8 chữ không?
– Bài thơ đã có vần chưa? Cách gieo vần, ngắt nhịp đúng, sai, đặc sắc như thế nào?
– Kết cấu bài thơ đó có hợp lí không? Nội dung cảm xúc có chân thành, sâu sắc không?
– Chủ đề bài thơ đó có ý nghĩa gì?
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 5
A. YÊU CẦU
– HS hiểu được: Thơ tám chữ là thể thơ mỗi dòng tám chữ, cách ngắt nhịp đa dạng. Bài thơ theo thể này có thể gồm nhiều đoạn, có thể dược chia thành nhiều khổ, số câu không hạn định, cách gieo vần chủ yếu là vần chân (liên tiếp hoặc gián cách).
– Tập làm thơ theo thể thơ này.
B. GỢl Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Bài tập 1. Đọc các đoạn thơ sau:
a) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gọi,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thê Lữ, Nhớ rừng)
b)
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bào cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương hà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng hù
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
(Bằng Việt, Bếp lửa)
c) Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy, những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son!
Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng
Của đời ta chập chững buổi dầu tiên
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quàn lại thiên nhiên!
(Tố Hữu, Mùa thu mới)
Bài tập 2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:
a) Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên.
b) Tìm những chữ có chức năng gieo vần ờ mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách dà học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
c) Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi doạn thơ trên.
Gợi ý
a) Mỗi dòng thơ trong các đoạn thơ trên đều có tám chữ.
b) Đoạn thơ trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp: tan – ngàn, mới – gội, bừng – rừng, gắt – mật.
Đoạn thơ trong bài Bếp lửa của Bằng Việt gieo vần chân, liên tiếp: về – nghe, học – nhọc, bà – xa.
Đoạn thơ trong bài Mùa thu mới của Tố Hữu gieo vần chân, gián cách: ngát – hát, non – son, dứng – dựng, tiên – nhiên.
c) Cách ngắt nhịp đa dạng, linh hoạt. Ví dụ, đoạn thơ thứ nhât:
Nào đâu / những đêm vàng hên hờ suối (2/6)
Ta say mồi /đứng uống ánh trăng tan? (3/5)
Đâu những ngày / mưa chuyển bốn phương ngàn (3/5)
Ta lặng ngẩm /giang sơn ta đổi mới? (3/5)
Đâu những bình minh /cây xanh nắng gội, (4/4)
Tiếng chim ca/giấc ngủ ta tưng bừng (3/5)
Đâu những chiều /lênh láng máu sau rừng (3/5)
Ta đợi /chết mảnh mặt trời gay gắt, (2/6)
Để ta chiếm lấy / riêng phần bí mật? (4/4)
– Than ôi!/Thời oanh liệt/nay còn đâu? (2/3/3)
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Bài tập 1. Đoạn thơ sau trích trong bài Tháp đổ của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ngữ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn /… /
Những sắc tàn vị nhạt của /… /
Nâng đón lấy màu xanh hương /… /
Của ngày mai muôn thuở với /… /.
Gợi ý
Căn cứ vào sự phù hợp về nghĩa, vần và nhịp, ta điền vào chỗ trống như sau:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa.
(Tố Hữu, Tháp đổ)
Bài tập 2. Đoạn thư sau trích trong bài Vội vùng của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi /… /;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ cua nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn /… /
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Cồn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả /… /;
Mùi thúng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Gợi ý
Điền từ ngữ còn thiếu trong các câu thơ của Xuân Diệu là:
Mù xuân hết nghĩa lù tôi cũng mất;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nên bâng khuâng tôi tiếc cà đất trời;
Bài tập 3. Đoạn thơ sau trong bài Tựu trường của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hời tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Gợi ý
Nếu vần chân, gián cách thì các cặp 1 – 3, 2 – 4 không hợp vần. Từ “rộn rã” không phù hợp với ngữ nghĩa của câu thơ. Như vậy, khổ thơ được gieo vần chân, liên tiếp. Tiếng được gieo vần chân là “gương” và “trường”.
Câu thơ thứ ba là:
Những chàng trai mười lăm tuổi vào (tới) trường.
Bài tập 4. Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành ưên lơp.
Gợi ý
Yêu cầu bài hoặc đoạn thơ em làm phải:
– Thông về nghĩa.
– Đảm bảo đúng số chữ, có vần, có nhịp.
Bài soạn “Tập làm thơ tám chữ” số 6
Phần I
NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Trả lời câu hỏi (trang 149 SGK Ngữ văn 9, tập 1):
a. Có 8 chữ trong mỗi dòng thơ
b.
– Đoạn thơ của Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp: tan – ngàn, mới – gội, bừng – rừng, gắt – mật.
– Đoạn thơ của Bằng Việt gieo vần chân, liên tiếp: về – nghe, học – nhọc, bà – xa.
– Đoạn thơ của Tố Hữu gieo vần chân, gián cách (cách một câu mới có vần với nhau): ngát – hát, non – son, đứng – dựng, tiên – nhiên.
c. Cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ linh hoạt: 2/3/3, 3/2/3, 2/2/4, 3/5,….
Phần II
LUYỆN TẬP NHẬN DIỆN THỂ THƠ TÁM CHỮ
Trả lời câu 1 (trang 150 SGK Ngữ văn 9, tập 1):
(1): ca hát
(2): ngày qua
(3): bát ngát
(4): muôn hoa
Trả lời câu 2 (trang 150 SGK Ngữ văn 9, tập 1):
(1): cũng mất
(2): tuần hoàn
(3): đất trời
Trả lời câu 3 (trang 151 SGK Ngữ văn 9, tập 1):
– Câu thơ thứ ba bị chép sai ở từ rộn rã. Âm tiết cuối của câu thơ này phải mang thanh bằng và hiệp vần với chữ gương ở cuối câu thơ trên (đoạn thơ gieo vần chân liên tiếp).
– Đoạn thơ được chép đúng là:
Giờ nao nức của một thời trẻ dại !
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương !
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường ,
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Trả lời câu 4 (trang 151 SGK Ngữ văn 9, tập 1):
– Tự sáng tác thơ
Phần III
THỰC HÀNH LÀM THƠ TÁM CHỮ
Câu 1:
(1): vườn
(2): qua
Câu 2:
Bước chân nhẹ nâng tà áo trắng sương
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên phongnguyet.info.










Nhớ quê
Xa quê nỗi nhớ thiết tha
Vườn cây ao cá nếp nhà thân yêu
Bờ tre ruộng lúa sáo diều
Sương giăng mờ ảo lam chiều khói bay
Quê hương thương nhớ lắt lay
Nơi thời thơ ấu bao ngày nuôi ta
Quê hương nơi chốn sinh ra
Nhà tranh vách lá tiếng gà gáy trưa
Kẽo cọt tiếng võng đong đưa
Trời xanh mây trắng rặng dừa lao xao
Trưa hè hóng mát cầu ao
Đọng trong tâm khảm ngọt ngào mẹ ru
Triền đê tiếng sáo vi vu
Đồng quê xanh thắm lúa thu trổ cờ
Nơi ta nuôi dưỡng ước mơ
Nơi ta chập chững ngẩn ngơ trước đời
Ta vì cuộc sống xa rời
Nhà tranh mái lá cuộc đời bôn ba
Buồn vui đều nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Giờ đây cuộc sống vô thường
Quê hương hai tiếng yêu thương đong đầy
Ta dù có khắp đó đây
Không gì có thể lấp đầy NHỚ QUÊ.
Về quê
Miên man gió thổi đường quê
Mây vờn rong ruổi bờ tre rì rào
Ong bay bướm lượn cầu ao
Đò ngang mái đẩy khát khao đợi chờ
Sông xưa kỷ niệm vào thơ
Lời ru của mẹ trong mơ vọng về
Nhớ xưa đón mẹ đầu đê
Cổng làng nghiêng bóng trưa hè ve ran
Xóm dài ngõ rải nắng vàng
Xa quê về lại nồng nàn hương say
Mà sao mắt xè hơi cay
Đồng làng vắng bóng mẹ nay xa rồi
Võng xưa kẽo kẹt mẹ ngồi
Áo nâu lưng thấm mồ hôi đồng về
Lớn lên con đã xa quê
Câu kiều mẹ lẩy nay về còn đâu
Bốn mươi năm ấy dãi dầu
Con về vắng mẹ, thu sầu thiên thu.
Trăng quê
Lâu lắm rồi tôi được ngắm trăng quê
Trăng đẹp lắm làm mê người xa xứ
Quê hương tôi đang đắm say giấc ngủ
Bước lặng thầm đường cũ ánh trăng ru
Xa quê hương bao mùa ánh trăng thu
Xa tuổi thơ, xa lời ru của mẹ
Đêm nay đây trăng sáng trong êm nhẹ
Kỷ niệm nào khe khẽ thức trong tim?
Đây đống rơm, khóm chuối ta trốn tìm
Kia cầu ao nơi ta ngồi hóng mát
Lũy tre xanh rì rào ngân tiếng hát
Gió thu về thơm ngát lúa quê hương
Quê hương ơi! Sao quá đỗi thân thương
Đượm lòng tôi bao vấn vương nỗi nhớ
Ánh trăng quê vẫn nồng nàn hơi thở
Khi xa rồi lòng nức nở nhớ quê
Ánh trăng vàng vẫn lấp lánh đê mê
Bao ký ức cứ tràn trề tuôn chảy
Dẫu xa cách trái tim hồng luôn cháy
Nghĩa xóm làng tình ấy đẹp như trăng.
Tỉnh giấc
Tỉnh rồi vẫn tưởng còn say
Nghe hồi âm thuở vơi đầy nắng mưa
Dùng dằng bóng lá đung đưa
Ngọn đèn không tỏ không mờ vì đâu?
Thơm gì như thể hoa cau
Bao nhiêu năm để qua cầu gió bay
Ngoài song mấy chấm sao gầy
Nỗi niềm ai nén nên dày bóng đêm
Bởi yêu cứ gọi thầm em
Bởi vui cứ rót tràn thêm chén đầy
Bởi buồn nên gió mới lay
Bởi bâng khuâng, bướm mới bay ngỡ ngàng
Sông nào chẳng có đò ngang
Để tôi tỉnh giấc, ngỡ đang gọi đò…
Hành quân qua quê hương
Quê ơi !
Sao vừa lạ vừa quen
Khi tôi trở lại
Đò sông La chở cả trời đêm
Mười chín năm bộ đội
Chân vẫn còn săn, dặm đường xa không mỏi
Có phải quê hương Xô Viết nâng niu
Hay câu dặm mẹ ru trên võng đói nghèo
Củ sắn cha đưa, bàn tay rớm máu
Hay tên núi tên sông cùng tôi đi chiến đấu
Với Phan Đình Phùng, Trần Phú, Nguyễn Đô Lương
Dẫu vui buồn nho nhỏ quê hương
Vẫn rung động tim tôi như thuở trai làng
Mũ lá, áo nâu mác dài tự vệ
Tôi chẳng bó hẹp tâm hồn nơi quê mẹ
Sao qua đây vẫn bịn rịn bờ đê
Một cánh buồm lên
Một chuyến goòng về
Một trạm gác phòng không đã nặng tình kháng chiến
Quê hậu phương giờ đây thành hỏa tuyến
Mỗi con người một trận địa sắt gang
Bom đạn nào gieo được tàn hoang
Đất dày lắm và căm thù nóng bỏng
Khi con trâu đứng làm bệ bắn
Khi mẹ già kéo pháo bặm môi,
Cành ngụy trang ứ nhựa đẫm mồ hôi
Tay em nhỏ góp màu xanh công sự
Con gái con trai như những vì sao không ngủ
Cấy đêm, tải đạn, vá đường
Câu ví đưa duyên mát lịm đêm sương
Và tôi hiểu – quê mình chung thủy lắm
Tên đất, tên người, ôi sao đằm thắm
Khi gọi lên, môi bỗng ngọt ngào
Tưởng đêm đông có nắng dậy xôn xao…
Có phải giờ đây, tôi mới hiểu vì sao
Người vợ áo nâu vai hằn quai súng
Từ giã tôi đi vụng về lúng túng
Mà nhớ thương trọn vẹn tháng năm dài
Có phải giờ đây tôi yêu quá quê tôi
Bởi đã yêu rồi, nhiều quê hương quen biết
Bởi đã yêu rồi chặng đường tôi bước tiếp
Tới những quê xa mà cũng rất gần
Có tiếng hát nào giục giã những bàn chân…
Qua vườn cũ
Mảnh vườn ngày trước
Ngõ vào còn đây
Bao năm không ở
Cỏ dày lấn cây.
Nền nhà in dấu
Giếng, sân chỗ này
Hoa mua tím dậu
Tuổi thơ dăng đầy…
Cây khế chỗ nào?
Ta trèo hái quả
Thời gian nhanh quá
Nhớ thầy mẹ ta…
Quê hương tôi
Một vùng đất đồng chua nước mặn
Bão chưa tan nắng cháy đã đến rồi
Trời nóng rát cộng gió Lào lại thổi
Có nơi nào như Đông Mỹ quê tôi?
Cũng lâu rồi một thời quá khứ
Cha ông mình sống lam lũ quanh năm
Chỉ có ruộng trâu là đầu cơ nghiệp
Để nuôi con khôn lớn học hành
Quên sao được những chiếc cầu tre nhỏ
Vắt vẻo nằm trên con sông to
Đi trên đó những đôi vai gầy nhỏ
Chầm chậm qua sông những gánh lúa to
Tuy vất vả nhưng tình người thắm đượm
Dân quê tôi sống đùm bọc lẫn nhau
Đoàn kết một lòng tin theo lời Đảng
Trưa tối râm ran bát nước chè xanh
Nhờ khoa học soi rọi vào cuộc sống
Dân quê mình giờ đã bớt gian nan
Thay cầu khỉ bằng xi măng cốt thép
Đường liên thôn bê tông hóa thênh thang
Và hôm nay trên cánh đồng bát ngát
Tiếng máy cày máy gặt rộn vang
Nét hớn hở hiện trên từng khuôn mặt
Của người dân sau mỗi vụ thóc vàng.
Quê hương và nỗi nhớ
Ai sinh ra cũng một thời trẻ nhỏ
Nhiều kỷ niệm vui gắn bó tuổi thơ
Khi lớn lên phải sống xa xứ sở
Nỗi nhớ nhung day dứt tự bao giờ
Quê hương tôi có cánh đồng bát ngát
Cho đàn cò thẳng cánh bay qua
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Những trưa hè tắm mát hồn ta
Quê hương là đêm trăng dịu mát
Của tuổi thơ chơi bắt trốn tìm
Quê hương là những chiều em hát
Trên lưng bò rợp màu tím hoa sim
Quê hương là tiếng cười ríu rít
Chuyện râm ran sau giờ học tan trường
Quê hương là tiếng chích chòe hót
Nghe ngân vang trên lũy tre làng
Quê hương là hoa đồng cỏ nội
Giữa trưa hè ngân tiếng mẹ ầu ơi
Là tiếng sáo vi vu chiều gió lộng
Là tiếng trẻ trâu hối hả gọi nghé về…
Xa kỷ niệm quen thì ai cũng nhớ
Và quê hương là nỗi nhớ muôn đời
Quê hương rứa(1) ai mà không nhớ
Xa quê rồi nhớ da diết quê ơi!
Miền quê
Tác giả: Đức Trung – TĐL
Tôi thầm nhớ một miền quê
Ước mơ thăm lại trở về tuổi thơ
Đồng xanh bay lả cánh cò
Hương sen tỏa ngát mộng mơ những chiều
Vi vu gió thổi sáo diều
Bóng ai như bóng mẹ yêu đang chờ?
Dòng sông, bến nước, con đò
Có người lữ khách bên bờ dừng chân
Xa xa vẳng tiếng chuông ngân
Bờ tre cuối xóm trong ngần tiếng chim
Tuổi thơ thích chạy trốn tìm
Cây đa giếng nước còn in trăng thề
Xa rồi nhớ mãi miền quê
Trong tim luôn nhắc trở về ngày xưa…
Yêu lắm quê hương
Tác giả: Hoàng Thanh Tâm
Em yêu từng sợi nắng cong
Bức tranh thủy mặc dòng sông con đò
Em yêu chao liệng cánh cò
Cánh đồng mùa gặt lượn lờ vàng ươm
Em yêu khói bếp vương vương
Xám màu mái lá mấy tầng mây cao
Em yêu mơ ước đủ màu
Cầu vồng ẩn hiện mưa rào vừa qua
Em yêu câu hát ơi à
Mồ hôi cha mẹ mặn mà sớm trưa
Em yêu cánh võng đong đưa
Cánh diều no gió chiều chưa muốn về
Đàn trâu thong thả đường đê
Chon von lá hát vọng về cỏ lau
Trăng lên lốm đốm hạt sao
Gió sông rười rượi hoa màu thiên nhiên
Em đi cuối đất cùng miền
Yêu quê yêu đất gắn liền bước chân.
Bài thơ Việt Nam quê hương ta
(Nguyễn Đình Thi)
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung
Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xemTay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những chuyến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bũa cơm rau muống quả cà giòn tan …
Tràng giang
(Huy Cận)
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tình quê
Tôi về tìm lại tuổi thơ
Tìm trong câu hát ầu ơ ví dầu
Tìm về đồng ruộng nương dâu
Dòng sông bến nước cây cầu gốc đa
Tôi về tìm lại hôm qua
Hồn nhiên thơ mộng nô đùa rong chơi
Tuổi thơ ngày ấy đâu rồi
Bao nhiêu ký ức dần trôi ùa về
Chẳng nơi nào đẹp bằng quê
Nhà tranh vách lá tạm che nghèo nàn
Nhưng mà tình nghĩa chứa chan
Chở che đùm bọc cơ hàn sớt chia
Phồn hoa đô thị ngoài kia
Ồn ào náo nhiệt xa lìa tình thân
Bôn ba xuôi ngược bụi trần
Nửa đời nặng gánh vai uằn áo cơm
Về quê lòng thấy vui hơn
Tình thân bè bạn thuở còn đôi mươi
Tôi về tìm lại nụ cười
Bấy lâu lạc lõng chợ đời bon chen
Tôi về tìm bóng thân quen
Bạn trường một thuở sách đèn ngày thơ
Bạn bè một thuở dại khờ
Về ôn kỷ niệm trong mơ ngày nào
Nhớ quê lòng dạ xuyến xao
Về nghe câu hát ngọt ngào đưa nôi
Quê hương khế ngọt ven đồi
Quê hương in dáng mẹ tôi đợi chờ.
Quê hương
Quê hương tôi là những buổi trưa hè
Theo chúng bạn đi bắt ve về nghịch
Vị của bàng…chua chua…mà vẫn thích
Ánh mắt người khúc khích gọi mùa sang
Quê hương tôi là bông lúa chín vàng
Hàng dừa đứng mơ màng trong nắng sớm
Vườn trái cây sai trĩu cành mơn mởn
Có dáng cha đang đứng đợi con về
Từng đàn trâu thong thả chốn đường quê
Tiếng sáo trúc vỗ về trưa nắng hạ
Là dáng mẹ hòa trong từng gốc rạ
Giọt sương đêm trên cành lá gọi mời
Con sẽ về bên mẹ…mẹ hiền ơi
Để được khóc bên những lời an ủi
Được xuýt xoa củ khoai lang nướng củi
Được hòa mình trong khúc hát sông quê
Quê hương ơi…ta nhất định trở về !!!


