Top 12 Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh lớp 9 hay nhất

Top 12 Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh lớp 9 hay nhất

Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh ra đời gần cuối năm 1977, khi đất nước mới thống nhất hòa bình in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc bởi lời thơ trong sáng, dung dị, hình ảnh sinh động, nhiều cảm xúc. Bài thơ là những cảm nhận tinh tế cùng sự quan sát tỉ mỉ về biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu, từ đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Đặc biệt, khổ thơ đầu là nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra bước chân mùa thu về ngập ngừng trong không gian vườn ngõ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích khổ thơ đầu bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh để cảm nhận vẻ đẹp của sự chuyển mùa kì diệu này.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 1

Bốn mùa trong thiên nhiên đều mang trong nó những nét đẹp quyến rũ rất riêng những có lẽ mùa thu dễ đem lại trong lòng nhiều dư vị, cảm xúc nhất và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ chắp bút, cất lên tiếng lòng trước sự kỳ diệu đầy quyến rũ của thiên nhiên. Cái lạnh đầu mùa, những chuyển động tinh tế của thiên nhiên qua từng ngọn cây, kẽ lá đã đi vào những trang thơ với tất cả những gì tinh tế nhất, Và vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Hữu Thỉnh bắt gặp, viết nên những vần thơ thu bâng khuâng, xao xuyến lòng người. Và nó được thể hiện rõ nhất qua khổ đầu của bài thơ “Sang thu”.

Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, ông sinh ra ở mảnh đất Vĩnh Phúc. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông mang nhiều dấu ấn đậm nét. Đó là thành quả một đời tích lũy của tư duy nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả. Dọc con đường thơ, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm không ngừng, đổi mới sáng tạo từ truyền thống sang hiện đại. Và “Sang thu” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất tinh thần ấy của ông. Năm 1977, “Sang thu” ra đời, nằm trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” (1991). “Sang thu” là một bức thông điệp lúc giao mùa. Mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ.

Trong thơ ca, nhiều nhà thơ đã dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả mùa thu đang gần kề. Với Xuân Diệu đó sắc “mơ phai” của lá dệt trên muôn cây:

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với sắc mơ phai dệt lá vàng

(Đây mùa thu tới)

Và với Hữu Thỉnh là vị “hương ổi” của vườn quê phả vào trong làn gió đặc trưng của mùa thu. Cái hương vị nồng nàn ấy luôn khiến con tim ta xao xuyến:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Hữu Thỉnh thể hiện sự tài tình khi sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Chữ “bỗng” bật ra trong sự bất ngờ đầy thú vị. Thu đã về với đất trời, với lòng người mà không hề báo trước. Với hai câu thơ với hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu trưng, Hữu Thỉnh đã đưa đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc mùi vị của thiên nhiên. Đó là mùi thơm của hương ổi, cái lạnh nhè nhẹ chạm vào da thịt của gió se. Tại sao không phải là những hương vị khác như ngô đồng trong thơ Bích Khê, mùi hương cốm mới trong thơ Nguyễn Đình Thi. Với Hữu Thỉnh, mùa thu đến với ông qua mùi thơm của hương ổi, thứ hương thơm dân dã, bình dị của đồng quê. Nó không rõ ràng như hương ngô đồng,hay nồng nàn như mùi cốm mới mà nó là thứ hương thoảng qua. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, gợi những gì làng quê nhất. Gió se là làn gió nhè nhẹ lướt quá, mang theo một hơi lạnh. Huy động khứu giác để cảm nhận mùi thơm của hương ổi, xúc giác để cảm nhận cái lạnh của gió se, mùa thu như lan tỏa khắp không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm. Có lẽ rằng, phải yêu thiên nhiên, gắn bó với mảnh đất nơi miền quê lắm thì Hữu Thỉnh mới viết được những vần thơ nhưng vậy?

“Phả” vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột, nó diễn tả cái tốc độ của gió, vừa diễn tả sự bất chợt trong cảm nhận. Một cái gì đó thật nhẹ nhàng, êm ái. Nó gợi hình dung về hương ổi chín, về sự vận động của gió đưa hương. Hương ổi thơm như hòa quyện lại, luồn vào trong gió se. Một câu thơ ngắn mà chứa cả gió cả hương Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Những đặc trưng thu ấy chỉ tìm được ở những vùng quê miền Bắc, bởi vậy chỉ qua hai câu thơ, ta đã thấy tình cảm gắn bó với quê hương của nhà thơ. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là hương ổi, là gió se mà còn là hình ảnh những màn sương sớm:

Sương chùng chình qua ngõ

Sương được miêu tả như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà giờ đây nhà thơ còn huy động cả thị giác để toàn tâm, toàn ý cảm nhận mùa thu về. Nghệ thuật nhân hóa cùng với việc sử dụng từ láy khiến mùa thu như có ý chậm lại, ghé thăm vào từng con phố, ngõ xóm nhỏ không muốn đi. Tất cả tạo nên một bức tranh thu nơi thôn quê yên ả, thanh bình. Nhà thơ đã đón nhận thu về bằng cả tấm lòng và tâm hồn mình. Những tín hiệu gây ấn tượng mới lạ bởi sự mong manh, mơ hồ, không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt để thốt lên rằng:

Hình như thu đã về

Hai chữ “hình như” gợi ra một cảm giác đầy mơ hồ, mong manh giống như một sự tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Mùa thu giờ đây như xâm chiếm cả không gian, thời gian. Bằng cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một nhà thơ, chỉ với một khổ thơ với hai mươi tiếng đã để lại cho người đọc biết bao rung động về khoảnh khắc giao mùa của đất trời thật ngỡ ngàng, gợi cảm nhưng cũng thật ấm áp.

Thu trong thơ Hữu Thỉnh sâu lắng và nhẹ nhàng, nó vương vấn, thoảng qua mãi trong tâm hồn người đọc về một tiết thu ở đồng quê Bắc Bộ Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Với việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế cùng với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, “Sang thu” đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, những rung động mang mác, bâng khuâng trong thơ Hữu Thỉnh khi khắc họa thành công khoảnh khắc giao mùa của đất trời và những rung động của lòng người. Hơn cả cái khoảnh khắc giao mùa rung động lòng người ấy, là cả một tiếng lòng của một con người thiết tha yêu quê hương, luôn hướng về những gì thân thuộc, gần gũi nhất, một tiếng thu nồng nàn thiết tha.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 2

Mùa thu mang đến cho tâm hồn con người những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất. Mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất khơi gợi nhiều những suy nghĩ tâm tư rung động của mỗi nhà văn nhà thơ. Nếu như mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời thì mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người đặc biệt biệt qua khổ thơ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu.

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta. Khổ trện mở đầu cho bài thơ Sang thu là những cảm xúc khơi nguồn cảm hứng sáng tác của tác giả. Nếu như Xuân Diệu bắt đầu mùa thu với tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê dược “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu.”

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .”Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê.“Hương ổi” được hữu hình trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm dà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Tác giả sử dụng thành công từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt.

Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.

Đoạn thơ mở đầu diễn biến mạch theo mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả vào lúc sang thu.Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Cách sử dụng thể thơ ngũ ngôn thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.

Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 3

Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng người những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ đầu bài thơ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”.

Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa của thiên nhiên. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn mở đầu, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi. Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu,… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm.

Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế!

Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! “Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy.

Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Câu thơ: “Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se” còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy. Không chỉ có “hương ổi’ trong “gió se” mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ chùng chình gợi lên nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng bắc và giậu rào, vào hàng cây khô trước ngõ đầu thôn, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng của thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”?.

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương ổi thơm chín, vàng ươm đến cái duyên dáng, yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.

Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 4

“Sang thu” là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”.

Từ “bỗng” đã thể hiện được sự ngạc nhiên, bất ngờ của tác giả. Chữ “bỗng” được tác giả đặt ở đầu bài thơ như để đánh động mọi giác quan, mọi cảm nhận của độc giả để nhận ra sự chuyển mình của trời đất. Và vào khoảnh khắc ấy hương ổi vừa ngọt ngào vừa nồng nàn đã đánh thức giác quan của thi nhân. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào thì mùi hương của nó mới đủ “phả vào trong gió se”.

Mùi hương ấy đã lan tỏa trong cái rét nhè nhẹ của đất trời, tạo nên một hương ổi ngọt ngào, thanh mát. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Sang thu của Hữu ThỉnhTiếp nối những tín hiệu của mùa thu là hình ảnh: “sương chùng chình qua ngõ”. Sương trong câu thơ của Hữu Thỉnh được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động chậm rãi. Từ láy “chùng chình” khiến người đọc liên tưởng đến sự thong thả, yên bình trong cái tĩnh lặng của thiên nhiên. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.

Như vậy, thu đến đã được cảm nhận bằng cả khứu giác và thị giác. Câu hỏi có vẻ dè dặt: “Hình như thu đã về” nhưng thật ra là một lời thông báo rất nhẹ nhàng rằng thu đã đến với tất cả chúng ta. Câu thơ không phải là một lời khẳng định hay một tiếng reo vui mà nó mang chút gì đó thâm trầm, kín đáo của người dân thôn quê.

Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc.

Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 5

Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. “Sang thu” là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên sang thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”.

Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo “hương ổi” nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa (“bỗng”, “hình như”).

Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế. “Hương ổi” lan vào không gian phả vào gió se, động từ “phả” là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng. “Sương đầu thu” giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ “chùng chình”. “Dòng sông” trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.

Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ “vẫn còn bao nhiêu”, “vơi dần”, “cũng bớt”. Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.

Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nữa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.

Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.

Sang thu là một bài thơ đặc sắc viết về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ vừa thể hiện tài năng sự cảm nhận tinh tế của tình yêu đồng thời thể hiện tình cảm của nhà thơ với thiên nhiên mùa thu. Đọc bài thơ chúng ta càng yêu hơn mùa thu thiết tha nồng hậu của quê nhà.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 6

Mùa thu một trong bốn mùa trong năm, đã đi vào rất nhiều tác phẩm thi ca nổi tiếng. Được các thi nhân ưu ái đặt cho biệt danh nàng thu. Trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh. Bằng cái nhìn mộc mạc chân thực của mình Hữu Thỉnh đã tạo nên một Sang thu đầy bất ngờ và quyến rũ. Trong đó có khổ thơ đầu tiên:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Mùa thu được biết đến là một trong những mùa đẹp nhất trong năm. Nó không có cái nắng oi ả của mùa hẹ, cái ẩm ướt của mùa đông hay đỏng đảnh của mùa xuân, mùa thu bình dị và thân quen đến lạ. Có rất nhiều thi nhân đã tìm đến mùa thu như một điểm gặp mặt tuy nhiên hay nhất và gần gũi nhất thì không thể không nhắc đến Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh.

Từ “Bỗng” mở ra ở đầu bài thơ như một cái giật mình đầy bất ngờ. Sở dĩ tác giả đặt từ bỗng ngay đầu bài là có dụng ý nghệ thuật khác. Trong cái chuyển mình của trời đất mọi giác quan đều phải nghiêng mình đánh động. Đó là mùi hương ổi nhẹ nhàng và tinh tế. Mùa thu đến không phải đến từ không gian mà bắt đầu từ khứu giác. Không biết hương ổi đã ủ chín từ bao giờ lặng lẽ tỏa hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này nó đã vươn mình đánh thức sự chuyển mình của không gian và giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy mạnh đến nỗi nó trở nên ngào ngạt phả vào gió se. Thứ hương thơm đó quyến rũ, nồng nàn đến nhường nào mới đủ sức lan tỏa trong một khoảng không gian rộng lớn đến vậy.

Gió se ở đây là gió se lạng heo may mỗi dịp đầu thu đến nó khiến gai gai nơi cánh tay. Nếu như nhà thơ Xuân Diệu đã từng có những câu từ mạnh mẽ để miêu tả luồng gió se “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Thì gió thu trong thơ Hữu Thỉnh lại rất đỗi êm ái dịu dàng. Để miêu tả về những làn sương thu nhà thơ cũng dùng những câu chữ vô cùng tinh tế:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Từ láy “chùng chình” mang nét gợi hình đầy cảm xúc. Chùng chình ở đây nghĩa là chậm chạp, nhà thơ đã khéo léo nhân hóa hình ảnh sương như những đứa trẻ tinh nghịch náu mình trong ngõ, chùng chình chẳng muốn lộ diện.

Bằng ấy thứ cảm nhận đã mang nhà thơ đến với một nhận định mơ hồ “hình như thu đã về”. Từ hình như là một câu khẳng định mơ hồ không dám chắc. Nhà thơ cũng cảm thấy giật mình trước sự thay đổi ngỡ ngàng của thời gian và không gian. Giữa cái khoảnh khắc giao hòa chuyển mình vĩ đại ấy thi nhân vẫn còn đang lâng lâng huyền ảo.

Có thể nói khổ thơ đầu tiên của bài Sang thu là một cảm nhận vô cùng tinh tế của nhà thơ về sự chuyển biến của đất trời. Khổ thơ đã tạo nên một điểm nhấn một nét chấm phá độc đáo trong những vần thơ diễn tả về thu tinh tế và đẹp nhất.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 7

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khác giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm.

“Sang thu” là một áng thơ xinh xắn dâng tặng Nàng Thu của một thi nhân – một thi nhân yêu quý mùa thu như bao thi nhân khác – Hữu Thỉnh. Bài thơ có khổ thơ mở đầu thật hay:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”.

Những câu thơ mở đầu bài thơ giản dị đến bất ngờ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”.

“Bỗng” là bỗng nhiên, là bất ngờ, bất chợt. Đặt chữ “bỗng” ở đầu khổ thơ, đầu bài thơ để tất cả giác quan của ta được đánh động, phải giật mình mà chú ý đón nhận mọi biến đổi của đất trời. Biến đổi đầu tiên thu hút sự chú ý của nhà thơ là mùi hương nồng nàn của trái ổi chín thơm lừng. Ổi đã bắt đầu ủ mình để chín tự bao giờ và cũng lặng lẽ toả hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này hương ổi mới đủ nồng nàn đánh thức giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy rất mạnh, rất nồng nàn, ngào ngạt có vậy mới “phả vào trong gió se”. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan toả như vậy trong không gian.

Thứ hương thơm ấy lại lan toả trong làn gió se nhè nhẹ ren rét. “Gió se” là gió heo may, chúng đến với nhân gian vào mỗi dịp đầu thu làm tẽ tê, gai gai những cánh tay trần mềm mại. Trước Cách mạng, Xuân Diệu đã từng mang gió se đến cho người đọc với những thoáng rùng mình ớn lạnh: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Nhưng câu thơ của Hữu Thình lại dắt mùa thu đến bên ta êm ái, dịu dàng biết bao. Viết về những làn sương mùa thu, nhà thợ cũng có cách viết thật duyên dáng: “Sương chùng chình qua ngõ”. “Chùng chình” là cố ý làm chậm lại. Thủ pháp nhân hoá đã biến sương thành những cô bé, cậu bé nghịch ngợm đung đưa náu mình trong ngõ xóm, chùng chình chẳng muốn tan đi.

Làng quê yêu mến dìu bước chân thi nhân đi từ hương ổi đến gió se… Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm: “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra “thu đã về”.

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 8

Là người con của quê hương Vĩnh Phúc, Hữu Thỉnh đã ghi tạc vào lòng người những vần thơ thiết tha, rung động tâm hồn bao người với đề tài mùa thu quen thuộc. Tuy nhiên, giữa ông và các nhà thơ khác vẫn có những nét riêng biệt. Đó là cách cảm nhận đầy tinh tế về sự chuyển mình của đất trời khi bước sang thu qua bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977. Dòng cảm xúc đầu tiên được tái hiện sắc nét qua khổ thơ thứ nhất:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.”

Đây có thể được coi là khổ thơ hay và để lại dấu ấn sâu đậm cho mỗi ai khi đọc “Sang thu”. Đất trời chuyển mình, mỗi năm có bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng đã từng một lần được đặt chân đến mảnh đất của thơ ca Việt Nam. Ấy vậy mà thi nhân vẫn luôn dành sự ưu ái cho mùa thu dịu nhẹ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã từng khẳng định tên tuổi của mình với ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu” và “Thu ẩm”. Hay ông hoàng thơ tình – Xuân Diệu cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình qua “Đây mùa thu tới” và còn cả Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu”. Mỗi sáng tác lại là một cảm nhận, một cách nhìn riêng biệt. Với Hữu Thỉnh mùa thu của ông được hé mở cùng những nét vẽ đậm sắc màu của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Hương ổi có lẽ đã quá thân quen với những người con của làng quê Việt Nam. Thân quen là thế nhưng rồi vô tình người ta lại vô tình lãng quên nó để rồi trong khoảnh khắc giao mùa mới bất giác nhận ra. “Bỗng” rồi “phả”, hai động từ được đặt trực tiếp ở đầu câu như một sự kết hợp hoàn hảo, cùng nhau viết lên tâm trạng của nhà thơ. Phải chăng đó là sự ngỡ ngàng, bối rối khi bất chợt nhận ra tín hiệu của mùa thu? Động từ “phả” dường như đang tập trung làm bật lên hương thơm nồng nàn từ vườn ổi chín lan tỏa rộng khắp, hòa cùng gió se – gió hơi lạnh và khô, chạm tới khứu giác của nhà thơ. Ông như đang mở rộng lòng mình để kịp đón nhận và tận hưởng hết sự bắt đầu nhẹ nhàng của một mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. Không chỉ có hương ổi hay gió thu mà trong dòng cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên còn là sương thu:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Câu thơ như khoác trên mình một diện mạo mới qua nghệ thuật nhân hóa “chùng chình”. Đọc đến đây ta mới cảm nhận hết được cái đẹp của tiết trời chớm thu. Sương vẫn chuyển động chậm rãi, từ từ như cô gái còn rụt rè, e ngại điều gì đó. Đường làng được bao quanh bởi một màn sương mờ ảo, cảnh vật yên tĩnh không thấy ở đâu bất kì một “vết nứt” nào. Từ đó gợi mở về một làng quê trong cuộc sống bình yên, tĩnh lặng, cảnh vật thì lung linh, huyền ảo và cũng thật dân dã.

Có hương ổi, có gió se, có sương thế nhưng tất cả đang trong sự vận động vô cùng chậm rãi. Mọi thứ cứ mơ hồ như vậy khiến lòng người cũng dấy lên một chút gì đó mơ hồ, lưỡng lự:

“Hình như thu đã về”

Dường như câu thơ lại là một câu hỏi tác giả tự đặt ra để chất vấn lòng mình: thu đã về hay chưa? Thu về từ bao giờ, từ đâu? Ông đang rơi vào lòng hoài nghi. Đó chính là một chút bối rối đậm chất thi sĩ khi cảm nhận thời khắc đất trời chuyển mình sang thu.

Khác với Hữu Thỉnh, Xuân Diệu lại có cái nhìn rất mạnh mẽ trước sự khởi đầu của mùa thu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Tuy không mạnh mẽ như Xuân Diệu nhưng cái do dự, ngập ngừng của Hữu Thỉnh lại rất hay bởi cảm nhận của ông là cảm nhận thâm trầm và kín đáo vô cùng. Từ cảm nhận tinh tế ấy, phải chăng hương ổi, gió se, sương thu đã trở thành cái riêng biệt của mùa thu? Tuy đã cảm được nhưng vẫn không hề chắc chắn và có lẽ thu đang đến rồi nhưng chưa hoàn toàn rõ nét.

Khổ thơ với kết cấu ngắn gọn chỉ với hai mươi chữ nhưng đã để lại sâu đậm trong lòng bạn đọc biết bao rung cảm về một hồn quê nơi đồng bằng Bắc Bộ đã làm ấm lòng người. Qua đây còn là một phát hiện về những tín hiệu tiêu biểu và đặc trưng khi mới chớm mùa thu cùng tâm trạng ngỡ ngàng bối rối rất thi sĩ của nhà thơ.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 9

Trong dòng thơ ca cách mạng Việt Nam, Hữu Thỉnh là một tiếng thơ khá độc đáo. Ông sinh ra ở vùng quê Vĩnh Phúc, gia nhập quân đội năm 1963 rồi trở thành một cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội. Sáng tác của ông phần nhiều viết về cuộc sống nông thôn, về mùa thu quê hương. Trong đó, bài thơ Sang thu được ông viết vào năm 1977, in trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”. Bài thơ đã diễn tả thật tinh tế sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu, từ đó, bộc lộ trái tim yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu đậm của tác giả. Khổ đầu bài thơ mở ra một không gian bình dị mà huyền ảo của buổi giao mùa:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về…”

Khổ thơ đầu tiên này nằm trong chỉnh thể bài thơ làm theo thể thơ 5 chữ, gồm ba khổ thơ ngắn gọn, như ba bức tranh chọn lọc về khoảnh khắc sang thu. Trong đó, bức tranh đầu tiên là những xao xuyến rung động tinh khôi nhất của lòng người trước những vẻ đẹp thiên nhiên giao mùa.

“Bỗng nhận ra hương ổi”- Câu thơ như một lời thốt lên đầy cảm xúc và bất ngờ của người nghệ sĩ trước một phát hiện mà ông cảm thấy vô cùng thú vị.Phát hiện đó được cảm nhận bằng khứu giác. Đó là một mùi hương thoảng trong không gian, “hương ổi”! Tuổi thơ của tác giả hẳn gắn liền với mùi hương ngọt ngào này. Khi thu đến cũng là mùa ổi chín, trên khắp những khu vườn ổi của quê hương Vĩnh Phúc, quả bắt đầu chín ngọt ngào, hương bay lan tỏa khiến lòng người rộn ràng hơn. Viết về mùa thu thì có nhiều tác phẩm thơ khác nhau, với những cảm nhận khác nhau, và với Hữu Thỉnh, ông đem vào thơ mình những điều rất thật, rất đẹp của quê hương. Trong nốt nhạc mở đầu của bài ca Sang thu này, từ “bỗng” cũng đóng một vai trò quan trọng. Từ này mở đầu câu thơ, cũng là từ thể hiện sự đột ngột, như reo vui, như chào đón hương ổi thân thương đang trở lại cùng nàng thu… Chỉ với câu thơ ngắn gọn, thi nhân đã đem đến một không gian bâng khuâng thơm ngát và những cảm xúc xao xuyến nao nức đầu tiên.

Bút pháp thơ tài hoa của Hữu Thình trong khổ thơ đầu còn được bộc lộ trong cách dùng từ của ông: “Phả vào trong gió se”. Động từ phảxuất hiện để tả mùi hương ổi chín đang chiếm lấy không gian.Phảcó nghĩa là nồng nàn, là đậm đà khi mùi hương đặc trưng của mùa thu ùa đến. Qua động từ này, người đọc cảm nhận được một cách rõ nét hương ổi.Đặc biệt khi nó quấn quýt với ngọn “gió se”. Đến đây thì phong cảnh thiên nhiên lại được chuyển qua cảm nhận bằng một giác quan khác, là xúc giác: khí trời mát mẻ, ngọn gió heo may đem cái se sắt từ đâu về đây. Thời tiết dịu đi sẽ khiến tâm hồn con người lắng đọng mà thưởng thức hương thu. Và ta như thầm hỏi rằng: hương ổi đem ngọn gió se lạnh về, hay là gió thu giục ổi mau chin thơm trên cành. Hữu Thỉnh đã vừa đặc tả được hương thơm, vừa gợi ra biến chuyển thời tiết, đó là tính đa nghĩa và biểu cảm trong thơ ông, một nhà thơ rất thành công khi viết về những nét đẹp làng quê. Nói đến thu sang, thì dấu hiệu của đất trời còn ở những làn sương nhẹ nhàng:

Sương chùng chình qua ngõ.

Mỗi buổi sáng sớm, hay khi chiều buông, phong cảnh xóm làng đột nhiên trở nên mờ ảo, bời đó là lúc sương mù bao phủ, giăng mắc trên những khu vườn, những hàng rào, cánh đồng hay dòng sông, tạo nên vẻ đẹp huyền diệu tuyệt vời, lay động lòng người với bao suy tư, xúc cảm. Từ láy “chùng chình” ít khi thấy xuất hiện trong thơ để tả cảnh vật. Thì ở đây nhà thơ đã đặt nó vào ngữ cảnh câu thơ tả thu sang, để nhân hóa màn sương kia. Sương như ngập ngừng, chậm rãi, nửa muốn đến, nửa không, giống như những bước chân đầu tiên của nàng thu ngập ngừng, e thẹn. Thử liên hệ trong thơ ca Việt Nam, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu cũng từng được nhiều nhà thơ miêu tả. Trong đó, nhà thơ Xuân Diệu cũng từng viết:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

(Đây mùa thu tới)

Hai nhà thơ gặp nhau trong cảm xúc thu, với áng sương mờ bắt đầu giăng phủ lên cảnh vật, khiến tâm hồn thi sĩ tràn đầy những ưu tư man mác. Bởi mùa thu vốn là mùa của thơ ca, mùa của nhớ nhung và hoài cảm. Và bức tranh thu đẹp từng khoảnh khắc trong những nét bút của người nghệ sĩ yêu thiên nhiên. Thế đấy, với hương ổi, với gió se, với sương mờ… nhà thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế nhất của bức tranh thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa. Và trong niềm xao xuyến, ông lại hạ xuống một câu hỏi tu từ như đoán định:

Hình như thu đã về…

Đã gọi là câu hỏi tu từ thi chẳng cần câu trả lời, bởi bản thân câu hỏi đã là lời khẳng định, là tiếng trả lời.Sự tinh tế của Hữu Thỉnh thể hiện trong cách dùng từ “Hình như”, bởi vì thu chưa hẳn đã đến đâu. Đây chỉ là những dấu hiệu đầu tiên. Mùa hạ vẫn đang hiện diện, nhưng dấu chân mùa thu thì dần rõ nét. Nhấn mạnh cái ý chuyển mùa này, nhà thơ giúp cho người đọc hiểu sâu thêm ý thơ vốn rất đẹp của ông.

Bài thơ Sang thu nói chung và khổ thơ đầu nói riêng đã dùng thể thơ năm chữ với một lối viết rất hàm súc và chọn lọc kỹ đến từng từ ngữ. Hình ảnh thơ vô cùng bình dị nhưng lại mang một vẻ đẹp rung động lòng người. Bức tranh phong cảnh đã được nhà thơ vẽ lên bằng một nghệ thuật ngôn từ điêu luyện, để từ đó, chúng ta thêm yêu mến cảnh sắc quê hương khi mùa thu sắp về.

Khổ thơ đầu của bài thơ Sang thu vốn là một khúc nhạc dạo đầu cho cả một bản tình ca mùa thu. Khúc dạo đầu ấy thật ngắn gọn nhưng thật độc đáo: Hữu Thỉnh đã đi từ sự chuyển biến của đất trời báo hiệu thu sang, mà bộc lộ sự ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trong khoảnh khắc giao mùa. Sự tinh tế trong cảm nhận và sự nồng nàn trong tình yêu thiên nhiên không chỉ bộc lộ trong khổ thơ đầu, mà nó cũng là màu sắc chủ đạo của cả bài Sang thu tuyệt hay này.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 10

Sang thu là bài thơ cảm nhận đầy tinh tế sự chuyển mình của thiên nhiên từ mùa hạ sang mùa thu. Sự nhộn nhịp, sôi động nhường chỗ cho nàng thu nhẹ nhàng, êm ái.

Bài thơ Sang thu chỉ gồm 3 khổ thơ ngắn nhưng Hữu Thỉnh giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tự nhiên trong thời khắc chuyển mùa.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”.

Động từ “bỗng” được sử dụng ngay từ đầu câu cho thấy sự đột ngột, bất ngờ làm cho người ta phải giật mình chú ý mùa thu đang đến rất gần. Lan tỏa trong không khí là mùi ổi chín, ổi chín từ khi nào mà phả mạnh vào trong gió se. “Phả” là động từ mạnh thể hiện hương thơm ngào ngạt , tác giả giúp cho người đọc cảm nhận được nhiều giác quan hơn về sắc thái của ổi như hương thơm, màu vàng, kết hợp với cái se lạnh nhè nhẹ của mùa thu, tất cả khiến lòng người bồi hồi, xao xuyến.

Bắt đầu vào mùa thu nên sương xuất hiện nhiều hơn, nhưng sương của tác giả không phải bình thường khi “chùng chình qua ngõ”, từ chùng chình đã được tác giả nhân hóa thể hiện dáng vẻ của con người đó là sự chậm rãi, khoan thai chứ không hề vội vã.

Từ cảm giác giật mình khi “bỗng” nhận ra thu đang về đến cảm giác “hình như”, tác giả thể hiện sự phán đoán mơ hồ về mùa thu đang về. Nếu như trong khổ đầu tiên chỉ là cảm giác mơ hồ về mùa thu thì trong khổ thơ thứ 2 Hữu Thỉnh đã có sự cảm nhận rõ ràng hơn về sự chuyển biến của đất trời từ hạ sang thu.

Chỉ với một khổ thơ ngắn gọn đã làm cho người đọc có biết bao rung cảm về cảnh vật thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa, đó là những hình ảnh gần gũi, thân quen của vùng quê.

Mùa thu lặng lẽ trôi thật nhẹ nhàng và gần gũi. Hình ảnh bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan càng khiến cho mùa thu của Hữu Thỉnh thật độc đáo và nhiều sắc màu.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 11

Xuân, hạ, thu, đông – bốn mùa trôi qua đã trở thành đề tài quen thuộc cho biết bao tác phẩm văn thơ và cũng là nguồn thi cảm vô tận của nhiều thi nhân. Đặc biệt là mùa thu với những nét buồn man mác, với nắng vàng và hương thơm dịu dàng cùng gió, cùng hoa… Chúng ta đã gặp thu trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, trong Thu của Chế Lan Viên hay Chiều thu của Thái Can,… Nhưng Hữu Thỉnh lại đem đến cho bạn đọc một nét riêng biệt của mùa thu, đó là thời khắc giao hoà của cuối hạ với đầu thu. Bài thơ Sang thu của ông đã gợi lên một cảm xúc bồi hồi, bâng khuâng của những rung động ngọt ngào và tinh tế.

Đọc thơ mà ta thấy quen đến kì lạ. Những hình ảnh không hề cao sang mà vẫn gần gũi. Những cảm xúc hình như ta đã có, đã bắt gặp ở đầu rồi. Y như khi ta đột ngột nhận ra cái gì mà rất lâu mình không nhớ, không để ý tới. Có phải đó là khi thiên nhiên chuyển mình, là khi thời gian nhẹ nhàng bước những bước khẽ khàng, kín đáo :

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Tác giả dùng từ “bỗng” thật khéo, câu thơ không kéo dài mà trở nên đầy thú vị, bất ngờ. Nó như cái giật mình nhẹ, lôi ta ra khỏi những công việc thường ngày. Đọc câu thơ khiến ta nhớ đến một đoạn văn mà nhà văn nào đó đã viết : “Ngày và đêm theo nhau qua đi trên trái đất này” giữa bao mối lo và công việc, giữa bao nỗi buồn và niềm vui “Chúng ta quên đi rất nhiều điều mà lẽ ra không được quên”. Thế thì chính cái giật mình ấy đã kéo ta ra khỏi sự quên lãng bấy lâu nay, để lại hoà mình với thiên nhiên, thấy được từng vẻ đẹp li ti nhất của nó. Mà “chợt” cũng như một phát hiện thật mới mẻ, một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa ! Mùa hạ đã sắp qua, hình như mùa thu đã đến ! – Trái tim nhà thơ sau khoảnh khắc ấy đã tự nhủ thầm như vậy.

Tác giả đã cảm thấy gì đầu tiên ? Giống như tiếng tu hú đã đánh thức nỗi khao khát tự do trong bài thơ của Tố Hữu, thì chính hương thơm của ổi chín đã tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà thơ Hữu Thỉnh :

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se.

Đọc câu thơ mà ta biết mùa hè chưa qua hẳn. Bởi hình ảnh những chùm ổi chín vàng ruộm, trĩu cành dưới cái nắng gay gắt đã trở thành hình ảnh của mùa hạ. Nhưng qua câu thơ, ta biết mùa thu đã về. Mùa thu đặt những bước chân nhẹ nhàng, buông mình về theo những cơn gió se – thứ gió khô và lạnh đặc trưng của khí thu. Và hương ổi cũng hết sức đặc biệt, nó không “thoảng”, không “bay”, không nhẹ dịu như ổi khi vừa chín mà đậm đặc, mà ngào ngạt thơm nồng. Đó là hương thơm của ổi cuối mùa. Hương thơm ngọt ngào ấy mạnh đến mức có thể “phả” vào từng cơn gió, đánh thức khứu giác của cả những người vốn vô cảm với thiên nhiên. Khi Hữu Thỉnh cảm được cái lạ lùng ấy của hương ổi bằng khứu giác và cảm nhận được bằng da thịt (xúc giác) cơn gió thu đủ làm ông vừa bối rối lại vừa vui mừng. Có lẽ, ông còn nghi ngờ, sợ rằng mình nói ra thì cái cảm giác ấy sẽ bay mất, sẽ tan biến mất.

Câu thơ thứ ba như khẳng định mùa thu về rõ ràng hơn: Sương chùng chình qua ngõ. Lần này thu được nhìn bằng mắt qua cái vẻ dùng dằng nửa đi nửa ở của sương thu. Từ “chùng chình” thật đặc biệt. Nó là từ láy của thanh bằng, tạo nên một cảm giác êm ả, dịu dàng. Nhà thơ đã nhân hoá màn sương để nó trở nên có hồn, sống động bởi từ láy chỉ hành động lưỡng lự, lưu luyến trong động thái của con người. Sương như muốn ở lại để ngắm nhìn khoảnh khắc giao mùa. Điểm thú vị là với từ “chùng chình” sương thu trở nên gợi tả vô cùng.

Đọc thơ ta lại nhớ đến đoạn văn Pau-tốp-xki viết trong Một mình với mùa thu về “mơ-ga”. Đó là một làn khói lam nhàn nhạt bao phủ trên mặt sông Ô-ka. Nó “khi thì sẫm màu tụ lại, khi thì bàng bạc tan ra” ; “Khi ấy qua màn sương nhẹ nhàng mỏng như tấm kính mờ mờ, ẩn hiện bóng dáng hàng liễu rủ bên sông, những bãi chăn thả cằn khô và những cánh đồng mơn mởn màu xanh”. Chúng ta như cảm được sương ở giữa hai mùa tụ lại thành từng đám mây trong suốt màu bạc “chùng chình” chắn cả con ngõ nhỏ chứ không tan loãng vào không gian.

Mỗi bước đến của mùa thu thật bất ngờ. Thu đến vội vã mà thật nhẹ nhàng, không ồn ào. Chỉ cần quan sát và cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả sự tinh tế của các giác quan là ai trong chúng ta cũng có thể thấy được. Đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, đó cũng là những phát hiện liên tiếp, nối nhau mà mỗi phát hiện lại đem đến một cảm xúc riêng tư, tinh mới. Sự vội vã ấy được thể hiện qua cách ngắt nhịp tài tình:

Bỗng / nhận ra hương ổi

Phả / vào trong gió se.

Sương / chùng chình qua ngõ

Cái nhịp điệu vội vàng ấy cứ như nhịp điệu của mùa hạ, khi mọi thứ đắm chìm trong cái nắng rực rỡ, khi cây trái vội vàng ra hoa, ra quả. Và đó cũng là nhịp điệu của những cái giật mình liên tiếp. Cái cảm giác bất ngờ còn chưa đi hẳn. Nhưng đến câu cuối cùng, nhịp ngắt 2/3 lại trở nên dàn trải, nhẹ nhàng như khoảnh khắc mùa thu, như một niềm vui mơ hồ mà mãnh liệt, hoặc như một nụ cười kín đáo: Hình như thu đã về.

Không khẳng định, mà chỉ “hình như”. Bởi thu đến nhẹ quá, mơ hồ quá. Tác giả thấy thu, nhưng vẫn còn bâng khuâng lo ngại. Trong lòng tác giả như có một băn khoăn, da diết như một câu hỏi : “Thu đã về rồi đấy” hay là “Không, thu chưa về đâu !”. Trong tâm tư tác giả vẫn còn cái nắng chói của mùa hè nhưng lại có cảm giác phảng phất, như một cánh bướm nhẹ chạm vào tà áo mỏng manh của tiết thu ? Chính niềm vui bối rối, bâng khuâng, lúc khẳng đình, lúc nghi ngờ đã làm nên cái duyên dáng của Sang thu.

Dù chỉ là một khổ thơ đầu, nhưng cái rung cảm tinh tế trong tâm hồn Hữu Thỉnh với thiên nhiên khiến độc giả càng thêm yêu mùa thu, càng thêm yêu bài thơ. Nó làm ta chợt nhớ tới câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Nhờ tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ đã cho ta thấy được những bước đi nhẹ nhàng, duyên dáng của thời gian. Sự chuyển tiếp lúc rất mềm mại, uyển chuyển lúc lại như tinh nghịch, vui đùa. Và một bài thơ đầy cảm xúc, đầy rung cảm ra đời từ chính cảm nhận ấy…

Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” số 12

Thiên nhiên đi vào thi ca đã từ lâu và trong bốn mùa, có lẽ thu được chú ý hơn cả. Phải chăng bởi nó gợi ra nỗi buồn nhẹ nhàng, kín đáo với nhiều dư âm khó gọi thành tên ? Hình như cảnh trong thơ càng trầm buồn lại càng thi vị, tha thiết. Nói đến thu ta vẫn nhắc đến Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Nguyễn Bính – những ngòi bút xuất sắc của thi ca Việt Nam. Ớ đó, thu hiện lên bằng những vẻ đẹp muôn hình, muôn sắc, muôn thanh âm của thiên nhiên. Nhưng với người yêu thơ và yêu mùa thu hẳn sẽ ngạc nhiên, bất ngờ lắm khi thu tới với họ qua Sang thu của Hữu Thỉnh. Mà khổ thơ thứ nhất chính là khúc nhạc dạo đầu cho bản hoà ca tràn đầy cảm xúc này.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn thôi nhưng như thế cũng là quá đủ để phác lên một bức tranh vô hình của thời gian : khúc giao mùa hạ – thu. Bức tranh ấy được vẽ lên bởi giác quan đa dạng của người hoạ sĩ, vẽ thu bằng ngôn từ. Bắt đầu bằng khứu giác và xúc giác với mùi hương ổi “phả vào trong gió se”. Câu thơ có cái ấm nồng nàn của hoa trái mùa hạ, lại có cái lạnh se se của mùa thu. Sự giao hoà kì diệu ấy khơi gợi kí ức tuổi thơ và thức dậy kỉ niệm xa lắc…

Dòng xúc cảm tự nhiên đến, đầy bất ngờ, vì thế ngay ở đầu câu, tác giả đã đặt vào đó từ “bỗng”. Đột ngột, mùi hương “phả” mạnh mẽ, nên lại thấy vị thơm mát, ngọt ngào ? Hai câu thơ như thoáng chút bâng khuâng, xao xuyến. Mạch cảm xúc tiếp tục tràn xuống câu sau với sự đón nhận của thị giác :

Sương chùng chình qua ngõ

Giữa bầu trời quang đãng, trong xanh, tác giả chợt bắt gặp một màn sương mờ ảo. Mỏng manh thôi nhưng cũng là nét gì đó báo hiệu thu sắp về. Sương đi qua, “chùng chình” như cố ý chậm lại. Nó đang đón chờ ai hay đang luyến tiếc điều gì ? Có lẽ đó là sự luyến tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa, khi hạ sắp sửa bước đi, nhường chỗ lại cho thu với những màn sương sớm, với những cơn gió heo may, diu mát. Cái cảm giác mơ hồ, hư hư thực thực ấy đã gợi nên một thời điểm nhạy cảm, rất khó xác định :

Hình như thu đã về.

Hạ vẫn còn đó nhưng trong không gian phải chăng mùa thu đang về ? Trước những tín hiệu của thiên nhiên, của đất trời, làm cho lòng người băn khoăn, rạo rực những tình cảm khó tả. Rõ ràng là thu đấy mà cũng chẳng phải đâu ! Mọi thứ cứ chuyển động không ngừng, có cái gì gấp gáp, mãnh liệt nhưng cũng có cái gì đó chậm rãi, nhẹ nhàng. Khung cảnh hiện lên vừa đậm nét, vừa mơ hồ. Vì thế, thu đến với tác giả trong một sự cảm nhận rụt rè, kín đáo. Một làn gió nhẹ thoảng qua đưa theo cùng thứ hương vị cỏ cây hay một màn sương êm ái, khẽ lướt đi cũng vương vấn lại sợi dây cảm xúc rung lên thứ nhạc điệu kì diệu mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, những trái tim biết rung động trước thiên nhiên mới có.

Khổ thơ mang cái man mác buồn lắng nhưng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá từng nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh không có lá rụng, không phải một màu vàng úa héo của không gian mà được tiếp nhận bằng những bước chuyển mình của trời đất. Rất mới lạ và độc đáo. Đó cũng là cái hay tạo nên sự riêng biệt cho Sang thu mà ngay ở bốn câu đầu ta đã thấy.

Thành công của khổ thơ này bên cạnh việc tả cảnh còn là bởi sự cảm nhận tinh tế về một thứ trừu tường như thời gian. Và hai mươi chữ cô đọng, súc tích đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp – đẹp từ chính những bước đi lặng lẽ, thầm thì của nó hay đẹp ở tâm hồn của thi nhân.

Hi vọng bài viết trên giúp bạn hiểu thêm vẻ đẹp của mùa thu cũng như tài năng của tác giả. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info.

Top 9 Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lớp 9 hay nhất

Top 9 Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lớp 9 hay nhất

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Duy dung dị, hồn nhiên, trong sáng. Ngôn ngữ, hình tượng thơ rất sáng tạo, gợi cảm, mang vẻ đẹp thôn quê. Sau này cảm xúc trữ tình của ông ít nhiều mang màu sắc triết lí, khá thâm trầm, ấn tượng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất thể hiện rõ phong cách thơ của Nguyễn Duy là bài thơ “Ánh trăng”. Từ một câu chuyện riêng, bài thơ nhắc nhở về thái độ tình cảm thủy chung, ân nghĩa đối với quá khứ bình dị, hiền hậu. Tư tưởng đó được trình bày rõ nét trong khổ thơ cuối bài thơ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 1

Trong thi ca xưa, hình ảnh vầng trăng thường gắn liền với những mộng mơ, qua đó thể hiện được sự tinh tế và nhạy cảm trong tâm hồn của người nghệ sĩ. Viết về ánh trăng – mảng đề tài tưởng như quá quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Duy không những không bị chìm khuất trong những cái bóng quá lớn của tác phẩm thành công trước đó mà lại thể hiện được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo rất Nguyễn Duy. Không chỉ thể hiện được những cái mộng mơ thường thấy mà thông qua hình ảnh của ánh trăng nhà thơ đã gửi gắm được những tâm sự, cảm xúc thầm kín, bởi ánh trăng trong thơ ông đã trở thành biểu tượng của những kí ức đã qua, của những kỉ niệm khó quên trong cuộc đời. Tư tưởng, nội dung này được thể hiện chi tiết thông qua khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.

Hình ảnh vầng trăng là hình ảnh xuyên suốt bài thơ, tuy dung lượng bài thơ tương đối ngắn nhưng qua đó người đọc vẫn cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ Nguyễn Duy với chính những kí ức đã qua của mình.

Bằng sự liên tưởng đầy độc đáo, Nguyễn Duy đã nói về những kí ức của một thời gian khổ nhưng đầy hào hùng thông qua hình ảnh ánh trăng, đặc biệt qua khổ thơ cuối thì tác giả đã thể hiện được trọn vẹn những tình cảm, sự day dứt đau đớn vì trong một lúc nào đó đã chót quên đi những tình nghĩa của một thời đã xa:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trong dòng tâm sự của tác giả Nguyễn Duy ta có thể thấy được, vầng trăng ở đây không đơn thuần chỉ là một hiện tượng của tự nhiên mà nó trở thành một sinh thể có sự sống, có cảm xúc, đó là biểu tượng cho những tình nghĩa, cho những dòng chảy của quá khứ.

Vầng trăng đã trở thành một người bạn thân thiết, một người tri kỉ vì nó gắn bó với những kí ức của tuổi thơ, cùng nhà thơ vào chiến trường. Những kí ức, tình nghĩa đó quá sâu lặng mà nhà thơ ngỡ không thể nào quên. Nhưng khi đất nước đã được giải phóng, trở về với cuộc sống mới, chìm đắm vào guồng quay bất tận của cuộc sống mà nhà thơ đã quên đi những kí ức, quên đi người bạn tri kỉ ấy.

Ta có thể thấy, khổ cuối của bài thơ đã dồn nén biết bao nhiêu nỗi niềm, tâm sự. Hình ảnh vầng trăng im phăng phắc thể hiện được sự tình nghĩa, thủy chung của ánh trăng, ánh trăng vẫn trong trẻo vô ngần như thế chỉ có con người là đổi khác. Nhà thơ đã thể hiện được sự tự trách nghiêm khắc với bản thân vì sự vô tình, đổi khác của mình.

Ánh trăng không đổi khác, không cất lời trách móc nhưng vẫn khiến cho thi nhân phải giật mình. Đây không phải sự giật mình trong trạng thái khi chịu một sự tác động từ bên ngoài vào cơ thể một cách bất ngờ mà là sự giật mình trong tâm thức của nhà thơ, chính sự im lặng của vầng trăng đã làm cho bao kỉ niệm kí ức sống dậy mạnh mẽ, và nhận ra rằng mình đã từng lãng quên nên “giật mình” ở đây là sự hốt hoảng, sự tự trách trong chính tâm hồn của nhà thơ.

Cái giật mình của nhà thơ Nguyễn Duy thật đáng trân trọng, đó là cái giật mình của ý thức, của trách nhiệm khiến cho chúng ta cảm động. Tự hỏi trong chúng ta hôm nay có ai dám chắc rằng mình chưa bao giờ lãng quên những điều mà chúng ta cho là trân quý nhất, và khi nhận thức được sự lãng quên ấy thay vì chấp nhận cho qua, tự an ủi rằng “À, thì ra mình đã quên” mà có mấy ai ý thức được sâu sắc sự vô tình của mình được như Nguyễn Duy.

Nếu đọc thơ Nguyễn Duy ta có thể được một hồn thơ chân chất gần gũi mà mộc mạc, lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó ở vùng đất Thanh Hóa, tác giả luôn có những day dứt, băn khoăn về cuộc sống lam lũ, nghèo khổ của con người quê mình, do vậy mà có thể nói Nguyễn Duy rất trân trọng những tình nghĩa, những kí ức gian khó của một thời đã qua.

Khổ thơ cuối của bài thơ không chỉ khép lại bài thơ mà nó còn mang ý nghĩa triết lí sâu sắc: Trong chúng ta ai cũng sẽ có những lúc lãng quên đi những kí ức tốt đẹp của quá khứ. Do vậy, nếu như không nhận ra kịp thời, không có những cái giật mình thức tỉnh thì biết đâu đấy chúng ta cũng sẽ đánh mất chính mình.

Cả bài thơ như thấm đượm hình ảnh ánh trăng trong trẻo, thủy chung. Cũng mượn ánh trăng để nói lên tâm trạng của mình, nhà thơ Lí Bạch cũng từng viết:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương”

Nếu hình ảnh vầng trăng mang đến những ấm áp để sưởi ấp tâm hồn của người lữ khách xa quê thì ánh trăng trong thơ của Nguyễn Duy lại là ánh trăng của kí ức, của tình nghĩa. Ánh trăng ấy không chỉ là một người tri kỉ vẫn luôn dõi theo nhà thơ mà đó còn là ánh trăng thức tỉnh con người tình nghĩa sâu nặng bên trong nhà thơ.

Bài thơ Ánh trăng không chỉ là tâm sự riêng của nhà thơ Nguyễn Duy, mà đây còn là bài thơ giúp cho người đọc tự soi chiếu được chính mình. Cuộc sống của con người luôn chảy trôi vô tình, đừng vì quá đắm mình trong cuộc sống thực tại mà lãng quên đi những kí ức đã qua, đó là những kí ức mà chúng ta đã từng trải qua, nó góp phần làm nên con người của thực tại, vì vậy hãy trân trọng để nó luôn sống động trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 2

Với một giọng thơ đầy tươi trẻ, đầy suy ngẫm mang hương vị ca dao đằm thắm, mượt mà, Nguyễn Du trở thành gương mặt tiêu biểu và quen thuộc của phong trào thơ chống Mĩ. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng như “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Đò lèn”… “Ánh trăng” cũng là thi phẩm được nhiều người nhắc đến. Ra đời năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bài thơ ghi lại chân thực một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp vầng trăng ân tình. Trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mà vô tình quên đi những ân tình, những kỉ niệm của quá khứ. Nhưng vầng trăng vẫn vậy, tình nghĩa, thủy chung một lòng, không có chút thay đổi. Ý vị xót xa của bài thơ được thể hiện rất rõ trong toàn bài thơ, đặc biệt là trong khổ thơ cuối của bài.

Trong bài thơ “Ánh trăng”, hình ảnh vầng trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng cho những kí ức, biểu tượng cho quá khứ và vẻ đẹp đời sống bình dị, vĩnh hằng. Nhắc đến trăng là Nguyễn Duy muốn nhắc đến lối sống ân tình thủy chung. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Nguyễn Duy đã gợi mở ra khoảnh khắc khu phố mất điện, để rồi giật mình nhìn thấy vầng trăng, bao nhiêu kỉ niệm, hình ảnh quá khứ gắn bó với trăng cũng như dòng thác lũ ào ào mà đổ về. Hình ảnh quá khứ càng tươi đẹp bao nhiêu, càng gắn bó bao nhiêu thì nhà thơ càng tự trách mình bấy nhiêu, trách mình sao lỡ vô tình mà quên đi, để bây giờ nhớ lại thì trong lòng lại dâng đầy tư vị của niềm xót xa. Nói về sự thủy chung của ánh trăng, cũng là lời nhắc nhở, kiểm điểm chính mình, khổ thơ cuối chứa những triết lí ý nghĩa khiến cho độc giả phải suy ngẫm:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trăng, một nhân chứng cho những kỉ niệm, những hồi ức khi xưa. Trăng gắn liền với cả một thời tuổi trẻ, cùng nhà thơ lớn lên, khi trưởng thành thì vầng trăng theo sát từng chặng hành quân, chiến đấu gian khổ. Có thể nói, với Nguyễn Du, vầng trăng không chỉ là một hiện tượng của tự nhiên, vũ trụ, không phải là một vật vô tri vô giác mà là một người bạn, một người tri kỉ, là “vầng trăng tình nghĩa” của nhà thơ. Ở đây, vầng trăng đã trở thành biểu tượng của quá khứ, biểu tượng của một thời gian khó nhưng không bao giờ có thể lãng quên, là những phần kí ức sẽ luôn đi theo nhà thơ đến suốt cuộc đời.

“Trăng cứ tròn vành vạnh”

“Tròn vành vạnh” tả vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng, viên mãn. Về cái nhìn thị giác, tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, là cái đẹp không bao giờ gây nhàm chán, thất vọng với con người. Ngoài nghĩa tả thực, hình ảnh vầng trăng tròn , lặng lẽ còn biểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức. Những hồi ức ấy vẫn mãi “sáng”, vẫn mãi tròn trịa, viên mãn như vậy, không hề có chút đổi thay, dù thời gian có trôi qua đi nữa, thì tình nghĩa của quá khứ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Nhưng, sự cảm thán về vầng trăng chỉ là cách gợi mở để nhà thơ tự trách mình, trách mình lỡ vô tình, quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy:

“Kể chi người vô tình”

“Người vô tình” ở đây ta có thể hiểu là sự trách móc mà nhà thơ dành cho chính bản thân mình. Trách mình sao có thể quên đi những tháng ngày của quá khứ, quên đi những kỉ niệm của tuổi trẻ. Để bây giờ nhận ra bỗng cảm thấy xót xa, thấy mình sao thật vô tình. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho độc giả cảm nhận một tâm hồn thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nhân cách. Nhà thơ vốn là người trọng tình nghĩa, song vì nhịp sống mới quá hối hả xô bồ mà nhà văn vô tình quên đi. Nhưng đó chỉ là sự lãng quên trong khoảnh khắc, bởi những kỉ niệm đẹp vẫn nằm trong sâu thẳm trái tim của nhà thơ, vì vậy khi được ánh trăng soi chiếu, nhà thơ mới xúc động, mới dạt dào tình cảm đến vậy.

“Ánh trăng im phăng phắc”

Trăng là biểu tượng của thiên nhiên thanh lành, tươi mát, biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của tình nghĩa thủy chung, trọn vẹn không đòi hỏi sự đáp đền. Đó chính là phẩm chất cao cả của ánh trăng mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ khác đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc: “ánh trăng im phăng phắc” là tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng mãi thủy chung, dù cho cuộc sống có bao biến động, bao đổi thay thì vầng trăng vẫn thế, không hề có sự đổi thay. Kí ức, những kỉ niệm không hề vô tri, vô giác, nó như một sinh thể có linh hồn, có sự sống. Mà ở đây nhà thơ Nguyễn Duy đã kí thác qua hình ảnh ánh trăng. Con người có thể đổi thay, có thể quên lãng nhưng những kí ức thì vẫn còn đó, nó sống cùng thời gian, năm tháng. Để đến một lúc nào đó, nó sẽ gợi nhắc con người bằng những gì thân thương, gần gũi nhất. Con người chỉ chấn động khi chợt nhận ra, nghe lời nhắc nhủ, răn dạy trong sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng:

“Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Bao dung mà nghiêm khắc, nghiêm khắc nhưng không lạnh lùng, người bạn tình nghĩa vầng trăng, ánh trắng khiến con người giật mình và thức tỉnh. “Giật mình” là cảm giác, là phản xạ tâm lí của người biết suy nghĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của chính mình. “Giật mình” vì ăn năn, tự vấn; “Giật mình” vì lãng quên năm tháng xưa, bạn bè gian khổ, đói nghèo mà ân tình, ân nghĩa. Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái “giật mình” như vậy mới đáng quý làm sao. Nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp; bảo vệ con người trước những cám dỗ; níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trong lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối cất lên như một lời tự thú, một lời tự trách, một lời tự nhắc của nhà thơ.

Nhà thơ tự trách mình đã quá vô tình, vô tình vì quên lãng, vô tình vì đã có những phút quên đi những ngày tháng, những kỉ niệm, những kí ức ấy. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Trong cuộc sống con người rất dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, tấp nập của cuộc sống mà vô tình quên đi những thứ bình dị nhưng đã đi sâu vào trong tiềm thức, đã xây kết thành những kỉ niệm vững chắc mà ta không bao giờ quên. Sự lãng quên ấy không đáng trách nhưng quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm thì đó là những hành động thật đáng trách, thật đáng lên án.

Tóm lại, “ánh trăng” là bài thơ hay với thể năm chữ được vận dụng sáng tạo, giọng điệu tâm tình tự nhiên. Từ một câu chuyện riêng, được kể theo trình tự thời gian, phản ánh rất sinh động quy luật tâm lí của con người, lời thơ là lời nhắc nhở thấm thía: không nên vô tình, vị kỉ, phải thủy chung cùng bạn bè, nhân dân, đồng chí. Thái độ, tình cảm với quá khứ chưa xa nhiều hi sinh, mất mát, với những người đã ngã xuống hôm qua khiến “ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn, gợi lên đạo lí tình nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 3

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy – bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Vầng trăng thật sự như một tấm gương soi để người ta thấy được những gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.

Đặc biệt là khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lý:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung: “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối.

“Ánh trăng” hay chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối. Chỉ với một “vầng trăng” – “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.

Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lấy quá khứ để soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mỗi con người. Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm của nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức ám ảnh thật lớn đối với người đọc.

Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 4

Vầng trăng đi vào hồn thơ của biết bao thi nhân thế giới, và ở văn học Việt Nam, trăng cũng đã chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác. Đó là ánh trăng chiến đấu nơi rừng xa trong thơ Chính Hữu, là ánh trăng rằm ngời sáng dịu dàng trong thơ Tản Đà, là ánh trăng đẹp tri âm tri kỉ trong các thi phẩm của Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy cũng mang đến cho thơ ca hiện đại Việt Nam một vầng trăng nghĩa tình, thủy chung qua bài “Ánh trăng”. Kể về ân tình thủy chung của vầng trăng và sự vô tình của lòng người, khổ cuối bài thơ được coi là khổ thơ chứa đựng nhiều suy tư, chiêm nghiệm nhất bài thơ.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chỉ người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trăng là món quà tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho con người, vẻ đẹp ấy không chỉ đến từ ánh sáng dịu dàng, vẻ đẹp tròn đầy của vầng trăng mà nó còn là tượng trưng cho những gì viên mãn nhất. Từ láy “vành vạnh” càng gợi cho ta cảm giác đủ đầy, không thiếu thốn cũng chẳng dư thừa, trăng lúc này đây chất chứa những yêu thương của quá khứ vẹn nguyên, những lòng bao dung của hiện tại và sự bất diệt của tương lai. Dấu ấn quá khứ với những kí ức tuổi thơ, những ngày đi lính cùng trăng đồng hành nếu ai đó đã vô tình quên thì trăng vẫn ở đó, vẫn lưu giữ đầy những yêu thương của kỉ niệm. Trăng không một lời trách móc “im phăng phắc”, không một ánh mắt hờn giận, vẫn cứ thế toả sáng dịu dàng, toả sáng những ân tình cao đẹp. Trăng im lặng, dùng ánh sáng của mình mà thức tỉnh con người, thức tỉnh sự lặng im của những tâm hồn đang “dửng dưng” với quá khứ.

Vầng trăng vẫn tĩnh lặng, bao dung, tình nghĩa như vậy, thế nhưng lòng người đâu thể đứng yên như ánh trăng trên trời xa kia chứ, cái “giật mình” đáng sợ cũng chính là lúc mà người ta đang cảm thấy ăn năn, hối hận với quá khứ, với vầng trăng và với cả chính mình. Vòng xoáy của cuộc sống với những đổi thay, những tiện nghi hiện đại cuốn con người theo, họ chới với trong thực tại mà quên mất đi những kí ức đẹp đẽ, quên mất đi những “bạn đồng hành” cùng ta trước đây. Ánh trăng kia chẳng nói một lời mà lòng người vẫn thổn thức, xót xa và dằn vặt bởi sự vô tình của chính mình.

Có người thấy sự im lặng của vầng trăng chính là sự bao dung mà nghiêm khắc của trăng đối với con người, thế nhưng tôi lại thấy ẩn sâu trong sự tĩnh lặng ấy là tình nghĩa vẹn nguyên, là lòng bao dung, yêu thương chẳng hề vơi cạn của vầng trăng, dẫu con người vô tình mà lãng quên đi những kỉ niệm thì vầng trăng vẫn ở đó, bao dung, vị tha cho mọi lỗi lầm. Đêm về khi bóng tối tràn tới, trăng vẫn sáng soi, toả rạng khắp mọi chốn, từ rừng già tới biển bạc, từ chốn làng quê yên bình đến nơi phố thị phồn hoa. Dù con người có cần, có chờ, có đợi hay không thì trăng vẫn ở đó, giúp đời, làm đẹp cho đời.

Lối thơ 5 chữ cùng giọng điệu suy ngẫm, triết lí, đoạn thơ cuối bài như một thông điệp gửi đến cho chúng ta. Trong cuộc sống này, dù cho có bộn bề với những lắng lo của thực tại hay có ấm êm, vui sướng, đủ đầy thì cũng đừng quên quá khứ, bởi đó chính là những đôi cánh đưa chúng ta đến tương lai. Lòng thủy chung, nghĩa tình sẽ bồi đắp cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn, giàu có hơn.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 5

Ánh trăng đã đi vào thơ với muôn ngàn ca từ mĩ lệ, đã chiếm trọn lòng yêu thương của biết bao thi sĩ. Đến với đề tài quen thuộc – ánh trăng, nhưng Nguyễn Duy đã thể hiện được tính triết lí và chiều sâu suy ngẫm quan bài thơ của mình, đặc biệt ở khổ thơ cuối bài:

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình

Từ những ngày thơ bé sống giữa đồng quê, trăng đã người bạn tâm tình với nhà thơ. Ánh sáng ấy theo chân người chiến sĩ trong cả những trận chiến đấu gian khổ. Giữa rừng hoang nước lạnh, ánh trăng chiếu rọi làm ấm lòng người ra trận, vầng trăng gắn bó với biết bao nghĩa tình. Vậy mà khi cuộc sống đủ đầy, nơi thành thị ngập tràn màu sắc của những ánh sáng điện lưới, vánh trăng bỗng trở nên nhạt nhòa trong tâm trí người xưa. Để rồi khi ánh điện vụt tắt. ta mới ngước nhìn lại cố nhân, vẫn âm thầm tỏa ánh sáng chan hòa trên bầu trời cao rộng. Cuộc hội ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ như thế, đã khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi, xúc động để rồi tự vấn lòng mình.

Thế nhưng vầng trăng vẫn “cứ tròn vành vạnh”, “im phăng phắc”. Tác giả đã ử dụng hai từ láy để diễn tả tâm trạng của “cố nhân”. Trăng vẫn tròn đầy, trọn vẹn nghĩa tình thủy chung, nhân hậu, bao dung của thiên nhiên. Dù thời gian có trôi qua, tình cảm đó chẳng chút hư hao. Ánh trăng đang trách móc hay giữ sự tĩnh lặng để người đứng đó tự vấn lương tâm?

Để rồi, người đứng nhìn phải “giật mình”, đó là phản xạ của người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo. Sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” ở đây thật chân thành có sức cảm hóa lòng người. Hai tiếng “giật mình” cuối cùng bài thơ như một tiếng chuông rất khẽ nhưng ngân vang rất xa và đọng lại rất lâu.

Cái giật mình của Nguyễn Duy thật đáng trân trọng, đó là cái giật mình khi tác giả tự ý thức về sự vô tâm của chính mình. Tự hỏi trong chúng ta, ai dám chắc rằng minh chưa bao giờ lãng quên những điều mà chúng ta cho là trân quý nhất và khi nhận ra sự lãng quên đó, có ai dám nhận lỗi với chính mình. Câu thơ của nhà thơ ngắn ngủi mà có sức lay động lòng người, nhắc nhở mỗi người phải sống có nghĩa tình với quá khứ, uống nước phải nhớ nguồn.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 6

Nguyễn Duy là một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ giai đoạn sau với phong cách thơ mang màu sắc triết lí mà thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca. Bài thơ “Ánh trăng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, 3 ngày sau khi đất nước được giải phóng. Khổ thơ cuối bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc vì mang một triết lí sâu xa, gợi nhắc con người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung.

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Tính từ “tròn” kết hợp với từ láy “vành vạnh” cực tả, tuyệt đối hoá vẻ đẹp của trăng: sáng trong, viên mãn, ổn định, tròn đầy. Hình ảnh thơ không chỉ dừng lại ở đó mà còn có ý nghĩa khái quát: Sự tròn đầy, bất diệt của vầng trăng biểu tượng cho quá khứ vẹn nguyên, nghĩa tình, thủy chung, nhân hậu ngày nào. Đây chính là hình ảnh biểu tượng của trăng. Từ “cứ” khiến cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết, vừa vút cao, rắn rỏi trong sự khẳng định về lòng thủy chung của vầng trăng. Hai câu thơ đầu có kết cấu đối lập trong lời thơ, ý thơ làm nổi bật ý thơ. Vầng trăng trước sau vẫn vậy, mộc mạc, giản dị và thủy chung mặc cho con người hờ hững, vô tình.

Hai câu thơ sau, ý thơ đã có sự thay đổi, hình ảnh “vầng trăng” chuyển thành “ánh trăng”. Bởi vì chỉ có ánh trăng, thứ ánh sáng huyền ảo đó mới có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn con người sau bao nhiêu ngày tháng vô cảm. Chỉ có ánh trăng mới đủ ánh sáng để soi rọi vào quá khứ, những ngày tháng sống gắn bó với vầng trăng, từ đó đánh thức lương tâm con người. Từ ánh trăng đất trời vào thơ Nguyễn Duy đã trở thành ánh sáng tươi đẹp để xua đi nỗi tối tăm trong tâm hồn nhân thế. Nhưng không phải trăng nhắc nhở bằng lời nói mà bằng sự im lặng.

“Trăng im phăng phắc” trước hết là hình ảnh tả thực. Trăng không như sao, sao có lúc mọc lúc sa, trăng không như mây, lúc tan lúc tụ, trăng không như mưa lúc tạnh lúc rơi, trăng không như gió khi ngừng khi thổi. Trăng im lặng mà sáng soi. Sự im lặng của ánh trăng biểu tượng cho sự nghiêm khắc của quá khứ. Sự im lặng đó khiến cho người ta giật mình. Giật mình vì trăng nghĩa tình, bao dung mà lại có lúc vô tình, lạnh nhạt, dửng dưng trước trăng, trước quá khứ.

Nguyễn Duy, con người của gốc lúa, bờ tre hiền hậu, của những nắng nỏ trời xanh và những lời hát ru trọn kiếp người, không chỉ tha thiết gắn bó với những điều bình dị trong đời sống, say sưa với văn học dân gian mà còn là con người luôn trăn trở về lẽ sống. Chính vì vậy cái giật mình ở đây là một sự ăn năn, sám hối. Cái giật mình ấy đầy tính nhân văn. Kết cấu đối lập ở hai câu thơ cuối mang ý nghĩa nhắc nhở nghiêm khắc: Hãy đừng quên quá khứ, hãy sống thủy chung với quá khứ. Mượn hình ảnh ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm một cuộc tự vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Ra đi từ những trải nghiệm cá nhân nên bài thơ có sức ngấm rất sâu trong lòng độc giả.

Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp của một câu chuyện mang nhiều ý nghĩa triết lí. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung qua việc xây dựng thanhf công hình ảnh quen thuộc “ánh trăng” mang ý nghĩa biểu tượng, đã gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người luôn ghi tạc một điều: người nào bắn súng lục vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn anh ta bằng đại bác.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 7

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông dung dị, hồn nhiên mà thiết tha, sâu lắng, ít nhiều mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của ông. Đến với khổ thơ cuối bài thơ là những suy nghĩ của nhà thơ về vầng trăng.

“Ánh trăng” được Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh – ba năm sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, không phải ai cũng còn nhớ những kỉ niệm nghĩa tình, những gian khổ trong quá khứ. Bài thơ được viết ra như một lời tự nhắc, một lần giật mình trước sự vô tình, lãng quên dễ có ấy, nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Nếu như những khổ thơ đầu của bài thơ là quá khứ về vầng trăng,là cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa con người và vầng trăng xưa thì khổ thơ kết là những suy ngẫm của tác giả về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.

Kết cấu “cứ… kể chi” cho thấy sự đối lập giữa người với trăng. Trăng vẫn “tròn vành vạnh” – một vẻ đẹp vẹn nguyên chẳng thể phai mờ tượng trưng cho vẻ đẹp nghĩa tình của quá khứ đầy đặn, thủy chung, nhân hậu, bao dung. Trăng vẫn như xưa chỉ có con người đã thay đổi. Trăng vẫn vẹn trọn nghĩa tình, chỉ có con người đã thành kẻ vô tình.

Trước sự thay đổi của con người, trăng chỉ “im phăng phắc” không nói một lời nào. Thái độ ấy là sự nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im khiến con người phải “giật mình”. Giật mình là hành động thức tỉnh để nhìn nhận lại chính mình, là sự ăn năn, hối hận vì sự vô tình, bội bạc không nên có ở mình. Giật mình để thay đổi thái độ sống – sống ân nghĩa thủy chung. Cái giật mình ấy vô cùng cần thiết, giật mình để tìm lại chính mình.

Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái giật mình như vậy đáng quý biết bao. Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trước những lo toan, bộn bề hằng ngày. Nó bảo vệ con người trước những cám dỗ tầm thường của cuộc sống và trên hết, nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Trong cái “ta giật mình” có cái tôi của nhà thơ và cái tôi của tất cả mọi người. Phải chăng Nguyễn Du muốn lay động tất cả những ai còn đang ngủ quên trong cuộc sống đầy đủ, ấm no mà lãng quên quá khứ thì hãy thức tỉnh giật mình để nhận ra chính mình.

Đoạn thơ rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ năm chữ, giọng điệu tâm tình, nhỏ nhẹ mà sâu lắng. Hình ảnh thơ quen thuộc mà giàu sức gợi. Đoạn thơ nêu lên những suy ngẫm về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng, góp phần thể hiện tư tưởng toàn bài: nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân tình, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. “Ánh trăng” không chỉ là câu chuyện của một người, của nhà thơ mà là câu chuyện của cả thế hệ – thế hệ đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, từng sống gắn bó với thiên nhiên, nhân dân nghĩa tình giờ sống trong hòa bình. Bài thơ có ý nghĩa với mọi thời đại, là tấm gương trăng để soi lòng.

Đoạn thơ nói riêng và “Ánh trăng” nói chung hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện thấm thía những lẽ sống đối nhân xửa thế ở đời. “Ánh trăng” đã bật tung cửa sổ lương tâm của mỗi người, soi rọi vào những góc tối trong tâm hồn mỗi người để có những cái “giật mình” đáng quý.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 8

Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về quá khứ.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”.

Những khổ thơ đầu nhà thơ diễn tả về những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Trăng là trời là bể, là đồng là ruộng. Những năm tháng dài đằng đẵng đó đủ để vun đắp nên một tình bạn đẹp khắc sâu vào tâm trí của mỗi người. Thế nhưng sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”.

Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thưở nào. Đó cũng là đại diện cho quá khứ vẫn tròn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lòng. Ánh trăng dù cho ngàn năm nữa thì vẫn không bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vô tình với nó.

Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ thẹn không thôi. Ông tự nhận mình là một kẻ vô tình. Một kẻ vô tình với quá khứ với người bạn tri kỉ của mình. Vô tình ở đây không phải là cố tình quên đi những kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.

Không hề có trách móc hay dỗi hờn ánh trăng im phăng phắc một sự lặng lẽ đáng sợ. Thế nhưng chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng con người vào sự bộn bề trăm mối. Ánh trăng lúc này không phải đơn cử là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà nó chính là tòa án lương tâm của mỗi người. Sự giật mình của người lính chính là một sự thức tỉnh của lương tri đột ngột. Vầng trăng tuy chỉ yên lặng thôi nhưng sức mạnh của nó đủ khiến lay động một con người sau một cơn mê dài.

Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà tưởng chừng như không thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người còn có suy nghĩ còn biết nhận ra sai lầm thì không bao giờ là muộn cả.

Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc. Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những thứ đã gắn bó với mình từ thưở hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người còn có lương tâm thì không cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 9

Nghệ thuật chân chính phải có sứ mệnh như một thiên thần hộ mệnh giúp nâng đỡ con người, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có sức mạnh như thế. Bài thơ như một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Đặc biệt là khổ cuối của bài đã gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng, suy ngẫm, đưa ta tới những chiều sâu của suy tưởng, triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Vầng trăng chính là hình tượng theo ta xuyên suốt cả bài. Ở những khổ trước, nhà thơ đã mở ra hoàn cảnh khu phố mất điện để cho con người đối diện trực tiếp với vầng trăng, để những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ như lớp lớp sóng mạnh mẽ ùa về. Kết thúc bài thơ, hình ảnh ấy hiện về càng tươi đẹp, càng gắn bó bao nhiêu thì nhân vật trữ tình lại càng trăn trở, càng tự trách mình bấy nhiêu. Vầng trăng tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, cũng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung.

Trăng vẫn sáng, vẫn đẹp, quá khứ vẫn vẹn nguyên tình yêu thương dù cho con người có vô tâm, hờ hững, lãng quên đi vầng trăng, lãng quên đi quá khứ tươi đẹp. Nhưng đằng sau sự vô tình ấy, ta nhận ra một tâm hồn thật đẹp. Nhân vật trữ tình không hẳn là người vô tâm, chỉ là đôi khi đã bị cuộc sống bộn bề, nỗi lo cơm áo gạo tiền cuốn theo vòng xoáy của nó. Sự lãng quên chỉ là trong khoảnh khắc, để rồi khi được vầng trăng soi chiếu, nó lại sống dậy mạnh mẽ như xưa. Vầng trăng tươi đẹp chỉ là sự gợi mở để nhà thơ tự vấn chính mình:

“Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

“Im phăng phắc” là sự lặng yên tuyệt đối, không mảy may lay động. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng trở thành một người bạn gần gũi, gắn bó. Trăng chẳng hề lên tiếng trách cứ con người một lời. Sự im lặng vì thế càng trở nên đáng sợ. Trăng bao dung, độ lượng nhưng vẫn không kém phần nghiêm khắc. Trăng đã trở thành tòa án lương tâm, trở thành tấm gương phản chiếu để từ đó con người nhận ra những giá trị bị quên lãng, nhận ra phần vô tâm, hờ hững trong chính mình. Cái giật mình ở đây thật đáng quý, cái giật mình của một con người biết suy nghĩ, có nhân cách. Giật mình vì ân hận, xót xa. Giật mình vì quên đi bao tình cảm ân nghĩa, tốt đẹp khi xưa.

Cái giật mình đã giúp nhân vật trữ tính đứng vững trước những cám dỗ trong cuộc sống. Cái giật mình ấy rất cần có trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi chúng ta mải theo đuổi những giá trị vật chất, tiền tài danh vọng mà hờ hững, vô tâm với những giá trị bình dị nhưng vĩnh hằng, sâu sắc. Cả bài thơ là vô nhân xưng, nhưng đến đây là nhà thơ xưng là “ta”. Ta là nhà thơ, ta cũng có thể là tất cả mọi người.

Năm xưa, trong cảnh đất nước có chiến tranh, người lính gắn bó với bè bạn thân yêu, sống trong vòng tay yêu thương che chở của nhân dân lao động thì nay, khi đất nước đã hòa bình, nhà thơ lên tiếng nhắc nhở, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ của ông không được phép lãng quên quá khứ và những tình cảm cao đẹp khi xưa. Không có quá khứ sẽ không có chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, mỗi người hãy biết trân trọng quá khứ, lấy quá khứ là điểm tựa, là sức mạnh để vươn tới cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.

Với thể thơ năm chữ, những chữ đầu dòng không viết hoa trừ chữ đầu tiên ở mỗi khổ, Nguyễn Duy đã rất thành công khi mượn hình tượng ánh trăng để nói lên bài học nhân sinh sâu sắc: mỗi chúng ta hãy có những giây phút lắng lòng để nhìn lại quá khứ, đừng bao giờ quên đi quá khứ để rồi phải ân hận, xót xa.

Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, để lại những vang âm còn mãi trong lòng người đọc. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi là lời nhắc nhở theo chúng ta trên từng chặng đường đời, để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.

Hi vọng bài viết giúp bạn làm tốt bài văn phân tích của mình. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info

Top 8 Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh lớp 9 hay nhất

Top 8 Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh lớp 9 hay nhất

“Sang thu” không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương, mà còn làm sâu sắc thêm tình cảm quê hương trong trái tim của mọi người. Bài thơ chính là một bức tranh quê bình dị để mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh quê hương, hình ảnh tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng bước chuyển của vạn vật, Hữu Thỉnh đã tạo nên một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng, thoát khỏi những ước lệ đồng thời khẳng định vị trí của mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt ở khổ cuối ta chợt nhận ra vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của sự chuyển mùa, vẻ đẹp của tâm hồn con người gần gũi, giao cảm với thiên nhiên để lắng nghe và dự cảm. Mời các bạn tham khảo một số bài văn cảm nhận về khổ cuối bài “Sang thu” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 1

Cuối hạ đầu thu luôn là những khoảnh khắc lòng người đong đầy cảm xúc lẫn lộn. Đó là những chơi vơi nhưng xuyến xao và chút âu lo vấn vương. Mỗi phút giây qua đi dù là mỏng manh nhưng cũng dư âm dư tình đến luyến lưu. Dòng cảm xúc bất tận ấy được Hữu Thỉnh bắt trọn và phô diễn dưới ngòi bút tài hoa:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sớm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Vẫn là những tia nắng những hạt mưa tinh nghịch của mùa hạ nhưng chỉ là “vẫn còn” “vơi dần”. Những trưa nắng oi ả, gay gắt hay những trận mưa bất chợt, ào ào của mùa hạ bây giờ chỉ còn phảng phất, rải rác. Dường như mùa hạ vẫn đang vấn vương điều chi, vẫn muốn lưu lại chút hương sắc của mình với đất trời tạo hóa. Như để lại chút thương chút nhớ hạ gieo vào lòng đất một chút mưa cuối mùa ngọt ngào, một chút nắng nhẹ nhàng. Nhưng dù có níu kéo thì hiện thực vẫn cứ thể trảy trôi, thời gian vẫn cứ tuần hoàn dù chẳng đành lòng nhưng hạ vẫn phải chấp nhận rời xa để nhường chỗ cho Thu sang. Thu sang mang khoác cho cảnh vật cho thiên nhiên những khí sắc mới, đặc trưng riêng biệt:

“sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Sấm là hiện tượng tự nhiên của thời tiết. Sấm thường xuất hiện sau những cơn mưa giông, cơn mưa rào vào mùa hạ. Hàng cây đứng tuổi là chỉ những cây cổ thụ lâu năm. Đây là một hình ảnh tả thực của tự nhiên. Sau những cơn mưa rào thì sấm hay xuất hiện gần những cây có tán lá rộng, to- thường là những cây cổ thụ. Khi bước sang thu sấm đã chẳng còn tinh nghịch như thế nữa mà đã vơi bớt dần bởi nó biết mùa thu là mùa của yêu thương của những nhẹ nhàng dịu êm. Thế nhưng có lẽ cái ẩn ý mà hữu thỉnh muốn gửi gắm có lẽ chẳng dừng lại ở đó. Ẩn sau cái lớp nghĩa thực kia là một chuỗi những suy tư lắng sâu. Sấm, mưa biểu trưng cho những giông bão, khó khăn.

Ở đây tác giả dùng hàng cây chứ không dùng cây-gợi sự liên kết, gắn bó. Hàng cây đứng tuổi là hình ảnh ẩn dụ chỉ cả một thế hệ, đó là những con người đã đi qua hết nửa cuộc đời, đã nếm trải những đắng cay ngọt ngào của dòng đời xô bồ. Chính những từng trải ấy đã khiến họ trở nên kiên cường, mạnh mẽ, biết cách đối mặt với giông tố, khó khăn, không còn lung lay, xao động trước những cơn “sấm” ồn ã. Gửi cái nhìn xa xăm hơn nữa, Hữu Thỉnh muốn hướng đến tình yêu Tổ quốc thiết tha, ông bày tỏ thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca sức mạnh dũng cảm, kiên trung bất khuất, đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt những năm tháng chiến đấu gian khổ bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc.

Trong ý thơ trên còn có mang đậm một quan điểm nhân sinh sâu sắc, cũng giống như mùa thu bình yên và lặng lẽ, con người ta khi đã đến cái tuổi xế chiều, khi đã trải qua những năm tháng bão giông sẽ chẳng còn những bồng bột, thật bình thản và nhẹ nhàng để cảm nhận và suy tư.

Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, từ ngữ dân dã, giản dị bằng cái chất cái hồn lãng mạn của mình Hữu Thỉnh đã vẽ ra một bức tranh thu độc đáo. Cái hồn quê chân chất cái mùi của đất của thiên như mở ra sau mỗi vẫn thơ. Tinh tế nhẹ nhàng và lắng sâu. Lòng người vì thế cũng như trải dài ra, nao nao đến từng phút giây. Hình ảnh quê hương đất nước thật đẹp, thật yên bình và đầy dư vị.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 2

Hạ qua thì thu đến. Thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng người đọc những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Tất cả những điều đó đã được Hữu Thỉnh thể hiện rất thành công qua khổ cuối bài thơ “Sang thu”:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Mở đầu khổ thơ vẫn là cái nắng, vẫn là cơn mưa mùa hạ nhưng tất cả đang “với dần”, đang ngày một nhạt đi. Nắng đã không còn chói chang, mưa cũng không xối xả như những ngày hè. Mùa hạ như đang níu kéo lại chút không gian cho chính mình nhưng rồi cũng phải giật mình nhận ra rằng thu đã đến và mùa hạ phải nhường chỗ chu thu để đến một chân trời khác. Tác giả đã chọn hai hình ảnh đặc trưng nhất của mùa hạ để chào đón mùa thu. Đó phải chăng vừa là sự lưu luyến mùa hạ vừa là báo hiệu rõ ràng nhất rằng thu đang về? Ở hai câu thơ tiếp theo, bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.”

“Sấm” – là hiện tượng quen thuộc của thiên nhiên xuất hiện trước hoặc trong cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Từ hai hình ảnh quen thuộc đó, tác giả muốn gửi đến người đọc những chiêm nghiệm, triết lí về cuộc đời. “Sấm” ở đây vừa là một hiện tượng tự nhiên vừa là những thăng trầm, sóng gió của cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chát của cuộc sống. Họ là người đã đủ trưởng thành để vượt qua những sóng gió của cuộc đời.

Ở đoạn thơ cuối Hữu Thỉnh đã liệt kê hàng loạt những đặc trưng của mùa hạ để thể hiện sự chuyển mình của đất trời. Cái hay của nhà thơ là ông không hề miêu tả cảnh sắc trời thu nhưng vẫn khiến người đọc cảm nhận được thu đang đến rất gần.

Qua bốn câu thơ ta vừa thấy được khả năng quan sát tinh tế vừa thấy được ngòi bút tài năng của tác giả. Đó cũng là lí do khiến “Sang thu” luôn có một chỗ đứng nhất định trong lòng người đọc.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 3

Cái nắng gắt của màu hạ qua đi nhường chỗ cho sự êm ái của mùa thu sự dịu dàng dễ chịu ấy làm cho cong người trào dâng bao cảm xúc. Chính sự chuyển mùa giữa hai mùa ấy thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua.

Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh lại khác ông có cái nhìn thật tinh tường một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đừng tuổi”

Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là “vẫn còn” và “vơi dần” ,tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng: “thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng câu đừng tuổi.”

“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn.

Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước nhà.

Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này !

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 4

Hữu Thỉnh là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội. Thơ ông nhẹ nhàng sâu lắng ông mang đến cho người đọc bao cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo. Ông viết nghiều về những con người ở nông thôn, về mùa thu đặc biệt là bài thơ Sang thu đó là sự chuyển biến nhẹ nhàng giữa mùa hạ và mùa thu được tác giả gợi lên bằng những hình ảnh quen thuộc.

Tiêu biểu là khổ thơ cuối của bài thơ tác giả đã cho người đọc thấy được những suy ngẫm mang tính triết lý về mùa thu về đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hình ảnh mùa thu hiện ra đậm đà hơn. Vẫn là nắng mưa sấm chớp của mùa hạ nhưng mức độ là khác nhau nó đã giảm dần, nhạt dần qua hai cụm từ “vẫn còn” và “vơi dần”. Nắng ở đây vẫn còn nhưng không gay gắt như đầu mùa hạ hay mưa cũng vơi dần đi không còn rào rào xối xả mà thay vào đó là sự nhẹ nhàng còn lại của mùa hạ đón chào mùa thu. Nếu hai câu thơ trước là hình ảnh mang nghĩa tả thực, thì hai câu thơ cuối còn là hình ảnh ẩn dụ ấn tượng, giàu ý nghĩa. Về nghĩa tả thực, hình tượng sấm là hiện tượng thường xuất hiện trước và sau những cơn mưa lớn trong mùa hạ, cây đúng tuổi là những cây già đã sống lâu năm thân to sần sùi cao lớn nhưng dưới con mắt của Hữu Thỉnh nó không chỉ đơn giản đến vậy.

Sấm trong thơ ông chỉ những thăng trầm gian nan của cuộc đời, những khó khăn vất vả giúp chúng ta trưởng thành hơn trong cuộc đời vững vàng hơn còn cây đứng tuổi chỉ những con người từng trải, đã được ném bao nhiêu mùi vị của cuộc đời: mặn, ngọt, đắng, cay của cuộc đời và tất nhiên những con người ấy khi trải qua những khó khăn ấy sẽ không còn vấp ngã lung lay trước sóng gió của cuộc đời.

Hai câu thơ trên tác giả còn muốn gửi gắm đến người đọc ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường, mạnh mẽ chống giặc của dân tộc ta quyết tậm bảo vệ bờ cõi nước nhà.

Qua bài thơ người đọc thấy rõ được sự tinh tế của nhà thơ về sự chuyển đổi của trời đất giữa cuối hạ và đầu thu đồng thời ông còn muốn gửi gắm đến mọi người những triết lý sâu xa về mùa thu về cuộc đời.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 5

Mùa thu mang một nét độc đáo cùng những dư vị, cảm xúc trầm buồn, bởi vậy mà có biết bao thi nhân đều rung động trước thu, và viết về thu bằng những hồn thơ đẹp đẽ với tấm lòng yêu thương, trân quý nhất. Hữu Thỉnh cũng đã dành cho thu nhiều thương yêu như thế qua bài thơ ” Sang thu”. Bài thơ không chỉ khắc hoạ vẻ đẹp của một bức tranh về thiên nhiên thu mà hơn thế còn mang đến cả những chiều sâu về triết lý qua cảnh vật thu, đặc biệt, khổ cuối bài thơ là một khổ thơ hay, đã kết tinh nhiều chiêm nghiệm sâu sắc:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Thu vừa sang nên nhưng dư vị của hạ vẫn còn đó, chỉ có điều nó nhạt dần hơn. Nắng hạ vẫn còn sót lại, vương trên trời thủ thứ ánh sáng mê hoặc, nó không chói chang, không nóng nực như những ngày chính hạ, nắng thu dịu nhẹ, buông xuống dưới hàng cây lọt vào từng kẽ lá ánh vàng rạng rỡ, kiều diễm lạ thường. Những cơn mưa không còn nhiều và nặng hạt nữa, mưa thu mang đến sự nhẹ nhàng ru thiên nhiên và lòng người bằng những tiếng tí tách dịu êm. Mưa vơi dần, nắng cũng nhạt dần nhưng chưa hết hẳn, bởi vậy mà khi bầu trời từ hạ chuyển mình sang thu cũng là lúc mà lòng người dâng lên bao nỗi niềm thương nhớ và cả bao nỗi suy tư:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Những tiếng sấm khi những cơn mưa đến bao giờ cũng khiến ta không khỏi giật mình, hoảng sợ. Sấm chính là một hiện tượng của thời tiết báo hiệu cơn mưa sắp tới. Những hàng cây đã trưởng thành, khôn lớn, trải qua những mưa nắng, giông bão của thời tiết cũng trở nên mạnh mẽ hơn rất nhiều. Nó không còn bất ngờ với những tia sấm, ánh chớp trên bầu trời rộng lớn kia, nó vẫn đứng hiên ngang trên hành trình phát triển của mình. Bằng nghệ thuật nhân hoá, Hữu Thỉnh đã khiến cho thiên nhiên thu trở nên sinh động, có hồn hơn rất nhiều.

Bên cạnh ý nghĩa thực, khổ thơ cuối còn mang đến cho ta những tầng nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Phải chăng “sấm” kia là những phong ba, bão tố, những thách thức, sóng gió, khó khăn trong cuộc đời mỗi chúng ta. Sấm bất chợt đến không ai biết trước cũng chẳng ai ngờ tới, chỉ là khi còn người ta đã trưởng thành hơn, chín chắn hơn họ sẽ không còn bất ngờ hay sợ hãi với những điều như thế. Khi người ta không còn trẻ nữa, khi mà những trải nghiệm trong cuộc sống đưa đến cho con người những kinh nghiệm và bản lĩnh, tạo cho họ sự vững vàng trong ý chí, dày dặn trong cách nhìn nhận và bình tĩnh hơn trong cách đối diện. Những sự bất ngờ những biến cố không còn khiến lòng người hoang mang nữa, họ chấp nhận và đối diện một cách an nhiên hơn.

Sâu hơn nữa, qua đó, ta còn thấy được hình ảnh của một dân tộc Việt Nam kiên cường, hiên ngang, dũng cảm trong những trận đánh của quân thù, của bè lũ cướp nước giành lại quê hương, Tổ quốc cho dân tộc.

Bốn câu thơ thật nhẹ nhàng mà sao khiến lòng người nhiều nghĩ suy đến thế. Phải chăng, chính tác giả cũng đang suy ngẫm về cuộc đời và con người, về những gì mà một đất nước anh hùng đã trải qua. Vẫn tin rằng sau này và mãi mãi, hồn thơ thu sẽ của Hữu Thỉnh mãi nuôi dưỡng tâm hồn ta trong suốt cuộc hành trình đến với văn học, với đời sống.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 6

Sang thu là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích, gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt đến. Và cái cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng.

Đã vơi dần cơn mưa.

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn mùa thu, vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài Sang thu. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hữu Thỉnh viết bài thơ Sang thu vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất, nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

Sang thu là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố xuất bản vào tháng 5 – 1985. Bao cảm xúc dâng đầy, những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 7

Đọc bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh hẳn ai cũng nhớ tới bức tranh thu thật có hồn và đậm chất suy tư được hoàn tất trong khổ thơ cuối của bài thơ:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ đầu tiên, thiên nhiên sang thu được gợi tả qua những hình ảnh cụ thể nắng- mưa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến, nó không còn chói chang dữ dội gay gắt như đang mùa hạ. Mưa giờ đây cũng đã ít đi, những cơn mưa mùa hạ thường bất chợt đến rồi lại chợt đi.

Đặc sắc nghệ thuật ở đây là tác giả đã dùng từ “vơi” có giá trị gợi tả sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số lượng vô định- diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần là những cơn mưa rào ào ạt mùa hạ. Hai câu thơ cuối diễn tả sự chầm chậm, từ từ, nhẹ nhàng sang thu của tất cả cảnh vật. “Sấm cũng bớt bất ngờ” là hình ảnh mang ý nghĩa tả thực hiện tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ nhưng cuối hạ sấm cũng ít đi.

Hàng cây cổ thụ và cảnh vật thiên nhiên đã sang mùa thu nên cũng không còn bất ngờ bởi tiếng sấm nữa. Không chỉ như vậy, hình ảnh “sấm” còn mang cả ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho những vang động bất thường của ngoại cảnh của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn những thăng trầm của cuộc đời. Khi con người trải nghiệm nhiều thì sẽ trở nên hiểu mình hiểu người hiểu đời hơn, sẽ bình tĩnh đón nhận mọi biến cố trong cuộc đời, càng trở nên vững vàng hơn trước những thăng trầm của cuộc sống.

Tóm lại chỉ với 4 câu thơ, nó đã góp phần làm bài thơ không chỉ là 1 bức thông điệp lúc giao mùa mà còn là những suy ngẫm sâu sắc về đời người.

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Sang thu” số 8

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà vãn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu. Và cảm nhận của ông khi tiết trời sang thu được thể hiện rõ nét nhẩt ở khổ thơ cuối:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Mở đầu Hữu Thỉnh cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác : Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Cảm giác giao mùa được ông diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Nhưng tiếp đó chính là cảm nhận của chính ông khi nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt đi cái nồng nàn, rực rỡ vốn có, kèm theo đó là những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần :

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài :

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời ; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn tham khảo về cách cảm nhận và phân tích vẻ đẹp của tác phẩm. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info

Top 9 Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt hay nhất

Top 9 Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt hay nhất

Người bà là nhân vật trung tâm của tất cả nỗi nhớ, tình yêu thương mà nhà thơ Bằng Việt gửi gắm qua bài thơ “Bếp lửa”. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn vẻ đẹp của sự hi sinh, tần tảo mà bà dành cho cháu trong bài thơ xuất sắc này.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 1

Bếp lửa của Bằng Việt là chuỗi những dòng kí ức tuổi thơ đẹp đẽ và hơn hết những kỉ niệm đó luôn gắn với người bà thân yêu. Chỉ với một bài thơ bảy khổ nhưng đã khắc họa những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của bà. Bà cũng chính là biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hi sinh hết lòng vì con, vì cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất qua những dòng thơ thấm đẫm tình yêu thương.

Hình ảnh bà trong dòng kí ức tuổi thơ cháu hiện lên thật gần gũi, thiêng liêng với tình yêu thương vô bờ, sự che chở và bao bọc. Cứ thế qua từng câu thơ, từng con chữ những đức tính, sự hinh sinh của bà được khơi ra với lòng biết ơn, tự hào sâu sắc của tác giả.

Ba câu thơ đầu với hình ảnh bếp lửa là mạch nguồn khơi dậy hình ảnh người bà thân thương: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Bếp lửa với ánh lửa lung linh, bập bùng vào sáng sớm gợi nên điều gì đó thật thân thương, gần gũi. Hai chữ ấp iu vừa diễn tả được cái khéo léo trong công việc nhóm lửa của bà, nhưng đồng thời còn cho thấy tấm lòng bao dung, nhân hậu toát ra từ những cử chỉ ấy.

Từ hình ảnh bếp lửa, bằng tình cảm chân thật, tự nhiên tác giả đã bật lên: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Đó là câu thơ dồn nén biết bao tình cảm chân thành, ẩn dụ nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn cực nhọc trong đời bà. Đồng thời đó cũng là nỗi ám ảnh khôn nguôi day dứt trong lòng Bằng Việt. Hình ảnh bà hiện lên thật nhẹ nhàng, sâu lắng và những phẩm chất đẹp đẽ của bà lần lượt hiện ra rõ nét ở những khổ thơ tiếp theo.

Bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương, chịu khó. Trong những năm cả dân tộc ta sống trong đói kém, cái đói đã giết chết biết bao nhiêu người dân Việt Nam, nhưng bà vẫn tần tảo, nuôi cháu khôn lớn. Quá khứ về những năm đói kém ấy hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết qua cách thể hiện ngôn từ đặc sắc đói mòn đói mỏi và hình ảnh đầy sự ám ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.

Mỗi lần cháu nghĩ lại vẫn còn cay cay nơi đầu sống mũi. Khổ thơ không một lần nhắc đến bà, nhưng vẻ đẹp của bà vẫn hiện hữu, vẫn thật lớn lao, đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự hi sinh thầm lặng. Bà tảo tần nuôi nấng, bà là cây cổ thụ to lớn che chở cho cháu và cả gia đình vượt qua những giông tố cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé mà ý chí, sự hi sinh lại lớn lao vô cùng.

Bà không chỉ tảo tần, chăm lo cho gia đình mà bà còn là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu khôn lớn trưởng thành.

Bà vừa làm bà, vừa làm cha mẹ bao bọc, che chở cho cháu. Tám năm cha mẹ xa nhà, bận công tác ở chiến khu là tám năm cháu được sống trong vòng tay yêu thương, ấm áp của bà. Bà với một tình yêu thương thầm lặng, mỗi ngày đều bảo ban, dạy dỗ cháu: Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Chính bà là là người đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu bằng việc kể những câu chuyện ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát của dân tộc. Bà còn bảo ban, dạy cháu từng chút từng chút một để cháu ngày một khôn lớn trưởng thành trong suy nghĩ và nhân cách. Hàng loạt các từ bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả sâu sắc tình yêu thương bao la, sự chi chút hết mình bà dành cho cháu.

Không chỉ vậy, bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là hậu phương lớn để con cháu yên tâm công tác. Mặc kệ Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, dù chiến tranh có tàn phá khốc liệt hơn nữa, bà vẫn vững lòng trước những thử thách: Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Câu thơ như lời bà nói, giản dị và chân thật biết nhường nào, nhưng nó có sức lay động lớn đối với mỗi chúng ta.

Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ dại, dạy dỗ cháu học hành mà bà còn là hậu phương vững chắc cho những đứa con ngoài chiến trường yên tâm công tác. Hình ảnh bà gợi nhắc ta nhớ đến người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn. Trước những bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn vững vàng, tình yêu thương, sự bao dung và tấm lòng hi sinh chính là sức mạnh giúp bà giúp bà chống lại mọi khó khăn, gian khổ.

Đẹp đẽ nhất, thiêng liêng, cao cả nhất chính bà là người đã khơi dậy những mơ ước, hi vọng, bà trao truyền sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Lòng bà luôn ủ sẵn một niềm tin dai dẳng, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của kỉ niệm, tình yêu thương sẽ nâng bước, soi sáng cho cháu trên suốt các chặng đường đời.

Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Ở khổ thơ tiếp theo tác giả sử dụng hàng loạt điệp từ nhóm: Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo sẻ mới chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người: đó là tình yêu thương, niềm vui; sự san sẻ trong khó khăn của tình làng nghĩa xóm và đẹp đẽ nhất là những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ. Nhờ có bà mà cháu biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng, biết sống ân nghĩa thủy chung với quê hương, đất nước.

Bằng sự kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm, giọng điệu hồi tưởng, đậm chất suy tư tác giả đã cho thấy chân dung ba thật cao cả, đẹp đẽ mà cũng hết sức thân thương, bình dị. Bà là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo và giàu đức hi sinh. Đồng thời bài thơ cũng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu thương kính trọng ông bà và gia đình.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 2

Chỉ là một tiếng gà nhảy ổ giữa buổi trưa hè, một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm… mà biết bao tình nghĩa. Phải chăng những điều bình dị, giản đơn nhất lại chính là chìa khóa của tâm hồn, của những tình cảm thiết tha, chân thành mà không một giá trị tầm thường nào có thể đổi được.

Nếu như “Tiếng gà trưa” đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về bà cùng tình bà cháu cao đẹp thì “Bếp lửa” lại làm sống dậy trong lòng Bằng Việt cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm, từ đó khẳng định tình cảm thương nhớ khôn nguôi của cháu với bà. Theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được cái ánh sáng của bếp lửa, sự ấm áp kì diệu và thiêng liêng của tình bà cháu và đặc biệt ta được thấy chân dung đẹp đẽ, lung linh sắc màu cổ tích của người bà trong bài thơ.

“Bếp lửa” là lời tâm sự của người cháu ở nơi xa nhớ về bà của mình với những kỉ niệm về tình bà cháu, thể hiện sự kính yêu, ngưỡng vọng và suy ngẫm sâu sắc về bà. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kì niệm nâng lên thành suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà với bao nỗi vất vả và tình yêu thương, trìu mến dành cho cháu.

Từ kỉ niệm, người cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà lẽ sống giản dị mà cao quý của bà và mong muốn gửi niềm nhớ thương sâu sắc về với bà. Bếp lửa với bao ấm áp đã trở thành hình ảnh khơi nguồn cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình – người cháu. Bếp lửa khơi gợi, nhen lên, lan tỏa và cháy mãi trong, dòng hồi tưởng về kí ức tuổi thơ, tỏa sáng chân dung của người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Cụm từ “một bếp lửa” vang lên trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Giữa cái sương sớm buốt lạnh, bếp lửa hiện lên làm chủ không gian trở nên thật ấm áp. “Chờn vờn sương sớm” không chỉ gợi tả hình ảnh bếp lửa quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam những sớm mai mà còn gợi lên hình ảnh bếp lửa chập chờn trong kí ức tuổi thơ. Từ “ấp iu” đã gợi tả đôi tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng rộng mở của bà.

Các từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” đã kết nối và diễn tả chính xác dòng cảm xúc được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ sự khơi nguồn này, cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm đã thức dậy trong tâm tưởng và suy ngẫm của người cháu. Hình ảnh người bà qua dòng hồi tưởng, suy ngẫm của nhân vật trữ tình hiện lên với bao nỗi vất vả và phẩm chất đáng quý. Nhớ về bà, cháu nhớ về những kí ức tuổi thơ với bao kỉ niệm sống bên bà:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Khổ thơ ngắt nhịp ngắn và không ổn định; càng về cuối đoạn, nhịp thơ càng chùng xuống như nhấn mạnh sự khó khăn, cơ cực mà hai bà cháu đã từng trải qua. Hồi từ hiện tại, những kỉ niệm đã đưa cậu bé năm nào về với quá, khứ cùng với những cảm giác rất thật “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”. Cái cay sè nơi sống mũi của hai mươi năm về trước lại bất ngờ ập đến. Phải chăng quá khứ trong cháu vẫn còn rất sâu đậm, vẹn nguyên và chẳng thể phai nhòa nên nó đã hiện, lên thật sống động.

Có thể nói, tuổi thơ của cháu gắn liền với giai đoạn lịch sử đau thương mà oai hùng của dân tộc. Tuổi thơ ấy có cái gian khổ chung của thời kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh “mẹ cùng cha bận công tác không về”, cháu đã sống trong tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, dạy dỗ của bà:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Trong hoài niệm về tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi quen thuộc luôn gắn liền với hình ảnh người bà thân thương. Nhớ về bà là người cháu nhớ về bếp lửa, hình ảnh bà và bếp lửa luân gắn bó song hành. Nỗi nhớ da diết của người cháu với bà cũng chính là nỗi nhớ thương gia đình, quê hương, đất nước.

Từ sự hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ, về bà và bếp lửa, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời, lẽ sống của bà. Trong hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc luôn gắn liền với người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, quen thuộc, cháu nhận ra những điều kì lạ và thiêng liêng. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao tình yêu thương đã nuôi lớn cháu, nhóm dậy những tâm tình tuổi nhỏ. Không những vậy, bà còn là người phụ nữ giàu tình yêu thương, đức hi sinh. Bà là hình tượng sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Bà lặng lẽ, âm thầm hi sinh cho Tổ quốc:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.

Trong những năm tháng chiến tranh, cháu lớn lên, trưởng thành trong tình yêu thương, đức hi sinh cao cả, sự đùm bọc, che chở của người bà:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Hình ảnh bếp lửa đã được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa của tình yêu thương với ý nghĩa thật sâu sắc. Nếu bếp lửa là biểu hiện cuộc sống âm thầm, lặng lẽ của hai bà cháu thì ngọn lửa rộng hơn, nó là sức sống tình yêu, là niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu. Cuộc đời bà “lận đận” mấy chục năm, bà lặng lẽ hi sinh cho cháu, cho mọi người:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Điệp từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ đã khẳng định bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong người cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực, niềm tin, giúp cháu vững bước trên đường đời.

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.

Với người cháu, ngọn lửa ấy thật kì lạ, thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!” Trong cả bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào của người cháu đối với bà. Hình ảnh bếp lửa thiêng liêng, kì lạ vì bếp lửa luôn hiện hữu, gắn bó, song hành cùng với hình ảnh người bà, gắn liền với những năm tháng tuổi thơ của cháu.

Bà và bếp lửa đã nuôi lớn cháu, thắp sáng niềm tin và ước mơ, trở thành điểm tựa tinh thần của cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ sâu thẳm tâm hồn người cháu, thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của cháu với bà cũng như với quê hương, đất nước.

Nhẹ nhàng, giản dị mà sâu sắc, thấm thía, Bếp lửa đã thể hiện một cách xúc động hình ảnh người bà và tình bà cháu. Bếp lửa – ngọn lửa của bà cùng tình yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp của bà đã soi rọi, nâng bước cháu trên con đường đời đầy khó khăn thử thách. Hình ảnh người bà chính là hình ảnh của quê hương, đất nước.

Bài thơ thể hiện thành công tình cảm kính yêu, trân trọng, biết ơn bà cũng là lòng biết ơn đối với quê hương, đất nước biểu hiện cao đẹp của truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Bếp lửa khơi gợi cho người đọc những suy ngẫm về tình cảm gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam, để lại trong tâm hồn bạn đọc bao dư âm đẹp về tình bà cháu và chân dung người bà kính yêu.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 3

Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn nhân,nghệ sĩ.

Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng bà mắng yêu, với hình ảnh “Tay bà khum soi trứng” thì Bằng Việt lại khiến ta nhớ mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: “Bếp lửa”.

“Bếp lửa” như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kỉ niệm ấu thơ bên bếp lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách bế trong làn sương buối sớm được đôi tay bà “ấp iu”, chở che.

Hình ảnh “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lử cháy lên, sáng lên và khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.

Và rồi trong kí ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước phim quay chậm, đó là kỉ niệm “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Lời thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thường, cùng điệp ngữ “tu hú kêu” và câu hỏi tu từ “Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?” gợi về nhiều những câu chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe.

Trong những năm tháng cha mẹ đi công tác xa, bà và cháu quấn quýt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi dưỡng, săn sóc “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu học”, “bà chăm cháu làm”. Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,…Bên bà, có lẽ cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.

Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy, cháu nhớ như in lời dạy của bà:

“Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnh màn trời chiếu đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu, phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi khó khăn khốc liệt.

Tuy bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà vẫn giã gạo nuôi bộ đội trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm,…

Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca là người “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”,…Bà chính là người tiêu biểu cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay… Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

“Bếp lửa bà nhen” là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nhóm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ có sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ dành cho cháu, bù đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha.

“Ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm bếp lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại. Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng mưa nhưng bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nhóm lên tình yêu thương mà bà đã dành cho cháu, nhóm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nhóm lên tình đoàn kết với hàng xóm, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa mà bà nhen, cháu đã khôn lớn cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,…

Từ bếp lửa thiêng liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu. Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Lời thơ của Bằng Việt thủ thỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy. Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 4

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, những năm tháng xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc nhà thơ viết nên bài thơ Bếp Lửa và những cảm nhận về tình bà cháu thấm thía, sâu sắc thiêng liêng. Và hình ảnh người bà đã sống mãi trong lòng người đọc về một người phụ nữ Việt Nam âm thầm hi sinh, yêu thương cao cả và là ngọn lửa bất diệt của niềm tin cho người cháu yêu thương của mình, khơi dậy trong lòng chúng ta niềm xúc động nghẹn ngào về tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn sương sớm, ấp iu nồng đượm gắn liền với hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương. Người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc.

Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày.

Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà.Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến.

Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình chung lên trên, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như đã thổi đến tâm hồn người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà.

Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt.

Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, nhưng hơn hết bà cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm đoàn kết với tình làng nghĩa xóm. Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này.

Để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”Như vậy, bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, nhà thơ Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất diệt trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà nhắc ta về tình bà cháu thiêng liêng, về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam yêu nước sẵn sàng hi sinh vì lợi ích cá nhân để vì tinh thần dân tộc.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 5

Từ lâu, những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ đã khơi nguồn cảm xúc dồi dào, bất tận cho biết bao những người nghệ sĩ để sáng tác lên những bài văn hay, những bài thơ tuyệt mĩ về người bà, người mẹ. Và Bằng Việt, với bài thơ “Bếp lửa” cũng đã góp một tiếng thơ tuyệt mĩ ấy về hình ảnh người bà – một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương con, thương cháu tha thiết.

Bài thơ ra đời năm 1963, khi đó Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, vì thế thi phẩm là dòng hoài niệm về những kỉ niệm thời thơ ấu được sống trong sự chăm sóc, yêu thương của bà và bên bếp lửa thân yêu. Qua đó, người cháu thể hiện lòng kính yêu, sự trân trọng, biết ơn đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà.

Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Sống trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, biết bao gia đình phải li tán, thậm chí là sinh li tử biệt. Và Bằng Việt, một đứa trẻ phải sống dưới làn bom, mũi súng của kẻ thù cũng đã phải chịu cảnh xa cha, xa mẹ từ nhỏ. Bởi cha mẹ Bằng Việt cũng tham gia cách mạng, vì thế tất cả mọi thứ ở quê nhà, Bằng Việt đều sống trong tình yêu thương, bao bọc chở che của người bà kính yêu.

Cho nên với Bằng Việt, bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc giàu tình yêu thương, niềm tin tưởng, nuôi dạy Bằng Việt khôn lớn, trưởng thành suốt những năm ròng kháng chiến:

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà…

Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ.

Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh.

Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tụ do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà.

Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Cho nên, đến đây chúng ta thấy tấm lòng của người thật rộng lớn mênh mông không chỉ dành riêng cho con cho cháu mà còn cho tất cả mọi người, cho quê hương, đất nước tươi đẹp này.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt.

Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 6

Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,…nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ánh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên.

Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta…Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,… và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng….

Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế…Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi…có bà!

Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết…

”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người…”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi…? Bà đang nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu…

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy … gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ “chờn vờn” sưởi ấm cả gian nhà vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa đông khi hai bà cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ.

Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia…?

”Ấp iu”- gợi một bàn tay nhen nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân cần. Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng ta thấy hình ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lưả để nhóm lên ngọn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho cháu.

Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian nan, vất vả và từng trải! Chí một từ “thương” thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho cả đoạn. Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, “nắng mưa”, khó khăn, gian truân đời bà!

Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình thương là vị muối mặn của tình người, là chất keo của mối gắn bó. Chứ “thương” vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người.

Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ “thương” đã có thể thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương cồn cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi cạnh bà dưới ấm áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương… Hình ảnh bà “biết mấy nắng mưa” cứ rõ dần, tỏ dần với sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ…:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Kỉ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Những năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi lên bốn, đó chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và dai dẳng, “đói mòn đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào quên- cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy!

Bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy giờ là cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã làm chết hơn hai triệu người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn ám ảnh dai dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, như thể vừa mới “hun nhèm” thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn trong tim, trong tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ.

Cay vì khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ họng và dường như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, củ sắn, hay là giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng khi sắp được ăn cho thỏa nỗi thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng, lúc bà đang lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon, nhưng hồi ấy là cả một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh bằng, cả một điều lớn lao, vĩ đại!

“…Cái năm đói củ rong giềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)

Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ niệm không thể quên của đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái đắng của những đói khổ không chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác nữa! Đến người còn không có ăn, nói chi “ngừa gầy””khô rạc” là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe chạy chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội.

Đó cũng là một kỉ niệm còn neo lại nơi tâm trí cháu, trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không quên! Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng… Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy…Trong lòng cháu…!

Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa,…cứ đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,“cháu cùng bà nhóm lửa”, vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám.

Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn thương thế! Nó ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ dội về hiện tại, làm kỉ niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỉ niệm ấy, có cả đắng và ngọt, cô đơn và hạnh phúc! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.

Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa, lâng lâng trong lòng người cháu xa xứ. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.

Hạnh phúc tưởng chừng như nhỏ bé mà lại là thiêng liêng và lớn lao nhất của cuộc đời mỗi con người, là hạnh phúc gia đình, là phút giây sung sướng đến tột cùng khi được trông thấy đứa con-hình hài yêu dấu-món quà vô giá mà cuộc đời ban tặng cho mình- cất tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được một căn nhà, một tổ ấm-nơi nương tựa vững chãi nhất trong những phút giây bi quan, yếu lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc đời-con người ta tìm về để được an ủi, sẻ chia một cách chân thành!

Ấy vậy mà loài chim tu hú đâu có được niềm hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng, đẹp đẽ nhất cuộc đời ấy! Tiếng kêu của chúng trở vì vậy trở nên khắc khoải, mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó tha thiết lắm…Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu, làm sục sôi khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên:

“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi!
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”

Tiếng kêu đầy khao khát và khắc khoải ấy cũng xuất hiện ở nỗi nhớ da diết về quê hương và bóng người cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô con gái tuổi thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh Thơ:

“Rồi tiếng chim tu hú
Vang suốt những mùa hè
Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê!”

Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không gian xa vẳng của nỗi nhớ thương…Và bà ơi khi tu hú kêu, thì đó cũng là lúc “Bà hay kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện ấy, rất dài mà rất hay, thấm thía, hơn thế nữa, nó còn được kể qua chất giọng ấm áp, chậm rãi, chan chưa cảm xúc và tình yêu thương của bà.

Có thể đó là những chuỗi ngày hạnh phúc khi gia đình ở Huế, bà cũng là người hoài niệm, sâu sắc và đầy suy ngẫm…Cũng có thể đó là rất nhiều những câu chuyện,…giống như những câu chuyện mà bà hay kể “hồi còn ở Huế”! Vậy ư? Thế thì nhiều lắm lắm! Trong kho tàng chuyện ấy, có thể, tuổi thơ cháu đã ướp đậm vị ngọt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình vào thế giới nơi có cô Tấm thảo hiền, có chằng Thạch Sanh dũng cảm, có mẹ con nhà Cám độc ác, tàn nhẫn, có mẹ con Lí Thông gian xảo, mưu mô,…có cái thiện cũng như cái ác.

Và hơn hết, cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác! Nhắc tới tuổi thơ, người ta bao giờ cũng nghĩ ngay đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ hay kể cho con trẻ nghe, rồi bảo chúng rút ra bài học, hoặc dăn dạy những điều hay, lẽ phải từ câu chuyện ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn giản, dễ hiểu, mà lại vừa sâu sắc, thấm đẫm tình…

Bà đã ươm lên và nuôi dưỡng trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ khi còn thơ dại một mầm cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngời, nó là cái gốc để phát triển thành những thân, những cành, những hoa, lá, những quả… sau này!

“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Những câu thơ tiếp theo làm hiện lên một căn nhà quạnh hiu, lạnh lẽo giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ! Cùng bà, ngày nào cháu cũng nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu chuyện cổ huyền ảo của cháu.

Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với cháu, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng cháu.Tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với cháu. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu.

Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,…

Nhà thơ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người khi nghĩ lại những ngày tháng đã xa…Xen lẫn trong đó là một niềm tự hào vì mình có bà của đứa cháu ngây thơ trước những con chim tu hú bơ vơ cứ “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” ngoài kia!

Cháu thương bà và cũng thương tu hú nữa! Vì cảnh ngộ của hai bà cháu ta sao mà giống tu hú thế! Cũng hiu quạnh, cô đơn, cha mẹ thì “bận công tác không về” mất rồi! “Tu hú ơi, hãy về ở cùng bà đi, bà sẽ chăm sóc cho tu hú, như là bà đã chăm sóc cho ta, và tu hú sẽ không phải bơ vơ nữa! Tu hú về với bà, thì cả bà và tu hú sẽ cùng bên nhau, không ai cô đơn cả!”

Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Tình yêu thương của bà dành cho cháu, của cháu đối với bà đã để lại trong lòng cháu những kỉ niệm không bao giờ nhạt phai và nó luôn sống mãi bởi âm thanh tiếng chim tu hú da diết ấy luôn âm vang trong tim cháu, như tiếng lòng thổn thức của cháu luôn nhớ mong về bà…

Trong Bếp lửa tác giả đưa hình ảnh này ra để nỗi đau riêng hòa vào nỗi đau chung của cả dân tộc, hoàn cảnh chung của cả nước:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn,tài sản lớn nhất của một đời người đã bị “cháy tàn cháy rụi”-cháy sạch sành sanh, không còn nguyên vẹn một thứ gì, nói đúng hơn là không còn gì để mà cháy, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.

Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình, tinh thần lắm, ý chí lắm, niềm tin của bà mạnh mẽ lắm, trong khi “ hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”-cảm nhận như có một sức mạnh vô hình nào đó cứ làm người ta cúi gắm, cúi gằm mặt xuống vì đau đớn đến não nề, không nói được một lời nào!

Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu, luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào cách mạng khi nhắc cháu viết thư vẫn bảo nhà bình yên để bố mẹ an tâm công tác chiến đấu.Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”.

Bà lại làm lại từ đầu, từ “lại” trong câu thơ thể hiện sự chắt chiu, sự bắt đầu làm lại sau những khó khăn, thiếu thốn! Bà vẫn “nhen” lên bếp lửa “rồi sớm rồi chiều”, dù “nhen” thì khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất cũ của ngôi nhà đã bị đốt “cháy tàn cháy rụi”, bà nhen lên một sự sống mới, mãnh liệt hơn, dai dẳng hơn, bởi trong lòng bà “một ngọn lửa luôn ủ sắn”, “một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”!

Đó chính là ngọn lửa mà bà đã truyền cho cháu-sức mạnh và niềm tin, để cháu vững lòng vượt qua những khó khăn, thử thách đầu đời giống như bà đang cố gắng đây! Giặc Pháp có thể phá làng, đốt nhà, nhưng không thể dập tắt đi ngọn lửa, ấm áp cháy mãi trong lòng bà! Ngọn lửa “chứa niềm tin dai dẳng”, ngọn lửa mang tình yêu thương của bà, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi, ngọn lửa hi vọng vào một tương lai tốt đẹp cho tổ quốc, cho lẽ sống thiêng liêng, cao đẹp của cả dân tộc!

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Bà- một con người nhỏ bé mà vĩ đại vô cùng! Bà đốt lên ngọn lửa cháy vĩnh hằng trong tim cháu bằng ngọn lửa mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, bà sưởi ấm lòng cháu trong suốt những năm tháng đã qua bằng ngọn lửa yêu thương vô bờ!

Bà nâng bước cháu đi trên con đường đời bởi ngọn lửa của niềm tin bất diệt ấy, bà truyền cho cháu hơi ấm tình thương và bà sáng mãi như một ngọn lửa…Không bao giờ tắt…!Bốn tuổi cháu biết cái đói, tám tuổi cháu hiểu những câu chuyện của bà, rồi biết chiến tranh đau khổ, gian lao của đất nước, và bắt đầu có niềm tin mà bà nhen lên trong cháu…Và giờ đây, cháu cảm được…:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Nếu ở câu thơ đầu chỉ là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, sau một dòng chảy dài của cảm xúc dâng trào chảy theo hồi ức thơ ấu, thì giờ đây câu thơ đã kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu sa: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”! Cả câu thơ dồn vào hai từ “lận đận”-làm việc gì cũng không thành, cứ long đong, vất vả và khó nhọc như thế suốt cả một đời!

Đó phải là một khoảng thời gian dài, một quá trình lâu để cảm biết và hiểu sâu sắc, có lớn lên, có trưởng thành và từng trải thì mới thấm thía, thấu hiểu lắm lắm như thế về cuộc đời bà. Câu thơ tuy không bộc lộ cảm xúc như câu thơ trước, song, còn ý nghĩa và sâu sa hơn thế! Chữ thương như lặn vào trong trái tim, trong đáy lòng sâu thăm thẳm của cháu, khắc sâu vào tâm khảm cháu.

Đó là một suy ngẫm rất “chín” qua cách nhìn nhận của cuộc đời ở góc độ tuổi trưởng thành của cháu về bà, về những thăng trầm, những “mưa”, những “nắng”, những “lận đận”mà đời bà đẫ trải qua! Và rồi cứ như thế, bà vẫn hi sinh âm thầm lặng lẽ, mà “Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Một sự vất vả, khó nhọc mà cũng trở thành thói quen trong cuộc đời người bà đầy gian trân, trắc trở ấy! Bà cứ lặng thầm, lặng thầm như thế, để rồi:

“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.

“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong cổ tích, bà tô màu hồng lên trên màu xám trong tuổi thơ cháu, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”!

Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người, bà nuôi dưỡng tâm hồn cháu ngay từ những ngày còn thơ dại để tạo gốc rễ cho sự hình thành tốt đẹp mãi tới tận mai sau! Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim.

Bà làm cho kỉ niệm những năm tháng ấy trở thành bóng che rợp mát đi theo suốt cuộc đời cháu, khiến cháu thốt lên trong những xúc động nghẹn ngào: “Ôi kì lại và thiêng liêng-bếp lửa!”Tình thương và lòng nhân ái, bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng trường tồn. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng cháu.

Bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành ngọn lửa luôn cháy mãnh liệt và sưởi ấm tim cháu! Để rồi giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà, cảm giác nhớ nhung da diết cồn cào những hồi ức quá đẹp đẽ, ấm áp bên bà và hình ảnh bả luôn thường trực trong tâm khảm của người cháu:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Bài thơ được kết lại trong một câu hỏi tu từ. Đó là một nỗi đau đáu nhớ về bà! Nhà phê bình Văn Giá nhận xét:”Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thiết thân nhất. Họ giữ cho ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, biến cố, thành bại ở đời.

Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những làn sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.” Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong mùa đông lạnh giá của nước Nga.

Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó, trong vòng tay yêu thương chở che của bà và trong trái tim cháy bỏng một ngọn lửa chan chứa niềm tin, tình yêu thương bà dành cho cháu…

“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)

Nào, giờ thì hãy nhắm mắt lại một lúc, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên… Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta. Những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ luôn có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời!

Bà đã hiện về trong từng câu thơ chan chứa cảm xúc, tim bà mang một ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời cháu…t rong lòng cháu… Thuở ấu thơ… Giờ đây… Và mãi mãi…

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 7

Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức hi sinh cao cả, bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta. Hình ảnh người bà đôn hậu cùng với hình tượng ngọn lửa là hai nét vẽ biểu cảm của một hồn thơ đẹp được thể hiện một cách hàm súc qua đoạn thơ sau:Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen … Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Từ “bếp lửa” đã biến thành “ngọn lửa”. “Bếp lửa bà nhen” mỗi sớm mỗi chiều, ngọn lửa “lòng bà luôn ủ sẵn”, ngọn lửa của “niềm tin” về ấm no, hạnh phúc:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Vần thơ mang hàm nghĩa sâu sắc ngợi ca những phẩm chất cao cả của người bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam. Ngọn lửa của tình thương mà bà”luôn ủ sẵn” để dành cho con cháu. Ngọn lửa của niềm tin mãnh liệt, bền bỉ “dai dẳng” suốt cả đời bà, được “bà nhen” mãi mãi sáng bừng bất diệt.

Lòng bà, tình thương của bà sáng bừng ngọn lửa ấy. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ: “rồi sớm rồi chiều”, “bà nhen… bà ủ sẵn”, “một ngọn lửa… một ngọn lửa…” có giá trị thẩm mỹ đặc sắc thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn đối với đức hi sinh, tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.

Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của hà, của mẹ là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Bảy câu thơ tiếp theo nói lên những suy nghĩ của cháu đối với hà và việc hù nhóm lửa. Phần đầu bài thơ có câu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, ở đây, cháu lại thổ lộ: “lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”. “Lận đận… nắng mưa” là một đời vất vả, tần tảo, khó nhọc.

Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Chữ “lận đận” thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà.Bà là chỗ dựa, là mái ấm tình thương của con cháu. Thức khuya dậy sớm vì hạnh phúc của cháu con đã trở thành “thói quen” của bà trong “mấy chục năm”, trong cả đời bà:

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Cảm xúc dâng trào khi nhà thơ nghĩ về bà, về bếp lửa, và việc bà nhóm lửa. Một sự tổng kết và ngợi ca về đời bà, tình bà. Bà là suối nguồn của ấm no và hạnh phúc, là tình thương của tuổi thơ. Bếp lửa mà bà nhen nhóm một đời người là ngọn lửa “kì lạ và thiêng liêng”.

Điệp ngữ: “nhóm bếp lửa”, “nhóm niềm yêu thương”, “nhóm nồi xôi gạo mới”, “nhóm dậy cả những tâm tình”… bốn lần vang lên qua vần thơ cảm thán đã khắc sâu hình ảnh người bà, tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn vô hạn. Ý tưởng sâu sắc đẹp đẽ. Ngôn từ biểu cảm. Hình tượng người bà và bếp lửa kì vĩ, tráng lệ:

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa

!Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp.

Nhà thơ sung sướng tự hào thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!Đã có nhiều thơ ca viết thật hay về người mẹ hiền. Nhưng chưa có nhiều bài thơ viết về bà, và đạt tới độ đặc sắc như bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.Hình ảnh người bà đôn hậu được thể hiện qua hình tượng “bếp lửa”, “nhóm lửa” và “ngọn lửa” rất gần gũi với tâm hồn mỗi chúng ta.

Bà thương cháu bao nhiêu thì cháu lại kính yêu và biết ơn bà bấy nhiêu.Bài thơ Bếp lửa đã nói lên thật xúc động, trong sáng một nét đẹp trong gia đình Việt Nam, trong đạo lí dân tộc, và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Câu thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” đã trở thành câu thơ trong trí nhớ nhiều người gần xa…

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 8

Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình bóng bà lam lũ vất vả trong bài thơ “ Đò Lèn” của Nguyễn Duy:

“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “ Bếp lửa”. Nhà văn khắc họa hình ảnh người bà với những vẻ đẹp tần tảo, đức hi sinh và niềm tin mãnh liệt, qua đó thể hiện lòng kính yêu bà sâu nặng. Khơi nguồn kí ức của người cháu khi trưởng thành nhớ về bà khi anh bắt gặp hình ảnh quen thuộc:

“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Người bà hiện lên chịu thương chịu khó, cần mẫn nhóm lửa ngày nào nay ùa về trước mắt người cháu. Hình ảnh bàn tay cần mẫn của người bà đang nâng niu, vun vén cho ngọn lửa chập chờn, bập bùng trong mỗi sớm mai. In hằn suốt đời bà là những vất vả, nhọc nhằn, hình ảnh ẩn dụ “ biết mấy nắng mưa” tượng trưng cho bao nỗi cơ hàn đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Hình ảnh ấy khơi dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu khiến dòng hồi tưởng về bà rõ nét, chân thực hơn:

“ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
…Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”

Khi cháu lên bốn, lên tám đó là những mốc thời gian nguy khó nhất của cuộc chiến tranh: cái đói hoành hành, giặc tàn phá hậu phương. Bà cưu mang đứa cháu nhỏ dại, suốt tám năm ròng “ cháu cùng bà nhóm lửa”. Phải chăng bà luôn bền bỉ nhen lên hơi ấm của sự sống bền bỉ?

Bà không chỉ trở thành người cha, người mẹ của cháu lúc cha mẹ bận công tác nơi tiền tuyến mà bà còn là người thầy hết mực bảo ban cháu. Điệp từ “ bà” lặp đi lặp lại cùng một loạt động từ “ kể chuyện, dạy, chăm cháu học” giúp ta hình dung bà là người khắc sâu lòng căm thù giặc trong lòng cháu qua những câu chuyện kể và bà bảo ban cháu nên người.

Khó nhọc đời bà thêm trĩu nặng khi nuôi lớn cháu trong hoàn cảnh khốn khó, đầy thiếu thốn về vật chất. Nhà thơ khắc họa hình ảnh người bà với tình yêu thương cháu vô bờ bến, có lẽ bà muốn bù đắp phần nào những bất hạnh trong tuổi thơ đứa cháu bé bỏng. Không chỉ giàu tình yêu thương cháu mà bà còn giàu đức hi sinh và lòng vị tha:

“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nén nỗi khổ đau một mình bà chịu đựng tất cả nên lời căn dặn cháu “ chớ kể này, kể nọ” những gian khó ở quê nhà : “ giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, bởi bà muốn làm yên lòng những người nơi hỏa tuyến để họ làm tốt nhiệm vụ. Lòng vị tha giúp bà và dân làng tạo thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc. Bà luôn nuôi dưỡng, ấp ủ một niềm tin không bao giờ dập tắt, niềm tin nhỏ bé nhưng dai dẳng, được nhen lên bằng cả tấm lòng, trái tim nhân hậu:

“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Điệp ngữ “một ngọn lửa” ấm nồng vẫn âm ỉ cháy ngày qua ngày được bà nâng niu biến hình ảnh bếp lửa trở thành một hình tượng giàu sức tượng trưng:

“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”

Hành động “nhóm” bếp điệp lại tới bốn lần nhấn mạnh thói quen thường ngày thành nếp sống của suốt cuộc đời long đong “lận đận” của bà. Nhưng việc làm giản đơn ấy có sức mạnh kì lạ. Nó thắt chặt tình nghĩa xóm làng bằng những củ khoai sắn hay nồi xôi gạo ngọt bùi từ bếp lửa bà đun nấu. Một trời mộng mơ của cháu từng bị lãng quên nay bên bà những nỗi niềm ấy lại sống dậy khi được sưởi ấm tâm hồn. Vậy bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.

Qua dòng kí ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “ Bếp lửa” gửi gắm lòng biết ơn bà sâu nặng. Nhà thơ Bằng Việt khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình tượng người bà vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao cả vừa tạo tính biểu tượng cho hình ảnh thơ.

Bài văn phân tích hình tượng người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt số 9

Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ.

Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”

Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.

Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu.

Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quê hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.

Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô.

Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.

Trên đây chỉ là một số bài văn để bạn đọc tham khảo. Hi vọng từ các chi tiết và hình ảnh trong một số bài văn trên, bạn đọc có thể viết hoàn chỉnh bài văn của mình một cách sáng tạo và hấp dẫn nhất. Chúc các bạn học tốt.

Top 6 Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận lớp 9 hay nhất

Top 6 Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận lớp 9 hay nhất

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận miêu tả bức tranh thiên nhiên biển cả vô cùng rộng lớn và tráng lệ. Trên bức tranh ấy, tâm điểm chính là những ngư dân đánh cá, họ lao động hăng say, quên đi mệt nhọc để mang đến thành quả lao động vô cùng lớn lao. Với bút pháp lãng mạn, nhà thơ Huy cận càng làm cho hình ảnh con người và thiên nhiên thêm hài hòa và gắn kết với nhau hơn. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 1

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu, nổi tiếng trong phong trào thơ Mới cả trước và sau cách mạng. Hòa cùng với không khí của ngày hội dân tộc, Huy Cận như tận mắt chứng kiến sự hồi sinh của đất nước, của nhân dân sau khi hòa bình lập lại trên toàn miền Bắc. Vì thế, hồn thơ Huy Cận bỗng nảy nở trở lại sau bao năm không cầm bút. Và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (1958) được ra đời như một định mệnh. Bài thơ là bài ca lao động, ca khúc khải hoàn về sự đổi thay của cuộc sống nhân dân, sau bao năm lửa đạn đau thương dưới sự xâm lược của thực dân. Đọc xong bài thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận được tinh thần khỏe khoắn, lao động hăng say của những người ngư dân miền biển, mà bài thơ còn sáng lên vẻ đẹp lấp lánh của một bức tranh thiên vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa lung linh huyền ảo và rực rỡ tươi sáng của biển trời bao la.

Trước hết, mở đầu bài thơ là một bức tranh thiên nhiên trên biển vào lúc buổi chiều hoàng hôn buông xuống thật huy hoàng, tráng lệ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Hình ảnh “mặt trời” được nhân hóa (xuống biển) và so sánh (như hòn lửa) trở nên sống động, huy hoàng, gần gũi và ấm áp. Đó là tín hiệu của sự vận động, chảy trôi của thời gian, báo hiệu thời khắc của ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa với hành động “cài then” , “sập cửa”. Vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn đang vào đêm với động tác như con người: tắt lửa, cài then, sập cửa. Màn đêm như là tấm cửa khổng lồ đã sập xuống, còn những con sóng lượn là cái then cài. Thiên nhiên như dọn dẹp để nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động. Cảnh thật đẹp, diễm lệ, xuất phát từ cảm hứng vũ trụ mạnh mẽ, có phần thi vị lãng mạn hóa.

Theo nhịp bước vận động của thời gian, của một chuyến hành trình tiến ra khơi xa của đoàn thuyền đánh cá, mọi vẻ đẹp và sự giàu có trù phú của biển cả như dần hiện hình, nổi sắc dưới ống kính quay chậm của nhà thơ. Các loài cá biển được liệt kê ra như biểu trưng cho sự giàu đẹp của biển Đông mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người:

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Những đàn cá thu được so sánh “như thoi đưa”, có tác dụng diễn tả cá ở biển Đông thật nhiều, thật đông và bơi nhanh như thoi đưa vậy. Và chính các loài cá tôm, thủy sản ở dưới biển ấy, đã làm nên những “luồng sáng”, sự sống của biển cả thiên nhiên. Và sau khi đã đưa chiếc thuyền tiến ra khơi xa, quăng lưới bủa vây đánh bắt cá thì tất cả cảnh đẹp giàu có và hết sức thơ mộng của biển cả như thu lại vào trong tầm mắt của người ngư dân trên khoang thuyền:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa: nước Hạ Long.

Nhà thơ như nhập thân vào những người ngư dân trên biển cả mà cảm nhận tất cả vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên. Biển đẹp và giàu có đã tô điểm cho sức sống của biển cả và làm cho bức tranh lao động thêm rực rỡ, tươi vui. Nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song có tác dụng thể hiện sự giàu có của biển cả. Biển cả rất phong phú thủy hải sản, toàn loài cá hiếm, cá ngon ( chim, thu, nhụ, đé là tứ quí của biển Đông) đang đợi con người tới đánh bắt. Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp, rất thơ mộng. Điều đó được tạo nên bởi sự phối hợp màu sắc của thiên nhiên với sắc màu của các loài cá trên biển: lấp lánh, đen hồng, vàng chóe. Những con cá song hiện lên như những ngọn đuốc đen hồng đang bơi trong luồng nước dưới ánh trăng đêm.

Những đàn cá tung tăng, bơi lội quẫy đuôi làm cho ánh trăng in xuống mặt nước như bị tan ra thành biển trăng “vàng chóe”. . Câu thơ cuối qua phép nhân hóa, khiến cho thấy vũ trụ hiện lên như một người khổng lồ, biển cả như một cái lồng ngực đang phập phồng những hơi thở đều đặn. Những ánh sao đêm in xuống mặt nước, thủy chiều xô bóng sao dưới mặt nước mà tạo thành sao lùa nước Hạ Long. Và trong hình dung của nhà thơ, ấy chính là tiểng thở của đêm, của biển cả thiên nhiên sóng nước. Không gian biển cả chao nghiêng vừa như thực, vừa như hư, đậm chất lãng mạn bay bổng. Và chính sự giàu đẹp của biển đã đem lại cho những nguời ngư dân vùng chài một mùa lao động bội thu:

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Hình ảnh người lao động kéo lưới “xoăn tay” là một nét vẽ tạo hình đầy góc cạnh, không chỉ cho thấy vẻ đẹp gân guốc, cường tráng mạnh mẽ của những bắp thịp trên cánh tay các chàng thanh niên khỏe mạnh mà còn cho thấy sức nặng như “ngàn cân” của những chùm cá nặng trĩu, đầy ắp. Ánh nắng hồng của bình minh hòa cùng với sắc màu của cá: “bạc”, “vàng” có tác dụng tô đậm thêm sự giàu có và quí giá “rừng vàng biển bạc” của biển cả mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Vì thế, con người như càng thấm thía biết ơn trước biển cả quê hương:

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Nghệ thuật so sánh và nhân hóa vừa cho thấy được tình cảm bao la, vĩ đại, cao cả của người mẹ biển cả tự nhiên; lại vừa bộc lộ niềm biết ơn sâu sắc của con người ngư dân đối với người mẹ thiên nhiên, vũ trụ. Cuối cùng, vẻ đẹp thiên nhiên biển cả hiện lên lung linh, rực rỡ, chan hòa ánh sáng trong buổi sớm bình minh, cùng với đoàn thuyển đánh cá thắng lợi trở về:

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Kết cấu vòng tròn đã tạo nên sự tuần hoàn của vũ trụ. Hình ảnh mặt trời ở khổ đầu đã mở ra tứ thơ và khép lại ở khố cuối, diễn tả một chu trình hoạt động của một đêm đánh cá trên biển của người ngư dân vùng chài. Mặt trời với ánh sáng của bình minh tươi đẹp đã chiếu rọi vào đôi mắt cá như điểm tô cho thành quả lao động của con người thêm rực rỡ, huy hoàng. Mặt trời chiếu rọi vào những mắt cá khiến muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa ánh hào quang. Đồng thời, ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp muôn nơi trên biển cả đại dương mênh mông bát ngát ấy, không chỉ dừng lại ở việc khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho sự hồi sinh của đất nước, của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới sau bao nhiêu năm đọa đầy dưới làn bom, mũi súng của kẻ thù thực dân.

Tóm lại, qua vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên vùng biển, chúng ta thấy được khả năng quan sát, miêu tả cảnh vật thiên nhiên thật sinh động, tỉ mỉ, kĩ càng của nhà thơ; đồng thời cho thấy tưởng tượng bay bổng, phong phú cùng cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt của Huy Cận. Từ đó, làm cho bức tranh thiên nhiên như một bức tranh sơn mài đẹp, rực rỡ, cuốn hút lạ thường, góp phần làm tôn nên vẻ đẹp của con người lao động: khỏe khoắn, tươi vui, tràn đầy sức sống. Qua đó người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, niềm rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu cuộc sống, yêu con người của hồn thơ Huy Cận sau cách mạng.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 2

Sau cách mạng hồn thơ Huy Cận đã có những bước chuyển mình mới, ông tìm thấy ánh sáng, con đường, lí tưởng cho mình. Huy Cận trở nên hăm hở hăng hái, vì thế những vần thơ cũng trở nên tươi sáng, tràn ngập tình yêu cuộc đời, yêu thiên nhiên đất nước. Trong chuyến đi thực tế Quảng Ninh ông đã sáng tác tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá, không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp con người mà qua đó còn làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của quê hương, đất nước.

Thiên nhiên được miêu tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với khung cảnh có sự biến đổi linh hoạt. Cảnh tưởng như ngưng vận động sau một ngày dài, nhưng thực tế lại liên tục vận động, khung cảnh thiên nhiên vì thế mà ngập tràn sức sống. Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời dần dần lặn vào đại dương, hình ảnh đó được Huy Cận tái hiện hết sức huy hoàng :

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa.”

Thật khéo léo, tài tình tác giả đã kết hợp những hình ảnh cụ thể như mặt trời, sóng, biển với biện pháp so sánh, nhân hóa để tạo nên một bức tranh hoàng hôn tuyệt mĩ. Mặt trời được ví như hòn lửa khổng lồ đang từ từ xuống biển, chìm vào màn đêm yên tĩnh. Sóng và biển được nhân hóa như những sinh thể, để đánh dấu sự nghỉ ngơi thực sự của mặt trời. Nhưng ở đây chỉ có mặt trời đi ngủ, còn tất cả các sự vật khác lại như bừng thức:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi.”

Bút pháp tả thực kết hợp với trí tưởng tượng vô cùng phong phú, những con cá thu được ví như những đoàn thoi, với tốc độ bơi vun vút, dệt lên tấm vải khổng lồ giữa biển cả, khiến cả không gian bừng lên muôn luồng sáng, đó là luồng sáng của sự phong phú, giàu có. Sự giàu có ấy tiếp tục được tác giả liệt kê ở khổ thơ tiếp theo, đến đây không chỉ có các bạc, cá thu mà còn có muôn ngàn loài cá khác : cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… Với hình thức liệt kê, ông đã khẳng định và ngợi ca tài nguyên phong phú, dồi dào của đất nước ta. Đặc biệt trong khổ thơ thứ tứ, Huy Cận đã sử dụng những nét bút hết sức tài hoa, vẽ lên bức tranh sơn mài tuyệt mĩ.

Bức tranh ấy được sáng tạo trên cơ sở của trí tưởng tượng, sự liên tưởng bay bổng, mơ mộng nhưng đồng thời vẫn có cơ sở hiện thực. Trên nền cảnh của không gian đêm tối, với ánh trăng trên cao rọi chiếu khiến cho cảnh vật trở nên huyền bí, mờ ảo. Trong không gian ấy, mọi sự vận động của thiên nhiên đều trở nên lấp lánh, phát ra thứ ánh sáng diệu kì: chiếc đuôi của cá song lấp lánh đuốc đen hồng, với hành động cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe đã khiến bức tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn. Vẻ đẹp thiên nhiên thật đẹp đẽ, tràn đầy hơi thở sự sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Thiên nhiên trù phú, giàu có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn, trưởng thành, bởi vậy, ngay sau đó, tiếng thơ tha thiết như một lời cảm ơn chân thành của đứa con với bà mẹ biển cả: Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Thời gian có sự vận động không ngừng, mặt trời sau một đêm dài nghỉ ngơi, đã dần dần lóe rạng đông. Câu thơ: Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi, cho thấy nếu vẻ đẹp hoàng hôn rực rỡ bao nhiêu thì vẻ đẹp của nó khi bình minh lại huy hòang bấy nhiêu. Màu mới ở đây là màu gì? Có thể hiểu màu mới là màu nắng lúc bình minh, màu nắng lúc ấy bao giờ cũng rực rỡ, đẹp đẽ hơn, nó mang vẻ đẹp của sự khởi đầu, khơi nguồn sự sống. Hình ảnh đẹp đẽ nhất, thể hiện rõ nhất bút pháp lãng mạn của Huy Cận là câu thơ cuối cùng: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Hình ảnh hoán dụ mắt cá cho người đọc liên tưởng dường như con muôn vàn mắt cá được phản chiếu dưới ánh nắng mặt trời, khiến nó trở nên lung linh, huy hoàng hơn. Câu thơ vừa tả được cái rực rỡ của ngày mới sang, vừa tả được sự trù phú, giàu có của biển cả. Đây quả là một câu thơ hay, xuất sắc thể hiện được tài năng nghệ thuật và trường liên tưởng độc đáo của Huy Cận.

Bức tranh thiên nhiên biển cả được tạo nên từ trường liên tưởng độc đáo, cùng bút pháp khoa trương, phóng đại. Với việc ông vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ (mặt trời như hòn lửa, cá như đoàn thoi, mắt cá,…) đã tái hiện trước mắt chúng ta bức tranh thien nhiên đẹp đẽ, tràn đầy sự sống, một thiên nhiên giàu có và trù phú.

Qua bức tranh thiên nhiên, ta thấy được tài năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú, tài hoa của Huy Cận. Không chỉ vậy còn thấy được vẻ đẹp trù phú của quê hương đất nước. Đó là sự hồi sinh của thiên nhiên sau bao năm ghánh chịu nỗi đau chiến tranh. Thiên nhiên cũng như con người mỗi ngày lại hồi sinh, làm giàu cho tổ quốc. Tác phẩm là bài ca, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 3

Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận được biết đến với những bài thơ chở nặng nỗi buồn, “nỗi sầu nhân thế” thì sau Cách mạng tháng Tám, trong thơ ông lại tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan gắn chặt với công cuộc đổi thay của cuộc sống mới. Điều này đã được thể hiện rõ qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” – kết quả của chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh của tác giả. Trong tác phẩm, công cuộc lao động cùng sự đổi thay trong cuộc sống mới đã được làm nổi bật thông qua hình ảnh con người lao động và bức tranh thiên nhiên.

Mở đầu tác phẩm, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên đã được miêu tả qua buổi hoàng hôn khi đoàn thuyền đánh cá bắt đầu ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Trên bức phông nền của ánh hoàng hôn buổi chiều tà, mặt trời từ từ lặn xuống từ phía tây trong phép so sánh độc đáo “như hòn lửa”. Hình ảnh quen thuộc miêu tả mặt trời chìm xuống lòng biển khơi với sắc đỏ rực, đồng thời gợi lên sự trôi chảy và bước đi của dòng thời gian trong sự biến động hết sức kì vĩ và tráng lệ. Vẻ đẹp của thiên nhiên còn được làm nổi bật thông qua biện pháp nhân hóa “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Những con sóng ngày đêm vỗ vào bờ được hình dung như những chiếc then cài, khép lại màn đêm như đóng kín cánh cửa của biển khơi. Vũ trụ vốn bao la, rộng lớn đã được hình dung như một ngôi nhà lớn thân thương, gần gũi đối với con người.

Bức tranh thiên nhiên còn được miêu tả với vẻ đẹp giàu có, trù phú của mẹ biển cả bao la. Đó là những đoàn cá “cá bạc biển Đông lặng”, “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” hiện lên cùng âm hưởng ngợi ca, tự hào và biết ơn đối với những món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Và hành trình đoàn thuyền đánh cá trên biển luôn gắn bó chặt chẽ với sự phong phú, giàu có của tài nguyên thiên nhiên:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long”

Bức tranh thiên nhiên được phác họa bằng thủ pháp liệt kê, khiến những loài cá hiện lên sinh động, chân thực nhưng cũng vô cùng lộng lẫy và kì vĩ. Đó là “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” miêu tả những chú cá song, thân dài và có chấm nhỏ màu đen hồng xuất hiện trên vảy, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn cá mang vẻ đẹp lấp lánh như những cây đuốc được thắp sáng giữa đêm trăng. Đó là những con cá “đuôi em” đang vui đùa cùng làn nước như “quẫy trăng vàng chóe”, góp phần tô điểm cho một đêm trăng đẹp, lung linh ánh nước mờ ảo. Những con sóng cũng mang trong mình nhịp thở của biển, khiến cho bức tranh thiên nhiên hiện lên gần gũi, thân thuộc. Và khi đoàn thuyền trở về trong khúc hát của lòng biết ơn thì thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp hết sức thơ mộng, trữ tình:

“Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”

Vòng tuần hoàn của thời gian được gợi ra từ sự biến chuyển từ lúc hoàng hôn – đoàn thuyền đánh cá ra khơi đến khi mặt trời ló dạng – đoàn thuyền đánh cá trở về. Lúc này vẻ đẹp của thiên nhiên lại được miêu tả trong sự hồi sinh “Mặt trời đội biển nhô màu mới”. Đồng thời, bức tranh muôn triệu mắt cá li ti trong ánh rạng đông không chỉ thể hiện sự giàu có của thiên nhiên mà còn ẩn chứa niềm vui và thành quả lao động của những người ngư dân.

Như vậy, bằng cảm hứng ngợi ca và cảm hứng vũ trụ, tác giả đã sử dụng thành công những hình ảnh thơ giàu sức gợi để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Thông qua bức tranh thiên nhiên, chúng ta thấy được sự biết ơn của con người đối với những món quà mà mẹ biển cả đã ban tặng. Đồng thời, vẻ đẹp của bức tranh đó còn là phông nền để tác giả làm nổi bật hình tượng con người lao động trong khúc ca làm chủ thiên nhiên, đất trời.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 4

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một đất nước. Bài thơ là bài ca về lao động thời kì mới của nhân dân sau bao năm chịu đau thương lửa đạn. Hiện lên trong bài thơ không chỉ có hình ảnh người ngư dân lao động mà còn là cả bức tranh thiên hùng vĩ, tráng lệ, kì diệu của biển cả bao la.

Ngay mở đầu bài thơ ta đã bắt gặp một bức tranh thiên nhiên trên biển lúc hoàng hôn, đó là một khung cảnh huy hoàng và tráng lệ:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Hình ảnh mặt trời được nhân hóa và so sánh như một hòn than đang đi xuống mặt biển, tạo nên một tín hiệu của sự vận động, trôi chảy của thời gian, ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” được nhân hóa với hành động cài then, sập cửa, cho ta hình dung biển cả như một ngôi nhà lớn đang đóng cửa trước khi đêm xuống, dường như thiên nhiên cũng đang “dọn dẹp” để nghỉ ngơi. Chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá đã phô diễn được sự giàu có và trù phú của biển cả:

“Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”

Những đàn cá thu được so sánh như “đoàn thoi” cho thấy số lượng nhiều và bơi nhanh, những “luồng sáng” dưới biển chính là các loài hải sản làm nên sự sống của biển cả. Chiếc thuyền ra khơi xa, ngư dân bắt đầu giăng lưới bủa vây, dàn đan thế trận đánh bắt cá:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé…

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Nghệ thuật liệt kê các loài cá đã thể hiện sự giàu có và đa dạng của biển cả, biển không chỉ giàu có mà còn rất thơ mộng. Sự phối hợp màu sắc của thiên nhiên với màu sắc của các loài cá trên biển tạo nên những màu sắc rực rỡ: lấp lánh, đen hồng, vàng chóe,… Rồi những đàn cá tung tăng quẫy đuôi dưới mặt nước làm cho ánh trăng in trên mặt nước như bị đánh tan ra thành một biển trăng. Biển cả như một cái lồng ngực của một người khổng lồ đang thở những hơi thở đều đặn, có thể thấy, không gian biển cả qua cái nhìn của tác giả vừa thực, vừa hư đậm chất lãng mạn và bay bổng.

“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng…

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Chùm cá nặng” là biểu hiện của một mùa lao động bội thu, ánh nắng hồng của bình minh hòa cùng với sắc màu của cá bạc đã tô đậm thêm sự giàu có và quý giá mà biển cả đã ban tặng cho con người. Vẻ đẹp thiên nhiên trong những câu thơ cuối bài lại là một bức tranh khác, đó là bức tranh của bình minh hiện lên lung linh và rực rỡ, chan hòa cùng với đoàn thuyền thắng lợi trở về:

“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời…

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Hình ảnh mặt trời ở đầu và cuối bài thơ đã diễn tả một chu trình hoạt động của người dân miền biển. Ánh sáng của mặt trời rọi khắp muôn nơi trên biển vừa khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên, vừa biểu tượng cho sự hồi sinh của đất nước của người dân lao động.

Qua bức tranh thiên nhiên miền biển trong bài thơ, chúng ta cảm nhận được một bức tranh tuyệt đẹp, cuốn hút và và vô cùng rực rỡ. Đồng thời cảm nhận được sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp của người lao động khỏe khoắn, tươi vui, hăng say lao động.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 5

Biển cả mênh mông luôn mang lại nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nếu Xuân Quỳnh cảm nhận những cơn sóng biển dạt dào luôn khao khát yêu thương thì Huy Cận lại nhìn về biển với sức sống mạnh liệt, là một bức tranh kì vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên. Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một đất nước. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

Mở đầu bài thơ là bức tranh về hoàng hôn trên biển rộng. Giữa màn đêm đang dần lấn chiếm không gian bao la của vũ trụ, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả. – một ngày lao động trên biển bắt đầu:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả vẻ đẹp của biển với nguồn tài nguyên vô tận, mặt trời lắng và giấc ngủ sâu sau một ngày dài cũng là lúc các sự vật trên biển bừng thức:

Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi.

Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Kết hợp giữa bút pháp tả thực và trí tưởng tượng vô cùng phong phú, những luồng cá được ví như đoàn thoi, dệt lên muôn luồng sáng trên tấm lưới khổng lồ. Trong đêm đen giữa biển cả bao la, những luồng sáng vút lên như chứa chan bao hi vọng của người đi biển và đó cũng là sự ưu ái ban tặng nguồn tài nguyên phong phú của biển cả cho những ngư dân. Không chỉ có cá thu, cá bạc, mà các loài cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… cũng đang hòa chung khúc hát, tạo nên khúc ca hùng tráng của biển khơi.

Mặt trời đã tắt nhưng ánh trăng chiếu rọi luồng sáng trên cao xuống mặt biển dập dìu sóng nước, tạo ra không gian lãng mạn, huyền ảo Sự phối hợp màu sắc của thiên nhiên với màu sắc của các loài cá trên biển tạo nên những màu sắc rực rỡ: lấp lánh, đen hồng, vàng chóe,… đã khiến bức tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn.

Vẻ đẹp thiên nhiên thật đẹp đẽ, tràn đầy hơi thở sự sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Biển cả trù phú, giàu có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn, trưởng thành. Người dân chài gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.

Sau một đêm lao động vất vả, khẩn trương, trời đã trở về sáng. Hình ảnh mặt trời một lần nữa xuất hiện trong bài thơ. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đội biển nhô lên thật tuyệt diệu. Bình minh lên cũng là lúc người ngư dân trở về bến cảng, với những khoang thuyền đầy ắp cá. Mặt trời và ánh sáng của bình minh tươi đẹp đã chiếu rọi vào đôi mắt cá như khẳng định những thành quả lao động của con người sau bao vất vả. Mặt trời ngày mới như ánh hoàng quang rực rỡ tô điểm cho chiến thắng của những người ngư dân sau một chuyến ra khơi thành công rực rỡ.

Cảnh hoàng hôn và cảnh bình minh trên biển được đặt ở vị trí đầu và cuối bài thơ đã mở ra một không gian rộng lớn là thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ, đó cũng là nhịp sinh hoạt của những người ngư dân về một đêm đánh cá trên biển. Cùng với đó, câu hát cũng được những người ra khơi cất lên từ lúc ra đi cho đến trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Câu hát mang âm điệu nhẹ nhàng phơi phới diễn tả khí thế hăm hở và sảng khoái vì thành quả tốt đẹp của đêm lao động cật lực. Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một trường liên tưởng về một tương lai tốt đẹp, những hi vọng vào một cuộc sống mới đủ đầy cho đất nước hôm nay.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Qua đó, cũng cho thấy khả năng quan sát tỉ mỉ về bức tranh thiên nhiên đầy sinh động, trí tưởng tưởng phong phú cùng sự chắt lọc ngôn từ tinh tế của Huy Cận. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên.

Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” số 6

Năm 1958, hưởng ứng phong trào viết về cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Huy Cận cũng xông xáo lên đường. Đoàn thuyền đánh cá là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ. Bài thơ là cảm hứng trước thiên nhiên đất nước, con người và niềm vui, niềm tin tưởng dạt dào trước cuộc sống mới. Đặc biệt, vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ được miêu tả hết sức sinh động và đẹp đẽ.

Mở đầu bài thơ, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước với cảnh hoàng hôn trên bến cảng quê hương:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Không gian trong thơ là biển cả, thời gian là buổi hoàng hôn. Trong thơ xưa, không gian, thời gian này gắn với nỗi buồn, niềm chia biệt. Nhưng trong thơ Huy Cận, cảnh sắc lại rất tươi tắn, không nhuốm nỗi buồn nào. Nhà thơ nhân hoá mặt trời như vị khách của vũ trụ, biển cả là ngôi nhà trần thế, gợn sóng dạt dào là then cài vững chắc, màn đêm là cửa sập… Viết về thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn nhưng thiên nhiên ấy không hề xa lạ mà ấm áp hơi thở của cuộc đời. Các động từ “cài”, “sập” diễn tả hành động mạnh mẽ, dứt khoát khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh hoàn toàn.

Thay thế cho sức sống của vũ trụ trên biển đã khép lại là cảnh lao động của con người đang mở ra. Không tập trung miêu tả hành động cụ thể của bức tranh lao động, tác giả ca ngợi sự giàu có, bao dung của biển cả:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Liệt kê một loạt các loài cá ngon và quí chứng tỏ sự giàu có, phong phú về các loại cá của biển Đông. So sánh cá như “đoàn thoi”, nhân hoá chúng “dệt” tấm lụa trắng lung linh trong lòng biển nhằm ngợi ca vẻ đẹp huyền ảo của biển đêm. Phép liên tưởng độc đáo và sáng tạo “cá Song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi vẻ đẹp của đêm hội hoa đăng trong lòng biển. Cá bơi từng đàn như rước đuốc, đuôi cá quẫy làm tung toé ánh trăng vàng. Một bức tranh sơn mài với những màu sắc rực rỡ, tráng lệ. Biển quê hương đầy ắp ân tình nuôi dưỡng biết bao thế hệ

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào

So sánh lòng biển với lòng mẹ. Tình mẹ bao la, hy sinh hết mực như biển quê hương đã nuôi dưỡng bao đời nay những thế hệ lớn lên từ các làng chài. Câu thơ là lời tri ân biển, bộc lộ những ân tình sâu sắc của biển Quê hương. Nếu mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền mạnh mẽ ra khơi trong buổi hoàng hôn nắng tắt thì kết thúc bài thơ là hình ảnh rạng đông, bình minh ngày mới, đoàn thuyền trở về với chiến lợi phẩm:

Vảy bạc, đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Các tính từ chỉ màu sắc “bạc”,” vàng”, “hồng” diễn tả cái tươi sáng của buổi bình minh. Phép nhân hoá vầng mặt trời “đội biển” khoe màu của ngày mới khiến câu thơ giàu sức biểu cảm. Bình minh đi lên từ đêm tối. Màu mới hay đây chính là hình ảnh của cuộc sống mới đang mang lại những niềm vui phơi phới trong lòng con người lao động.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Giọng thơ mang âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng lạc quan. Với bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống lao động mới.

Hi vọng bài viết giúp ích cho bạn trong quá trình hiểu và phân tích tác phẩm với nhiều dạng đề bài khác nhau. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info

Top 10 Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lớp 9 hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lớp 9 hay nhất

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay viết về người chiến sĩ. Đoạn kết của bài thơ thực đẹp, nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” chính là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí hết sức thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nhất về tư thế chủ động, về tinh thần lạc quan tin tưởng vào chiến thắng, vào một tương lai tươi sáng của đất nước. Cao hơn nữa, đó còn là hình ảnh biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thủa và đó cũng là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay: đoàn kết, dũng cảm, có tinh thần sống lạc quan vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 1

Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết Chú cuội cung trăng hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập Đầu súng trăng treo. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.

Đầu súng trăng treo – đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút rừng hoang sương muối giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hòa quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ…

Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng tỏa ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân nước mặn đồng chua, hay đất cày trên sỏi đá cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cùng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng.

Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cùng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.

Đầu súng trăng treo – hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu – trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc; súng là con người – trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến; súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường – trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hòa tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lý tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng khát vọng hòa bình, nó tượng trưng cho tư thế lạc quan, bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.

Cái thần của câu thơ Đầu súng trăng treo nằm ở từ treo, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ lên cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng treo. Phải, chỉ có Đầu súng trăng treo mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng đứng chờ giặc tới, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là rừng hoang sương muối lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút.

Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan, và Phạm Tiến Duật thì Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa, hay Hoàng Hữu Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa – Ai bỏ quên ở phía chân trời…

Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh Đầu súng trăng treo làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát ly, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam và hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 2

Chính Hữu đã tạo nên hình ảnh người lính trong chiến tranh thật đẹp, thật đáng khâm phục qua bài thơ Đồng Chí. Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ bởi tinh thần của người chiến sĩ mà còn bởi hình ảnh đầy chất thơ: Đầu súng trăng treo.

Với cảnh rừng núi hoang vu, rừng thiêng nước độc, bom đạn ác liệt, người lính càng gắn bó với nhau hơn, để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Đêm lạnh và hoang vu, nhưng người lính vẫn luôn đứng gác, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Nhà thơ đã có cái cảm nhận thật mới mẻ và tinh tế khi kết hợp hai hình ảnh, súng và trăng. Đó là chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn, trái ngược nhau nhưng chúng bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường đã không ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Chính cái tinh thần đồng đội thiêng liêng và lý tưởng chiến đấu cao thượng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đứng giữa cái giá lạnh của núi rừng để chờ giặc, khi trăng đã ngang đầu súng. Người chiến sĩ đã không cảm thấy buồn chán mà trong tâm hồn họ lại khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Người chiến sĩ luôn trong tư thế chiến đấu, súng lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng, hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo.

Hình ảnh đầu súng trăng treo, vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang chất lãng mạn bay bổng. Hai hình ảnh này có sự trái ngược nhau, súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, súng là sự chết chóc là sự tàn khốc, còn trăng tượng trưng cho cái đẹp của cuộc sống yên bình. Muốn tận hưởng cuộc sống yên bình ấy thì phải cầm súng để dành lại.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo đã mang một thi vị lãng mạn cho bài thơ, nó thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm chiến đấu và tình đoàn kết của các chiến sĩ. Bài thơ trở thành động lực tạo nên sức mạnh cho thế hệ trẻ Việt Nam trong việc đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 3

Đồng chí của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua hơn năm mươi năm, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều lớp người cầm súng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ và tuyệt vời thi vị:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường như không còn gây được ấn tượng đe dọa đối với con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã ngang đầu súng. Và lạ lùng thay, người chiến sĩ như có một khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Anh bộ đội hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Cảnh ấy có thể có thật song có thể chỉ là sự liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. (Mũi súng chờ giặc – chất hiện thực quyết liệt; trăng – chất thơ bay bồng). Giữa hai hình ảnh tương phản súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cái đẹp yên lành ấy.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, của người chiến sĩ. Cao hơn nữa, hình ảnh ấy là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 4

Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thờ kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trắng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.

Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy. Giữa rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.

Giữa đếm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.

Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đảm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.

Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và ‘súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.

Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.

Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.

Bởi vậy mới có thể thấy rằng ‘đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất. Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 5

Sau tác phẩm Ngày về, Chính Hữu tiếp tục sở trường viết về người lính trong kháng chiến, đó cũng là đề tài rất mới mẻ của văn học Cách mạng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Bài thơ, tác giả không dùng nhiều nghệ thuật, ngôn ngữ giản dị như những người dân mặc áo lính nhưng những hình ảnh thơ đẹp là điều bất cứ một người đọc nào cũng nhận thấy trong bài thơ của ông. Đặc biệt là hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”.

Cả bài thơ được sáng tác với bút pháp hiện thực, hình ảnh những anh lính cụ Hồ thực, những gian khổ trong chiến tranh thực, tình cảm đồng chí đồng đội thực và những đêm phục kích chờ giặc tới cũng là thực:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Những người lính được giới thiệu trong bài thơ là những người gắn bó với ruộng nương, với “ gian nhà không”, nhưng họ “mặc kệ” như một lẽ quyết tâm sẵn sang rời bỏ tất cả để đi dẹp giặc. Người lính khi ra trận, họ hiểu nhau đến từng khúc ruột, họ chia sẻ tất cả những khó khăn “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Họ chiến đấu bên cạnh nhau với tình cảm thiết tha mặn nồng nhất, cái “nắm tay” đến đúng lúc đủ để họ xóa đi hết những gian khổ:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày.

Tất cả những lý do đó đủ để Chính Hữu kết thúc bài thơ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa biểu tượng của người lính. Họ phục kích trong những đêm “sương muối” độc và lạnh, nó độc và lạnh hơn khi “áo rách”, “chân không giày”, nhưng hơi ấm từ tình đồng đội đã sưởi ấm chính bản thân người lính. Tâm thế sẵn sang “chờ giặc tới” là do “đứng cạnh bên nhau”, gắn bó khăng khít, chia sẻ những cực nhọc trong chiến trường. Những câu thơ không cho thấy khói bụi chiến tranh nhưng lại cho ta thấy sự khốc liệt do cảnh khắc nghiệt mà hoàn cảnh đem lại.

Sau những câu thơ dài như tự sự ấy, câu kết bài thơ “Đầu súng trăng treo” chỉ có bốn tiếng làm cho nhịp thơ đang dàn trải bỗng thay đổi đột ngột, dồn nén, chắc gọn, gây được sự chú ý cao nơi người đọc. Từ “ treo” tạo nên quan hệ bất ngờ nối liền mặt đất với không gian bát ngát. Đó có lẽ là chất thơ bay bổng nhất trong bài thơ. Có người đã liên tưởng “trăng” tượng trưng cho sự yên bình, chất nghệ sĩ, thi sĩ. “súng” tượng trung cho sự chiến đấu, khốc liệt và hiện thực chiến tranh, bởi vậy biểu tượng của người lính là chiến đấu cho cuộc sống hòa bình. Nhưng Chính Hữu có lần tâm sự: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích trong đêm, trước mắt tôi có ba nhận vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật ấy hòa quyện với nhau tạo ra hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.

Như vậy chúng ta cần hiểu biểu tượng mà Chính Hữu xây dựng được vút lên từ chất thơ bay bổng trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt. Suốt đêm vầng trăng từ trên trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo ngay trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích như vậy trăng với người lính giống như bạn hữu. Vậy, biểu tượng của người lính trong bài thơ chưa hẳn là sự chiến đấu mà chính là tình cảm của những người đồng tình, đồng lý tưởng…

“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, xứng đáng để khép lại một tác phẩm thơ thành công của Chính Hữu.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 6

Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, văn học cũng có những bước chuyển mình và phát triển song song cùng với dòng chảy của lịch sử ấy. Văn học qua từng thời kì đều có những khuynh hướng phát triển riêng, nhưng về cơ bản có hai khuynh hướng chính chi phối nền văn học Việt Nam thời kì trung đại và cận hiện đại, đó chính là khuynh hướng yêu nước và khuynh hướng nhân đạo. Hai khuynh hướng này luôn có sự song song phát triển và tồn tại nhưng mỗi khi đất nước có chiến tranh thì khuynh hướng yêu nước lại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nội dung chủ yếu của khuynh hướng này chính là tình yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam. Vào cuộc kháng chiến chống pháp cứu nước đã có rất nhiều các tác phẩm thơ văn nói về tình yêu nước, tinh thần chiến đấu và một nội dung mới đó chính là tình đồng đội, đồng chí. Bài thơ tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến, đó chính là bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.

Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu sáng tác vào tháng hai năm 1948, đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn dữ dội và ác liệt. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn nhằm tấn công và tiêu diệt chiến khu Việt Bắc, cơ quan đầu não cách mạng và buộc quân ta đầu hàng, hoàn thành công cuộc chiếm đóng ở Việt Nam. Khi ấy quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng dữ dội, dù có những đau thương mất mát nhưng người Việt Nam kiên quyết bảo vệ từng tấc đất, đấu tranh đánh bại âm mưu tham độc của kẻ thù. Đồng chí được Chính Hữu sáng tác trong một cuộc hành quân ở khu vực rừng núi phía Bắc.

Bài thơ nói về tình đồng đội đồng chí gắn bó, sẻ chia với nhau từng miếng sắn, mảnh chăn, chia sẻ với nhau cả những tâm nguyện đầy chân thành, cảm động. Và bài thơ đặc biệt nhất ở chi tiết cuối bài thơ, câu thơ “Đầu súng trăng treo” mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, độc đáo. Và cũng chính câu thơ góp phần làm nên những giá trị của bài thơ “Đồng chí”. Trước hết, để hiểu được ý nghĩa của câu thơ cuối bài thì ta cần hiểu hơn về nội dung của bài thơ cũng như nội dung chủ đạo của bài thơ là tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Có như vậy thì ta mới có thể hiểu trọn vẹn được ý nghĩa đẹp mà câu thơ cuối mang lại.

Nói về tình đồng đội, đồng chí, ngay phần mở đầu của bài thơ, nhà thơ Chính Hữu đã trực tiếp gợi mở những ấn tượng đầu tiên về bức tranh của tình đồng chí. Đó là bức tranh được vẽ lên bởi những nét tương đồng trong lí tưởng cao đẹp của họ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Như vậy, trong ấn tượng đầu tiên thì những người lính vốn không hề quen biết, cũng không hề có một mối liên hệ đặc biệt nào, họ đến từ những vùng quê khác nháu của tổ quốc, và nét tương đồng trong hoàn cảnh sống, đó là quê hương họ đều nghèo khó “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”, từ hoàn cảnh sống có phần khó khăn, họ có cùng một lí tưởng đó là cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước, làng bản, bảo vệ chính cuộc sống của mình. Vì vậy mà họ từ những người vốn chẳng quen biết mà gặp nhau và trở thành những người đồng đội. Khi đó, lí tưởng chiến đấu khiến họ trở thành những người đồng đội, nhưng quá trình cùng chia sẻ những điều kiện sinh hoạt, chiến đấu đầy khó khăn, ác liệt khiến mối quan hệ đồng đội thắt chặt trở thành tình đồng chí:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

Xác định vào chiến trường là những người lính xác định dâng hiến hết mình cho nền độc lập, hòa bình của tổ quốc, thậm chí họ đánh đổi cả mạng sống của mình cho nền tự do, độc lập ấy. Họ luôn mang trong mình lí tưởng cao đẹp: sống, chiến đấu, hi sinh:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Vậy là những người lính một khi ra đi là họ quyết dâng hiến tất cả cho Tổ quốc thân yêu, họ mang trong mình tinh thần của những bậc chinh phu nghĩa sĩ xưa, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Những từ ngữ như “gửi”, “mặc kệ” nghe qua dường như là sự vô tư, bất cần, tinh thần xả thân vô tư của những người lính. Nhưng thực sự liệu có phải chỉ có như vậy không? Những người lính họ yêu đất nước nhưng họ cũng yêu gia đình, làng quê, xứ sở của mình. Đối với nơi mình yêu thương, gắn bó đâu có phải nói đi là không có chút lưu luyến gì.

Nhưng họ càng yêu quê hương, càng gắn bó với nó thì họ lại càng quyết tâm chiến đấu. Những lời tâm sự của những người lính với nhau là những lời dặn dò, là những trách nhiệm họ muốn những người đồng đội thực hiện thay mình, vì họ lường hết được cái ác liệt của chiến tranh, sự sống trong không gian mưa bom bão đạn ấy cũng hết sức mỏng manh.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Những câu thơ cuối thật đẹp, đẹp bởi hình ảnh hiên ngang, bất khuất của những người lính trong không gian đầy khắc nghiệt của núi rừng. Hoàn cảnh chiến đấu nơi thâm sơn cùng cốc vốn đầy khắc nghiệt, hiểm nguy, trong không gian đêm khuya, sương muối dày đặc lạnh cắt da cắt thịt nhưng những người lính vẫn đứng bên nhau. Họ thức làm nhiệm vụ, họ chờ giặc tới, để giành được thắng lợi cuối cùng thì không có một phút giây nào được lơ là mất cảnh giác, kể cả đêm khuya, thời tiết khắc nghiệt cũng không làm bước chân của họ lùi bước, không làm cho ý chí của họ bị lay chuyển, ảnh hưởng.

Hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo” được coi là hình ảnh đẹp, ý nghĩa nhất của bài thơ. Câu thơ tuy chỉ có bốn chữ nhưng lại gợi cho chúng ta rất nhiều những liên tưởng độc đáo. Trước tiên, ta có thể hiểu là súng là những thứ vũ khí mà những người lính luôn mang theo bên người. Vì vậy mà khi người lính đứng gác đêm thì ngọn súng cũng trở thành những người bạn đồng hành trong cuộc chiến đấu ấy. Và dưới ánh trăng thì hình ảnh ngọn súng dường như đón nhận mọi ánh sáng của mặt trăng, nhìn từ xa thì mặt trăng như treo ở trên ngọn súng. Tuy nhiên đó chỉ là cách cảm nhận trực tiếp, theo tôi còn có một cách hiểu mang nhiều ý nghĩa hơn.

Ngọn súng là vũ khí của những người lính nhưng nó cũng là biểu tượng của chiến tranh, của sự hủy diệt bạo tàn. Còn ánh trăng lại thuộc về tự nhiên, nó biểu tượng cho cái đẹp, cho nền hòa bình mà người Việt Nam vẫn ngày đêm đấu tranh bảo vệ. Sự giao thoa giữa ngọn súng và vầng trăng như thể hiện được khát vọng hòa bình, khát vọng về một cuộc sống bình yên, không tiếng súng, không chiến tranh, không có sự hủy diệt. Đó là một đời sống lí tưởng mà những người lính hướng tới.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 7

Trong thời kỳ kháng chiến của Việt Nam xuất hiện biết bao nhà thơ kháng chiến. Có lẽ chính họ đang sống trong cái thời kỳ chiến tranh kịch liệt, đứng giữa sự sống và cái chết. Chứng kiến những cuộc sống gian khổ, tâm hồn thi sĩ của họ đã thốt lên thành những câu thơ, bài hát. Và điển hình trong những nhà thơ cách mạng đó chính là Chính Hữu.

Nói đến ông là người ta sẽ nhớ đến ngay bài thơ “Đồng Chí”. Một bài thơ tạo bởi những nét bút chân thực, dữ dội nhưng trong đó là những sự lãng mạn. Hình ảnh người lính đã được khắc họa vô cùng đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu. Một câu thơ phải nói là hay nhất và ẩn chứa trong đó nhiều điều nhất.

Cả bài thơ Đồng Chí khi chúng ta đọc lên, chúng ta sẽ thấy được hình ảnh những người lính cụ Hồ vượt qua gian khó, hiên ngang, bất khuất. Họ đã phải hứng chịu mọi gian khổ sống trong rừng hoang, lạnh tê người bởi những làn sương muối lạnh. Nhưng trong cái gian khổ đó, họ ủ ấm tình yêu thương đoàn kết bên nhau. Đứng cạnh bên nhau canh gác chờ đợi kẻ thù đến.

Và trong cái khung cảnh “rừng hoang sương muối lạnh đó” họ dường như vẫn thức tỉnh được tâm hồn lãng mạn của mình. Trong cái ánh “trăng treo” ngay ở phía trên đầu họ tưởng như treo trên “đầu súng”.

Một hình ảnh tuyệt đẹp, tạo nên một nét chấm phá trong một không gian hoang sơ và lạnh lẽo. Nếu như hai câu thơ trên thể hiện sự khắc nghiệt của thời tiết. Và người lính vẫn bất chấp những khắc nghiệt bủa vây quanh mình. Vẫn hiên ngang không hề sợ hãi “chờ giặc tới” với tâm thế luôn sẵn sàng khiến người đọc phải thực sự ngưỡng mộ. Thì câu cuối của khổ thơ “đầu súng trăng treo” khiến chúng ta phải ngưỡng mộ họ hơn. Khi mà trong cái hoàn cảnh khó khăn đó vẫn toát lên được một vẻ đẹp tâm hồn của họ, đó là sự yêu đời, sự lạc quan.

“Súng” và “trăng” hai hình ảnh này thực sự là khác nhau. “Súng” đại điện cho đấu tranh, và tượng trưng cho điều gì đó mạnh mẽ. “Trăng” là đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên, sự mềm mại của cuộc sống, với những khát vọng. Phải chăng nhà thơ đang muốn hòa quyện hai hình ảnh này. Ông muốn nói đến việc những người lính đã phải đang dùng đến sức mạnh của “súng” để có thể có được những khát vọng hòa bình dưới “ánh trăng”.

Cái lãng mạn trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt đã thực sự quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa núi rừng hoang sương muối lạnh. Một chất liệu lãng mạn trong sự khắc nghiệt đã làm nổi bật lên cho toàn bài thơ. Những người lính Việt Nam dù tuổi đời còn trẻ, nhưng họ luôn sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Cho dù họ có thể phải hi sinh thân mình. Nhưng họ hiểu “không có tự do” thì “không có gì cả”. Không có “đất nước” thì coi như họ “đã chết”. Chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ và trách nhiệm của họ.

Hình ảnh người lính thức đêm canh gác biên cươngThế nên dù có khó khăn gian khổ thế nào tâm thế của họ vẫn thể hiện hiên ngang, vẫn lạc quan, vẫn có sự lãng mạn bay bổng. Ngắm lên trời cao trong một tiết trời giá lạnh, rừng hoang âm u. Thấy được ánh trăng đẹp có khác gì trăng đang treo trên “đầu súng” với mũi súng hướng lên trời cao.

Một bức tranh đối lập nhưng đã được nhà thơ Chính Hữu thể hiện một cách tinh tế tạo nên một sự hài hòa đặc sắc. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” như là một sự lan tỏa dịu nhẹ cho toàn bài thơ. Nó cũng như một sự an ủi cho tâm hồn của những người lính trẻ. Những người đọc cũng cảm thấy có một thứ gì đó thật trong sáng. Thật lãng mạn trong tâm hồn người lính, cảm thấy được tình yêu đời của họ, những khát khao của họ về một cuộc sống yên bình.

Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong một câu thơ đã để lại bao nhiêu cảm xúc trong lòng người đọc. Một câu thơ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ những người lính Việt Nam kiên cường bất khuất.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 8

Đồng chí của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua hơn năm mươi năm, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều lớp người cầm súng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ và tuyệt vời thi vị:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường như không còn gây được ấn tượng đe dọa đối với con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng.

Đêm khuya chờ giặc, trăng đã ngang đầu súng. Và lạ lùng thay, người chiến sĩ như có một khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Anh bộ đội hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Cảnh ấy có thể có thật song có thể chỉ là sự liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. (Mũi súng chờ giặc – chất hiện thực quyết liệt; trăng – chất thơ bay bồng). Giữa hai hình ảnh tương phản súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cái đẹp yên lành ấy.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, của người chiến sĩ. Cao hơn nữa, hình ảnh ấy là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 9

Nhà thơ Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến. Ông thường viết về những cuộc chiến tranh đầy nét chân thực, dữ dội mà không kém phần lãng mạn trong những vần thơ. “Đồng Chí” là một trong những bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ được miêu tả một cách tiêu qua qua những hình ảnh người lính được khắc hoạ đậm nét và đầy ấn tượng và sự khốc liệt của chiến tranh nhưng thơ ông vẫn giữ được sự mềm mại và trữ tình.

Bài thơ “Đồng Chí” được bao trùm lên bởi hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn thế nhưng vẫn không thể đánh gục ý chí và tinh thần của những con người vì nước vì dân như vậy. Giữ rừng hoang vu sương muối bao quanh lấy. Hình ảnh “đầu súng trăng treo”như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba duy nhất chỉ có ánh trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này. Giữa đêm đông lạnh giá, sương muối bao chùm vây quanh khiến cho người lính rét run người. Dù có khắc nghiệt, khó khăn vây quanh mình nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn”đứng bên nhau” để chờ”giặc tới” tư thế và tâm thế của họ luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta càng khâm phục và ngưỡng mộ.

Không phải vô tình mà ba câu thơ này lại được sáng tác thành một khổ riêng mà đó có lẽ là dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và cảnh chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.

Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “súng” và “trăng”tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn chữ tình cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ chính hữu nó lại trở nên mềm mại. Súng biểu tượng cho người chiến sĩ, trăng biểu tượng cho người thi sĩ. Trăng và súng không đối lập với nhau mà hoà quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữ rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.

Ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng xa quê hương xa những người thân để đi chiến đấu chính vì vậy những nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua ánh trăng, những hình ảnh đó đã tạo nên sự gần gũi, hình ảnh quen thuộc trong mọi cách nghĩ và hình dung ra những hình ảnh mang ý nghĩa đặc biệt hơn. Hàng loạt các chi tiết đã mang lại ký ức đẹp và nó trở nên quen thuộc và gần gũi với con người hơn.

Ánh trăng đã trở nên quen thuộc và gắn bó trong từng kỉ niệm và các khoảnh khắc của tác giả, nó đã mang trong chúng ta những điều gần gũi khi hình ảnh “đầu súng trăng treo” luôn trở thành một đề tài nổi bật của tác giả. Những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến con người, đã cho người chiến sĩ những kỉ niệm sâu sắc vô cùng.

Những người lính họ có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng luôn ấm ủ trong mình những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay là bóng dáng một người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nhiệt nhưng không để nó làm trái tim của những người lính bị chai lì mới thực sự là điều đáng quý. Bởi vậy, có thể thấy rằng hình ảnh “đầu súng trăng treo” dường như lan toả thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng lan vào lòng những người lính mát dịu và trong lành nhất.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng luôn hướng lên trời mà tưởng chừng có thể chạm đến trăng. Một nét điểm xuyết tạo nên một bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hoà và tinh tế. Nhà thơ chính hữu đã thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo” đi sâu vào tâm trí người đọc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 10

Chính Hữu là một nhà thơ cách mạng, ông trưởng thành trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Những tác phẩm của ông đều để lại sự mộc mạc giản dị, nhưng không kém phần lãng mạn, tinh tế.

Bài thơ “Đồng chí” được tác giả Chính Hữu viết trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ xâm lược. Thể hiện sự bi tráng, anh hùng của người lính, của chiến sĩ bộ đội cụ Hồ dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, nhưng không kém phần lãng mạn, thi vị trong cuộc sống, trong hoài bão lý tưởng.

Đề tài người lính không phải đề tài mới mẻ nhưng với tác giả Chính Hữu hình ảnh người lính được khắc họa khá chân thực, ấn tượng thể hiện sự tà khốc của chiến tranh, của đạn bom. Nhưng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” lại là một hình ảnh vô cùng lãng mạn, thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng hình tượng thơ.

Bao trùm lên toàn bài thơ là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, kiên trung, hiên ngang bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử thách vẫn một lòng bền gan quyết chí hướng tới miền Nam ruột thịt, thống nhất nước nhà. Cuộc sống dù có nhọc nhằn, gian khổ thiếu thốn vẫn không đánh bại được ý chí sự kiên trì của những con người vì dân vì nước mà hy sinh quên mình.

Người lính ra trận phải đối diện với nhiều khó khăn, hình ảnh rừng hoang sương muối, thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Thể hiện sự khổ ải trên con đường cứu nước.

Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như ở câu thơ đầu tiên thể hiện sự nghiệt ngã của thiên nhiên, của địa hình Trường Sơn thì trong hai câu tiếp theo lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Hình ảnh người lính hiên ngang canh gác, chờ quân giặc tới để chiến đấu không hề run sợ lo lắng, thể hiện sự chủ động của người lính.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thể hiện sự đối lập giữa súng và trăng giữa thực tại và tâm hồn người lính là hoàn toàn trái ngược nhau. Dù cuộc sống thực tại có khó khăn khắc nghiệt thì tâm hồn người lính vẫn thi vị đượm chất trữ tình, lãng mạn. Chính Hữu đã thể hiện chất liệu thơ vô cùng lãng mạn, đây là hình ảnh độc đáo thể hiện dụng ý nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Tạo nên một nét chấm phá độc đáo làm nên hình tượng cho bài thơ nhiều sáng tạo. Nó thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của những người lính trẻ đang độ xuân xanh yêu đời, lòng tràn ngập ước mơ hoài bão lý tưởng sống lớn lao.

Tác giả Chính Hữu đã vô cùng đặc sắc khi xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” tạo nhiều ám ảnh trong tâm trí người đọc, nó là hình tượng thành công nhất tạo nên nét riêng của bài thơ.

Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” như là một sự lan tỏa dịu nhẹ cho toàn bài thơ. Nó cũng như một sự an ủi cho tâm hồn của những người lính trẻ. Những người đọc cũng cảm thấy có một thứ gì đó thật trong sáng. Thật lãng mạn trong tâm hồn người lính, cảm thấy được tình yêu đời của họ, những khát khao của họ về một cuộc sống yên bình.

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh hay nhất

Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều, viết hay về cuộc sống và con người ở nông thôn. Thơ ông giản dị nhưng vô cùng tinh tế và sâu sắc. Bài thơ “Sang thu” ra đời gần cuối năm 1977, khi đất nước mới thống nhất hòa bình in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc bởi lời thơ trong sáng, dung dị, hình ảnh sinh động, nhiều cảm xúc. Bài thơ là những cảm nhận tinh tế cùng sự quan sát tỉ mỉ về biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu, từ đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Mời bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh để cảm nhận vẻ đẹp của thi phẩm này.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 1

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác.

Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài “Sang thu” được ông sáng tác cuối năm 1977.

Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu. Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

“Bỗng nhận ra” là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi.

“Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu.

“Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ.

Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên. Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuôn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản.

Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vừa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ được nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm. Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng.

Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.

Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 2

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

“Sang thu” là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được.

Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa. Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về những điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất.

Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi. Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời bắt đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả.

Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

Từ “vắt” dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có nhưng chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến “hàng cây đứng tuổi”.

Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta “đứng tuổi” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lên đời người ở tuổi xế chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa.

Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ “Sang thu” độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 3

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.

Bỗng nhận ra hương ổi

……..

Trên hàng cây đứng tuổi.

Từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Những biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và thể hiện qua những hình ảnh thơ mộng, giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, dấu hiệu của mùa thu không phải là: “Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không phải là “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống; lệ ngàn hàng” như trong thơ Xuân Diệu cách đây hai phần ba thế kỉ.

Vốn hiểu biết nhiều về nông thôn nên Hữu Thỉnh đã đưa vào bài thơ những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà vô cùng quen thuộc của quê hương:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Đây là khung cảnh một sáng chớm thu ở làng quê Bắc Bộ. Trước hết nhà thơ bất chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió mang hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.

Tiếp theo là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ. Lập thu, tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Sương cũng là một trong những dấu hiệu của mùa thu. Sương chùng chình qua ngõ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Nhà thơ ngỡ ngàng và sung sướng thầm thốt lên: Hình như thu đã về.

Hai từ bỗng và hình như làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu – nguồn cảm hứng bất tận của thơ, ca, nhạc, họa. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se.

Tiếp theo là thị giác mở rộng để tiếp nhận những tín hiệu báo thu sang. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, lũy tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác giao mùa được nhà thơ diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào hồn từ lúc nào chẳng rõ. Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống.

Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay những nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 4

“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt đến.

“Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tớ

iVới áo mơ phai dệt lá vàng.” (Đây mùa thu tới)

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê được “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu.”

“Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm lừng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu “se” lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn phả vào đất trời và hồn người.

Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bằng Sơn, Nguyễn Đình Thi,… đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới…” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

“Hương ổi” trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh. Sau “hương ổi” và “gió se”, nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh… Khói thu xây thành” trong “Cám thu tiền thu” của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun” (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.”

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu về. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Chữ “se” vần với chữ “về” (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: “Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ” (“Tức cảnh chiều thu” – Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ… Chim bay “vội vã”, đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam.

Trong số đàn chim bay “vội vã” ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?” Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,… mà lại dùng chữ vắt.

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ, gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời.

Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài “Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Hữu Thỉnh viết bài thơ “Sang thu” vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

“Sang thu” là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ “Từ chiến hào tới thành phô” xuất bản vào tháng 5/1985. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị.

Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thơ ngũ ngôn trong “Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 5

Vào cuối năm 1977, khi chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình lập lại, trong một buổi chiều thu, ra ngoại thành Hà Nội, đến thăm một vườn ổi chín, hương vị dịu dịu… một chút ngỡ ngàng, một chút xao xuyến, Hữu Thỉnh tức cảnh sinh tình. Trong ánh nắng hoàng hôn vàng óng, bài thơ Sang thu ra đời. Hãy tưởng tượng ta đang cùng với nhà thơ đứng giữa vườn ổi mà ngâm nga bài thơ tuyệt vời của ông.

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng, súc tích. Cả bài thơ là giọng điệu nhẹ nhàng, đôi lúc trầm lắng suy tư. Bài thơ là sự rung động của hồn thơ trước thiên nhiên khi đất trời sang thu, một bức tranh giao mùa tuyệt đẹp. Mở đầu bài thơ, người đọc có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”.

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Nhưng chính cái bất ngờ ấy mới thật nên thơ và đáng yêu trong một buổi chiều thu ở làng quê Bắc Bộ, nhà thơ đã chợt nhận ra điều gì? “Hương ổi phả vào trong gió se”. Vì sao lại là hương ổi chứ không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bức tranh mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu… nhưng Hữu Thỉnh thì không.

Đứng giữa vườn ổi chín vàng, giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc với quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận thật tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra những dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả.

Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm, nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế? Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến.

Từ “phả” được dùng trong câu thơ “Phả vào trong gió se” mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến vì cái hương đồng gió nội ấy. Không chỉ có hương ổi trong “gió se”, tiết trời sang thu còn có hình ảnh:”Sương chùng chình qua ngõ”.

Từ “chùng chình” gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng mắc vào giậu rào, hàng cây khô trước ngõ xóm đầu thôn. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự hay tâm trạng tác giả cũng “chùng chình”?

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ: “Hình như thu đã về”. “Hình như” không có nghĩa là không chắc chắn mà thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương Ổi chín thơm, vàng ươm nơi vườn tược đến cái duyên dáng yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ.

Tác giả đã nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của thời tiết và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn bó với cuộc sống nơi làng quê, của một người lính đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh. Nếu không phải là Hữu Thỉnh, liệu ta có cảm nhận được cái duyên hương thu, có được cái tâm trạng như nhà thơ không?

Dùng dằng hoa quan họ

Nở tím bên sông Thương

Nắng thu đang trài đẩy

Đã trăng non múi bưởi

Bến cần con nghé đực

Cả chiều thu sang sông? (Chiều sông Thương)

Sang thu đậm chất dân gian làng quê dân dã, mang đậm hơi thở của ruộng đồng, nhưng vẫn rõ nét triết lí.

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”.

Mưa bớt dần, sấm mùa hạ ít đi khi sang thu, hàng cây không còn phải giật mình đột ngột. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng hai câu thơ còn có ý nghĩa hàm ngôn: “Sấm” là những âm vang, tiếng động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chính là những con người từng trải, đứng tuổi và họ sẽ vững vàng hơn trước tác động của ngoại cảnh.

Khi sáng tác Sang thu, Hữu Thỉnh cùng với dân tộc vừa trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Cuộc chinh chiến ấy như một mùa hạ oi ả, bức bối. Sống những năm tháng hòa bình, vào một buổi chiều thu êm ả thanh bình ở làng quê, tác giả cảm nhận sự thanh thản trong tâm hồn như “sông được lúc dềnh dàng” bởi trước kia dẫu muốn con người cũng chẳng thể dềnh dàng, chùng chình, cho nên dẫu có gặp sóng gió cuộc đời, tác giả vẫn “bình tĩnh chấp nhận đương đầu, không trở ngại nào đánh gục được”.

Hai câu thơ chất chứa suy tư và trải nghiệm về con người và cuộc sống. Nếu ở khổ 1, trạng thái cảm xúc của tác giả mới chỉ là “bỗng”, “hình như”, thì ở khổ còn lại, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của tạo vật:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã”.

Vì sao sông thì “dềnh dàng” còn chim lại “vội vã”? Đây là những cảm nhận rất tinh tế và có cơ sở khoa học nhưng vẫn giàu sức biểu cảm. “Sông được lúc dềnh dàng” vì sang thu sông bắt đầu cạn, chảy chậm lại, không cuồn cuộn ào ạt như mùa hè, rất thư thả và chuyển động chậm rãi.

Còn những đàn chim vội vã vì mùa hè chim trú mưa, ít có cơ hội kiếm mồi. Bây giờ sang thu khô ráo hơn, chúng tranh thủ đi kiếm mồi và trú rét ở phương Nam khi trời ấm áp. Hai hoạt động dường như có vẻ đối lập nhau, nhưng với lối nhân hóa, Hữu Thỉnh đã phả hồn người vào vật, tác giả đã làm cho con sông trở nên duyên dáng, gần người hơn, thể hiện một không gian đẹp, khơi gợi hồn thơ. Dấu hiệu sang thu còn được miêu tả rất sinh động qua hình ảnh:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”.

Đây là một liên tưởng sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong vắt, xanh ngắt. “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến). Sự thật, không hề có đám mây nào như thế. Vì sao có sự phân chia rạch ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời. Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả.

Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ, cũng dềnh dàng, chùng chình, bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận không gian và thời gian lúc chuyển mùa mới đẹp làm sao! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài và tiêu biểu nhất của tiết trời sang thu. Nhà thơ cảm nhận những biểu hiện nào khác của thời tiết khi chuyển hạ qua thu?

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa”.

Đại từ phiếm chỉ “bao nhiêu” diễn tả số nhiều. Không đếm được. Làm sao đếm được nắng, nhưng tác giả cảm nhận rằng cuối hạ đầu thu đã bớt nồng nàn, oi ả, tia nắng đã bớt rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần, không chỉ vơi mà mưa cũng ít dần.

Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ, đoạn thơ gần tứ thơ này nhưng không tài hoa, bất ngờ, thú vị bằng. Chẳng hạn:

“Đi suốt cả ngày thu

Vẫn chưa về tối nao”

Sang thu là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thị triết lí, đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về mùa thu quê hương, đem đến cho chúng ta tình quê hương đất nước qua nét đẹp mùa thu Việt Nam.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 6

Có lẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thường gợi cảm hứng cho thi ca, nhạc họa nhiều nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu… và cũng viết về đề tài mùa thu, nhà thơ Hữu Thỉnh với thi phẩm “Sang thu” đã có những cảm nhận về phút giây giao mùa chuyển từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhàng. Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ, thiết tha, sâu lắng của Hữu Thỉnh.

Mở đầu bài thơ là những cảm nhận ban đầu trước những tín hiệu dịu nhẹ lúc sang thu trong một không gian thu rất gần và hẹp:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Tín hiệu đầu tiên báo hiệu thời khắc của sự giao mùa từ cuối hạ sang thu là hình ảnh “hương ổi” bay phảng phất trong gió se. Hương ổi chín thơm ấy, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Quen thuộc vì nó là hương thơm thường gắn liền với đồng quê, thôn xóm của người Việt, rất dân dã, mộc mạc. Nhưng nếu trong thơ xưa, các nhà thơ khi miêu tả cảnh thu thường gắn liền với ao thu, bầu trời thu hay bông hoa cúc vàng rực rỡ, một chiếc lá vàng khô… thì ở đây, Hữu Thỉnh lại cảm nhận tín hiệu ban đầu báo hiệu thời khắc của sự chuyển giao mùa hạ sang thu là hương ổi.

Điều đó đã tạo nên sự mới mẻ trong cách cảm nhận và miêu tả cảnh thu của nhà thơ. Hương thơm ngát của ổi chín đã đượctác giả miêu tả qua động từ “phả”. Từ “phả” diễn tả một mùi hương nồng nàn, đậm đà, lan tỏa trong gió se. “Gió se” là một loại gió chỉ có trong mùa thu, hơi khổ, se se lạnh. Và chính ngọn gió đầu mùa ấy đã đưa mùi hương bay tỏa ra khắp không gian làm nên vẻ đẹp của mùa thu.

Mùa thu tới không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Không gian thu lãng đãng hơi sương, tạo cho khung cảnh thu thêm lãng mạn. Làn sương được nhân hóa qua động từ “chùng chình”, có tác dụng gợi tả những làn sương mỏng manh, nhẹ nhàng như cố ý chậm lại, như lưu luyến chưa muốn bước hẳn vào thu. Ngõ ở đây vừa là ngõ thực của thôn làng, ngõ xóm; lại vừa là ngõ cửa của thời gian như chao nghiêng ranh giới giữa hai mùa, mùa hạ thì chưa muốn qua mà mùa thu thì chưa muốn tới.

Cảm xúc trước của nhà thơ trước những tín hiệu mùa thu đã được tác giả diễn tả qua từ “bỗng”, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bất ngờ khi phát hiện ra những tín hiệu đó. Và thiên nhiên, trời đất đã được tác giả mở lòng ra mà đón nhận bằng tất cả các giác quan với những rung động thật tinh tế, nhẹ nhàng: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ tất cả các tín hiệu trên (gió, hương, sương) tác giả đi đến kết luận: “Hình như thu đã về”.

Đây là một sự phỏng đoán bằng cảm giác, bằng linh tính của tâm hồn. “Hình như” là từ tình thái thể hiện sự tin tưởng thấp, chưa chắc chắn, vẫn còn mơ hồ. Trạng thái cảm xúc này không chỉ phù hợp với cảnh thu mà cũng rất phù hợp với logic tâm trạng. Bởi những tín hiệu của mùa thu đều là những tín hiệu vô hình, không có hình khối, màu sắc rõ ràng, cụ thể nên nhà thơ mới có cảm xúc ngỡ ngàng, bâng khuâng, có phần hơi bối rối trước tín hiệu mùa thu.

Nếu như khổ thơ đầu, không gian thu được co hẹp trong một không gian rất gần và hẹp thì tới khổ hai, không gian thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn, từ mặt đất lên bầu trời:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Hình ảnh dòng sông được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”, tức là chậm chạp, thong thả. Dòng sông không còn cuồn cuộn, gấp gáp chảy trước những cơn mưa lũ của mùa hạ nữa mà thay vào đó, nó trở nên lắng lại, từ từ, nhẹ nhàng, lững lờ trôi. Dường như, dòng sông cũng ngập ngừng như muốn níu kéo mùa hạ, chưa muốn sang mùa thu.

Ngược lại với sự “dềnh dàng” của dòng sông là trạng thái “vội vã” của cánh chim đang mải miết bay đi tránh rét khi chúng bắt đầu cảm nhận được cái se se lạnh của tiết trời đầu thu. Nghệ thuật đăng đối ở hai câu thơ đầu tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, rất chỉnh, giàu tính chất tạo hình, đồng thời làm cho không gian thu trở nên rộng mở hơn, rất khoáng đạt.

Khép lại khổ thơ là hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động “vắt nửa mình”. Hình ảnh thơ rất giàu tính chất tạo hình trong không gian và có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trắng buốt mềm mại trải dài như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời, rất nhẹ nhàng, duyên dáng. Và mây cũng chính là ranh giới chao nghiêng giữa hai mùa hạ – thu.

Cảnh vật trở nên vừa hư lại vừa thực, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và hết sức độc đáo, mới mẻ của tác giả. Tóm lại, với một hệ thống những hình ảnh đẹp, giàu tính chất tạo hình trong không gian, kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, tương phản, nhà thơ đã khắc họa thành công khung cảnh trời đất khi bắt đầu vào thu thật sống động, tinh tế, nhẹ nhàng.

Chắc chắn Hữu Thỉnh phải là một ngòi bút tài năng, một tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu thiết tha với thiên nhiên tạo vật thì mới tạo nên câu thơ viết về mùa thu đẹp, lãng mạn đến như vậy. Từ những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến và những rung động mãnh liệt trước những phút giây giao mùa vào thu ở khổ một, hai, nhà thơ chuyển sang giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.”

Nhà thơ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Vẫn là sấm, mưa, nắng, những hiện tượng thời tiết của mùa hè nhưng trong khoảnh khắc giao mùa này đã có sự đổi thay về mực độ. Cái nắng nóng chói chang của mùa hạ đã dần nhạt màu, không còn gay gắt như còn ở giữa mùa hạ; những cơn mưa rào bất chợt ào ào kéo đến cũng đã vơi dần đi.

Sấm chớp kéo theo những cơn dông lốc dữ dội cũng bớt đi, cũng trở nên thưa thớt hơn nhiều. Những từ như “vẫn còn”, “vơi dần”, “cũng bớt” đã có tác dụng diễn tả những hiện tượng của tự nhiên đó (sấm, mưa, nắng) đã giảm đi về mức độ và cường độ khi trời đất đang giao mùa cuối hạ, đầu thu rất nhẹ nhàng, khó nhận biết.

Thế nhưng, với một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ đã phát hiện ra sự chuyển biến đó của thiên nhiên, vũ trụ. Từ hiện tượng của tự nhiên, nhà thơ suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

“Sấm” là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho những tác động của ngoại cảnh với những biến động của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” là những cành cây lâu năm, cành lá sum suê, rễ cắm sâu xuống lòng đất vô cùng chắc chắn. Những hàng cây này đã trải qua biết bao nhiêu mùa bão giông với những biến thiên của trời đất. Và nó biểu trưng cho những con người từng trải đã đi qua biết bao nhiêu những khó khăn, vất vả, hiểm nguy trên đường đời.

Như vậy, bằng nghệ thuật ẩn dụ, nhà thơ thể hiện sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời con người: con người từng trải sẽ trở nên vững vàng hơn trước những thử thách trong cuộc đời. Lúc viết bài thơ này, Hữu Thỉnh mới chỉ hơn ba mươi tuổi, ấy vậy nhưng Hữu Thỉnh đã tự cho rằng mình là người từng trải.

Có lẽ điều này xuất phát từ hoàn cảnh của ông xuất thân từ một người lính, đã trải qua biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan, vất vả; với biết bao nhiêu tang tóc, hi sinh, mất mát nơi chiến trường khốc liệt… nên đã rèn luyện cho nhà thơ một bản lĩnh cứng cỏi và nghị lực vươn lên, dám đương đầu với mọi biến động bất thường mà cuộc sống sẽ xảy ra.

Đặt câu thơ “sấm cũng bớt bất ngờ” vào trong một hệ thống các câu thơ ở khổ một, hai như làn “sương chùng chình qua ngõ” và “vắt nửa mình sang thu”, người đọc chợt nhận ra sự lưu luyến muốn níu kéo thời gian của nhà thơ khi nhận ra sự sang thu của tạo vật cũng chính là sự “sang thu” của đời người…

Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi , ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi bắt đầu sang thu. Đọc xong bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ trong cách cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh, đồng thời thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước sâu sắc của nhà thơ.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 7

Hữu Thỉnh là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thường chứa đựng cảm xúc tha thiết, chân thành và rất giàu chất suy tư, triết lý. Sang thu cũng là một tác phẩm như vậy. Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc từ khoảnh khắc giao mùa nhưng đằng sau đó còn là cảm xúc của tác giả về đời người lúc sang thu.

Tính chất suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh được thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Sang thu không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời khi hè đã qua và mùa thu đang cựa mình đi tới. Mà sang thu còn ẩn dụ về cuộc đời con người. Đây là thời điểm con người đã sang thu, đã trải qua biết bao sóng gió, bởi vậy cũng trở nên vững vàng hơn trước mọi cơn giông bão của cuộc đời.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Tín hiệu đầu tiên mà tác giả cảm nhận được chính là hương ổi, một mùi hương thật dung dị, đậm chất thôn quê. Hương ổi thật chủ động, tự nhiên “phả vào trong gió se”. Với động từ “phả” tác giả đã miêu tả được hương thơm đậm đà như sánh lại, quện lại và ùa vào gió se đầu thu. Sau sự cảm nhận về thính giác, tác giả tiếp tục cảm nhận mùa thu bằng thị giác với những đám sương chùng chình đi qua ngõ.

Nghệ thuật nhân hóa cùng từ láy “chùng chình” đã làm cho làn sương trở nên sinh động, có hồn. Câu thơ như gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh những hạt sương li ti, bé nhỏ, giăng mắc với nhau tạo thành màn sương mỏng nhẹ. Dáng đi của nó cũng thật chậm rãi, thong thả trước cửa ngưỡng mùa thu, như còn đang lưu luyến, bịn rịn với mùa hè.

Trong giờ phút giao mùa ấy, lòng nhà thơ như đắm chìm vào không gian bàng bạc chất thu. Đó là cảm giác bất ngờ khi gặp tín hiệu thu về “bỗng” – là sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, một niềm vui, một thoáng xúc động trước những khoảnh khắc thu thật thu, con người thoát khỏi bộn bề cuộc sống để hòa mình vào thiên nhiên.

Và tiếp đến là những mong manh cảm xúc, một chút bối rối tự hỏi mình “hình như”. Tình thái từ thể hiện rõ sự bâng khuâng, xao xuyến trong lòng thi nhân khi nhận ra những tín hiệu mùa thu. Hữu Thỉnh quả là người có giác quan vô cùng nhạy cảm thì ông mới có những cảm nhận tinh tế đến vậy về phút giao mùa.

Sang đến khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu đã có những chuyển biến rõ ràng, đậm nét hơn. Từ không gian ngõ vườn nhỏ bé, Hữu Thỉnh vươn ngòi bút của mình đến không gian rộng lớn hơn, không gian bầu trời, sông nước. Dòng sông hiền hòa, thong thả chảy không còn cuồn cuộn, đỏ ngầu như những ngày nước lũ mùa hè.

Đối lập với hình ảnh dòng sông là hình ảnh những cánh chim vội vã. Dường như những cơn gió se lạnh đã đâu đó len lỏi trong không gian bởi vậy những loài chim phải vội vã bay về phương nam tránh rét. Cách ông dùng từ cũng hết sức tinh tế: “bắt đầu”, chỉ mới là bắt đầu chứ chưa hẳn là vội vã bởi thu cũng chỉ mới chớm sang thôi. Mọi sự vật hiện tượng chuyển động thật thong thả, khẽ khàng bởi vậy chỉ có những tâm hồn tinh tế mới nhận thấy được.

Hai câu thơ sau là một điểm nhấn, tạo nên sự độc đáo cho bức tranh mùa thu: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Đây là trường liên tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo, gợi ra khung cảnh một làn mây mỏng nhẹ, đang uyển chuyển cựa mình chuyển bước sang thu. Đồng thời cũng có thấy tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của đám mây: nửa lưu luyến mùa hạ, nửa háo hức nghiêng mình hẳn sang thu.

Ở đoạn này tác giả tỏ ra hết sức tài tình khi mượn cái hữu hình của đám mây để gợi ra cái vô hình của không gian, ranh giới giao mùa. Thể hiện trường liên tưởng thú vị này không chỉ là cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận chính bằng tâm hồn tinh tế nhạy cảm và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.

Bức tranh mùa thu dường như được hoàn chỉnh, rõ nét hơn qua hai câu thơ tiếp theo: “Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa”. Mùa thu hiện ra rõ nét hơn qua sự thay đổi của các hiện tượng thiên nhiên: mưa, sấm – vốn là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ, nay cũng “vơi dần”, “bớt bất ngờ”, mùa thu ngày một đậm nét hơn. Sau những cảm nhận ấy, lắng lại là những suy tư chiêm nghiệm của tác giả về con người về cuộc đời:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: sang thu những cơn mưa lớn kèm sấm đã vơi dần, bớt dần, đồng thời trải qua một mùa hè đầy giông bão những hàng cây đã không còn giật mình bởi những tiếng sấm mùa hạ nữa. Nhưng bên cạnh đó, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: “sấm” là những vang động, những biến cố mà con người đã trải qua trong cuộc đời; “hàng cây đứng tuổi” là những con người trưởng thành đã từng trải qua bao thăng trầm, biến cố.

Từ ý nghĩa đó nhà thơ gửi gắm suy tư, chiêm nghiệm của mình: khi con người đã trải qua những giông bão của cuộc đời sẽ bình tĩnh hơn trước những bất thường, những tác động của ngoại cảnh. Câu thơ chất chứa biết bao suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, về con người.

Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ năm chữ tài hoa, giàu nhịp điệu. Bài thơ có nhịp điệu chậm, nhẹ nhàng, sâu lắng như chính bước đi chậm trãi của thời gian trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Lớp ngôn từ giản dị, giàu giá trị tạo hình: phả, vắt, chùng chình, dềnh dàng, vội vã,… diễn tả tinh tế những dấu hiệu mùa thu. Ngoài ra ông còn có những trường liên tưởng bất ngờ, độc đáo làm tứ thơ sinh động, hấp dẫn hơn. Hình ảnh thơ có chọn lọc, đặc sắc mang nét đặc trưng của thời tiết lúc giao mùa: hạ – thu.

Tác phẩm đã đem đến cho thi ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh sang thu thật đặc biệt, ý nghĩa. Đồng thời qua bài thơ ta còn thấy được những cảm nhận tinh tế của tác giả trong việc tái hiện khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu với sự giao thoa của nhiều lớp nghĩa: đất trời khi sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 8

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Là tiếng thơ reo vui, hồi hởi của thi sĩ Xuân Diệu trước khoảnh khắc thu sang, câu thơ hiện đại mà vẫn thấm đẫm chất cổ điển. Còn đến với nhà thơ Hữu Thỉnh ta sẽ được cảm biết một mùa thu rất đỗi thân thuộc, rất đỗi Việt Nam qua bài thơ “Sang thu”.

“Sang thu” không dùng thứ ngôn từ mĩ lệ, quá cầu kì trau chuốt mà rất đỗi giản dị tự nhiên, kết hợp hài hòa với tình cảm chân thành đã đem đến cho thi ca Việt Nam một bức tranh mùa thu rất khác:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Bỗng – cảm giác bất chợt, tự nhiên ùa về, một mùi hương vừa lạ, vừa quen, mùi hương ấy giản dị biết bao, ấy chính là hương ổi. Hương ổi là mùi hương điển hình của làng quê Việt Nam, mỗi độ thu về, theo cơn gió se lạnh, hương ổi cũng tung mình bay đi xa. Hương thơm ấy không hề nhạt nhòa, mà đậm và sánh lạnh phả vào cơn gió se, khiến cả không gian tràn ngập hương thơm dịu dàng đồng quê ấy.

Câu thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận được mùi hương mà còn hình dung ra sắc màu vàng ươm, chín thơm của những trái ổi đang lúc lỉu trên cành. Không chỉ cảm nhận ở hương ổi, mà Hữu Thỉnh còn lắng lòng mình để thấy bước thu về trên những dòng sương thu thong thả, chậm chạp trên bầu trời. Và để cuối cùng ông chợt giật mình nhận ra: “Hình như thu đã về”. Chữ hình như ấy còn như một tiếng reo vui, sự ngỡ ngàng chào đón thu sang.

Nếu như ở khổ thơ đầu nhưng cảm giác về mùa thu vẫn còn rất đỗi mong manh, thì sang đến khổ thơ thứ hai mùa thu đã rõ ràng hơn. Tiếp tục sử dụng ngôn từ giản dị, mộc mạc, Hữu Thỉnh đưa người đọc đi lần lượt bóc tách từng dấu hiệu khi thu về:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nữa mình sang thu

Ngôn từ quá đỗi dung dị, khiến ta ngỡ như chỉ là những lời nói, lời tâm sự của tác giả với mọi người. Nhưng cái giản dị đó lại được kết hợp hài hòa với các biện pháp nghệ thuật, tạo nên chất thơ cho tác phẩm. Con sông được nhân hóa, cũng dềnh dàng khi thu sang. Nước thôi cuồn cuộn chảy, mà đỏ nặng phù sa, chậm chạp trôi. Trên bầu trời những chú chim cũng chỉ mới “bắt đầu vội vã” tìm về phương Nam tránh rét.

Đặc biệt nhất là hình ảnh đám mây mang trên mình hai mùa: một nửa mùa hạ và một nửa mùa thu. Đám mây không còn là đám mây đơn thuần nữa mà nó tựa như một tấm lụa mỏng, vắt ngang bầu trời, khiến cho khái niệm thời gian vốn vô hình nay cũng trở nên hữu hình. Đám mây nửa lưu luyến, bịn rịn mùa hè sôi động, nửa lại háo hức nghiêng hẳn mình sang mùa thu để khám phá.

Không chỉ dừng lại ở đó những hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa cũng trở nên thưa dần và ít dần đi. Đến đây mùa thu đã thực sự hiện hình một cách rõ nét. Chỉ với những nét phác họa hết sức đơn sơ nhưng cũng đủ để cho ngòi bút tài hoa của Hữu Thỉnh dựng lên bức tranh thu nồng đượm tình người, tình yêu cuộc sống. Hình ảnh thu không ảm đạm, héo úa, mà tươi tắn, tràn đầy sự sống và hết sức giản dị.

Tác giả đã sử dụng liên tiếp các từ láy: chùng chình, dềnh dàng, vội vã và giọng thơ biến đổi linh hoạt, khi ngỡ ngàng khi vui mừng, reo ca để đưa người đọc đến một khung cảnh thu thật thu của làng quê Việt Nam. Hai câu thơ cuối mang tính ẩn dụ rõ nét:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Bên hàng cây đứng tuổi

Cũng như những hàng cây, trải qua một mùa hè đầy giông bão, nó cũng trở nên chín chắn hơn. Và một cơn mưa rào rơi rớt của của hạ đầu thu, với tiếng sấm thưa thớt dần không còn làm cho hàng cây sợ hãi. Con người cũng vậy, khi trải qua bao giông tố trong cuộc đời, họ cũng dần dần trở nên chín chắn và trưởng thành hơn.

Bởi vậy, đối với những sóng gió họ không còn bất ngờ mà sẵn sàng đương đầu với những khó khăn thử thách. Đây chính là điểm nhấn của bài thơ, đằng sau bức tranh thu còn là những triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người.

“Sang thu” không chỉ là khúc ca giản dị, mộc mạc miêu tả bước chuyển mình của thiên nhiên từ hạ sang thu. Mà nó còn là một bài thơ thấm đẫm chất triết lí về con người về cuộc đời. Với ngôn ngữ dung dị, thể thơ năm chữ linh hoạt, giàu nhịp điệu kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 9

Mùa thu là đề tài muôn thuở của thơ ca cổ kim, ta bắt gặp một không gian thấm đẫm chất thu của Nguyễn Du: “Người lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”; ta lại gặp một mùa thu rất hiện đại trong thơ Xuân Diệu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Các nhà thơ đều có những khám phá, phát hiện riêng về mùa thu. Nhưng ít có nhà thơ nào lại có những cảm nhận tinh tế về bước chuyển mình từ hạ sang thu như nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài “Sang thu”.

Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và còn đâu đó ẩn dấu khoảnh khắc giao mùa của đời người. Khổ thơ đầu là những cảm nhận vô cùng tinh tế, là giác quan nhạy bén của tác giả để cảm biết được hết những mong manh tín hiệu khi thu về:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Cảm nhận đầu tiên của tác giả chính là hương ổi, một mùi hương thật thân quen, gần gũi. Hương ổi kết hợp với từ “bỗng” gợi lên biết bao cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng, cùng với đó là động từ “phả” cho thấy hương thơm đậm sánh lại hòa vào trong cơn gió se se của mùa thu. Không chỉ vậy từ phả còn cho thấy tư thế chủ động của hương ổi, khiến hương thơm càng sánh, càng đậm hơn.

Hương ổi cũng gợi nên không gian rất làng quê với những ngó xóm sum suê cây lá, đó chính là hương vị mùa thu chỉ có riêng trong thơ Hữu Thỉnh. “Sương chùng chình” – nghệ thuật nhân hóa, cho ta thấy dáng vẻ của sương cũng như đang quyến luyến, cố đi chậm thật chậm để tận hưởng nốt cái ấm áp của mùa hè, dường như nó chưa muốn bước hẳn sang thu. Với hệ thống hình ảnh độc đáo, miêu tả sinh động tác giả đã miêu tả một cách tài tình những dấu hiệu đầu tiên của mùa thu.

Trước những tín hiệu thu về lòng người dường như cũng có sự băn khoăn, xốn xang. Tình thái từ “Hình như” diễn đạt cảm xúc mơ hồ, chưa xác định, dường như nhà thơ vẫn còn đôi chút băn khoăn, đôi chút ngỡ ngàng: liệu có phải mùa thu đã đến thật không? Khổ thơ là những cảm nhận tinh tế, mới mẻ của tác giả lúc thu sang.

Ẩn sau những thay đổi của đất trời khi sang thu là tâm hồn tinh tế của nhà thơ, là niềm vui, hạnh phúc khi thu về. Những băn khoăn của tác giả ở khổ thơ trên, đã được giải đáp bằng những tín hiệu của đất trời thấm đẫm chất thu:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Bắt đầu từ những khúc sông “dềnh dàng”, chậm chạp chảy, ta không còn thấy cái dữ dội, những dòng nước cuồn cuộn như mùa hè nữa mà thay vào đó là dòng sông thu vô cùng trong trẻo, tĩnh lặng, chảy hiền hòa như đang ngẫm ngợi điều gì. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông như đang nghỉ ngơi sau một mùa hạ cuộn xiết chảy.

Ngược lại những chú chim lại vội vã về phương Nam tránh rét, đồng thời cũng gợi lên những lo toan, tất bật của cuộc sống đời thường. Hình ảnh đặc sắc nhất là đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Nghệ thuật nhân hóa khiến đám mây vừa hư vừa thực, tái hiện được nhịp điệu của thời gian. Đồng thời tác giả cũng hữu hình hóa cánh cổng thời gian vốn vô hình qua hình ảnh đám ấy.

Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ giàu chất tạo hình. Ông quả là một người tinh tế và nhạy cảm khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong khoảng khắc giao mùa. Khổ thơ cuối cùng lại thể hiện rõ hơn nữa sự tinh tế của tác giả trong việc khám phá những biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Hữu Thỉnh sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” , “nắng – mưa” gợi sự vận động ngược chiều của các hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã vơi dần, bớt dần; nắng cũng không còn chói gắt, làm người ta lóa mắt nữa mà đã là ánh nắng mùa thu dịu nhẹ như màu mật ong.

Tín hiệu thu về đã rõ nét hơn bao giờ hết. Cái đặc sắc, tinh nhạy của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt cho thấy sự nhạt dần của mùa hạ, và mùa thu mỗi ngày lại đậm nét hơn. Hai câu thơ cuối thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, con người của tác giả:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Bên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trước hết về ý nghĩa tả thực: sấm là hiện tượng tự nhiên, thường là dấu hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Sang thu tiếng sấm cũng trở nên nhỏ hơn, không còn đủ sức lay động những hàng cây đã trải qua bao mùa thay lá nữa.

Bên cạnh đó tiếng sấm còn để chỉ những biến động bất thường của cuộc đời, những gian nan, thử thách mà mỗi chúng ta phải trải qua. Tương ứng với nghĩa biểu tượng của “sấm” , “hàng cây đứng tuổi” là biểu trưng cho những con người trưởng thành, đã trải qua biết bao sóng gió, giông tố trong cuộc đời. Bởi vậy, dù có thêm những bất thường, biến động cũng không dễ dàng khiến họ lung lay, gục ngã; họ trở nên bình tĩnh, ung dung hơn trước những biến cố, thăng trầm của cuộc sống.

Bằng giác quan nhạy bén, Hữu Thỉnh đã xuất sắc ghi lại khoảnh khắc giao mùa của đất trời từ hạ sang thu. Tái hiện bức tranh đẹp đẽ nhiều hương sắc, nhiều phong vị rất đặc trưng của đất Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà cũng vô cùng sâu sắc đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Bài văn phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh số 10

Thu là thơ của đất trời, là “bình minh mát” của lòng người (Xuân Diệu). Viết về thu, đã có bao áng thơ hay tuyệt tác nhưng có lẽ chỉ khi đến với Hữu Thỉnh, ta mới có thể cảm nhận được phần nào cái “cốt tủy chung tình bên trong” của nó. Tất cả mọi vẻ đẹp ở “bề sau, bề sâu, bề xa” của mùa thu đều được gửi gắm qua bài thơ “Sang thu”- tác phẩm mà có lẽ đến mãi sau này, ta vẫn không thể ngừng thương nhớ.

Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sớm gần gũi với thiên nhiên cây cỏ, thơ ông được thừa hưởng cái dạt dào trong cảm xúc về quê hương, đất nước và con người. Ngòi bút của ông rất bắt nhạy với những gì mong manh nhẹ nhàng tưởng như khó nắm bắt nhất. Đó là lí do vì sao khi cảm xúc chợt tìm đến thi nhân, trong cái tiết hanh hanh của thu mới, của hạ cũ, nhà thơ không thể kìm lòng được mà phải cầm bút viết bài thơ “Sang thu” (1977).

Đó được coi như những dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh tế trước thiên nhiên giao mùa, cũng là nơi gửi gắm biết bao chiêm nghiệm kín đáo về mùa thu mới của cuộc đời, của con người và dân tộc. “Từ Homero đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam”, thu vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân. Riêng trong làng thơ Việt, ta đã không ít lần bắt gặp một mùa “Thu điếu” trong thơ Nguyễn Bính, một “Tiếng thu” trong thơ Lưu Trọng Lư, một “Thơ duyên” trong thơ Xuân Diệu….

Và mùa thu trong Hữu Thỉnh là mùa đáng nhớ nhất, ấn tượng nhất với những chuyển biến tế vi từ cuối hạ sang đầu thu. Chính việc lựa chọn thời điểm độc đáo ấy đã khiến cho người đọc cảm nhận rõ ràng sự vận động, luân chuyển của thời gian, không gian tạo vật. Càng đọc, ta càng cảm phục hơn trước cái tài thâu tóm của nhà thơ. Đến với khổ thơ đầu, ta như được hòa mình trong bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của làng quê Việt Nam thật sống động:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Câu thơ mở đầu với cụm từ “bỗng nhận ra” diễn tả thật chính xác cảm xúc ngỡ ngàng, thú vị trước sự đổi thay đột ngột của thiên nhiên cảnh vật. Điều đầu tiên cuốn hút tôi là chi tiết “hương ổi”, một chi tiết khá mới mẻ và độc đáo đối với thơ ca thời bấy giờ.

Nếu như người xưa thấy thu qua “ngô đồng nhất diệp lạc”, thi sĩ Xuân Diệu đón chào thu bằng hình ảnh “rặng liễu đìa hiu đứng chịu tang” (Đây mùa thu tới), vị Tam Nguyên Yên Đổ yêu thu từ chiếc “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu), Lưu Trọng Lư gửi gắm thu trong “con nai vàng ngơ ngác” (Tiếng thu), thì Hữu Thỉnh lại lựa chọn “hương ổi”. Ông tâm sự: “giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi.

Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… “.

Hóa ra đó là mùi hương quen thuộc, dân dã, mộc mạc luôn vấn vương mãi trong tâm hồn người con yêu xứ, mùi hương của tuổi thơ, của tiếng cười, của bình yên và hạnh phúc. Điều đặc biệt ở chỗ hương thơm ấy không những nồng nàn, đậm đặc mà cũng như thấm thoát, dìu dịu, thoang thoảng, lan tỏa khắp không gian đất trời. Điều đó thể hiện rõ nhất ở động từ “phả”. đây cũng được coi như một thành công nghệ thuật của bài.

Trong cái không gian đậm mùi thu ấy, thấp thoáng hình ảnh “Sương chùng chình” nhẹ lướt qua đường, qua thôn xóm, tựa như bóng dáng một thiếu nữ yểu điệu, thướt tha, nhẹ nhàng lướt qua đánh thức tâm hồn thi nhân. Chỉ với hai hình ảnh “hương ổi” và “sương” giàu giá trị gợi hình gợi cảm, tác giả như vẽ ra trước mắt ta một mùa thu đặc trưng của mỗi làng quê Việt Nam trong cái tiết trời se se, mát mẻ, dễ chịu, gợi trong lòng người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến lạ lùng.

Câu thơ thứ tư không còn là bức tranh thiên nhiên nữa mà đó đã trở thành bức tranh tâm cảnh, bức tranh của lòng người: “Hình như thu đã về”. Tôi nhớ người chàng thi sĩ “sẵn sàng ân ái” Xuân Diệu khi nói về thu có lần từng thốt lên rằng: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Câu thơ reo lên như có gì vừa vui mừng, háo hức, vừa như chồng chất thêm cả niềm lo sợ, tiếc nuối thời gian.

Ở Hữu Thỉnh, ta lại bắt gặp một sự hoài nghi, lưỡng lự, một điều gì đó chưa rõ ràng trong cảm xúc. Phải chăng thiên nhiên chưa đủ làm nên một mùa thu trọn vẹn hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn sàng để đón chào sự đổi thay của tạo vật? Tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng rất nhiều giác quan khác nhau. Từng câu từng tiếng thoát ra đều thể hiện rõ sự tinh tế, sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm cuộc sống. Thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ tiếp tục được mở rộng với bức tranh thu tuyệt tác:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Hình ảnh đầu tiên hé lộ với dòng sông “dềnh dàng” thong thả, lững lờ trôi. Gợi ra trong ta cảm giác về một mùa thu êm đềm, chảy trôi như tâm thế của một “người khách bộ hành phiêu lãng” (Thế Lữ), đang thư thái vừa đi vừa ngắm cảnh đôi bờ. Trên trời, mấy cánh chim đã “vội vã” bay về Nam tránh rét. Hữu Thỉnh thật tinh tế khi sử dụng cụm từ “được lúc” và “dềnh dàng”, có nghĩa chỉ đến mùa thu, mọi vật mới biến đổi như thế. Đó là những thay đổi, biến chuyển của thiên nhiên trong giây phút giao mùa.

Đặc biệt gây sự chú ý cho độc giả là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”. Cố nhiên, đây không phải hình ảnh tả thực. Câu thơ đọc lên tưởng chừng như vô lý nhưng lại ẩn chứa cái có lý của cảm xúc. Hình ảnh đám mây độc đáo bắc ngang qua mùa hạ và mùa thu chính là phản chiếu của tâm hồn thi nhân: Thu đã đến thật rồi, nhanh và vội vã quá.

Chỉ còn đây tâm hồn nhà thơ đang ngập ngừng, bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo thời gian, níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Bước chân thi sĩ đã gần chạm đến mùa thu mà trong lòng vẫn vấn vương chút nắng hạ. Là gì đây nếu không phải trái tim chan chứa yêu thương, gắn bó với cuộc sống này?

Không chỉ tinh tế trong cách sử dụng từ ngữ, cách lựa chọn hình ảnh mà t còn thấy ở Hữu Thỉnh một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu và sự gắn bó thiết tha với quê hương đất nước. Chính bởi lẽ đó, bức tranh “sang thu” mới hiện lên thật sống động và có hồn đến vậy. Nếu như hai khổ thơ đầu nghiêng về mù thu của đất trời thì đến khổ thơ kết, tác giả lại hướng chúng ta về một mùa thu của lòng người với những trải nghiệm của chính bản thân mình.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Vẫn là những hình ảnh thiên nhiên của mùa hạ với nắng, mưa, sấm. Nhưng cách diễn tả của nhà thơ thật tinh tế: Nắng vẫn còn nhưng không rực rỡ, chói chang. Mưa vẫn còn nhưng không ào ạt. Sấm vẫn còn nhưng không dữ dội. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như vẫn còn chì có điều tất cả đã vơi dần, vơi bất ngờ, vơi vội vã. Hình ảnh ấy rất phù hợp với không khí thời điểm giao mùa.

Hạ chưa hết mà thu đang qua. Mùa nọ nối tiếp mùa kia, góp vào cuộc đời chung khúc giao hưởng ý nghĩa. Bên cạnh đó, ta còn ấn tượng hơn với tầng lớp ẩn dụ đằng sau câu chữ, gợi liên tưởng về những tác động của ngoại cảnh đến con người. “Hàng cây đứng tuổi” hay cũng chính là những con người đang bước vào tuổi trung niên, những con người đã bước qua tuổi trẻ- cái thời vàng son sôi nổi, cái thời mà con người ta có quyền phung phí những ước mơ, hoài bão.

Giờ đây, đối với những người dày dặn kinh nghiệm trong phong ba bão táp của cuộc sống, mọi thứ đã trở nên điềm tĩnh và vững vàng hơn, trước thời cuộc, trước sự thách thức của khó khăn và sự đổi thay của xã hội. Ý thơ nhẹ nhàng mà thấm thía, chất chứa bao suy ngẫm của thi nhân về cuộc sống đã chạm vào sợi dây đồng cảm của mỗi chúng ta. “Thơ đi từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả”, và Hữu Thỉnh đã làm được điều đó.

Bài thơ cho ta hiểu thêm và trân trọng hơn dòng tâm sự của những thế hệ đã qua, đặc biệt là tâm sự thầm kín mà chân thành nhất từ trái tim người nghệ sĩ. Hengmingway từng nói, đại ý: Một tác phẩm hay là một tác phẩm tuân theo nguyên lý “tảng băng trôi” một phần chìm, bảy phần nổi. Tôi cho rằng “Sang thu” chính là một thi phẩm như thế.

Chỉ với ba khổ thơ ngắn ngủi, khiêm nhường, nhà thơ đã thực sự mang đến cho người đọc những cảm xúc rất riêng. Bài thơ kết cấu rõ ràng, mạch lạc, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, hình ảnh thơ chân thực, đa nghĩa, giọng điệu với những trạng thái biến chuyển tinh vi, sâu sắc, không chỉ khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà còn lắng lại trong tâm trí chúng ta một mùa thu của cuộc đời cùng những tâm tư thật xúc động.

Xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa luân chuyển. Cùng với sự phát triển không ngừng, văn học bao giờ cũng đặt ra một chuẩn mực mới. Nhưng có lẽ “Sang thu” của Hữu Thỉnh vẫn sẽ còn đủ sức vượt qua “mọi sự băng hoại của thời gian”, sẽ còn sống mãi với muôn đời, góp vào cuộc sống chung những cảm xúc vấn vương về thiên nhiên, quê hương, đất nước, cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Bài thơ đem đến cho bạn đọc những cảm xúc thật nhẹ nhàng, tinh khôi và thi vị về nét chuyển mùa duyên dáng của miền Bắc Việt Nam. Hi vọng bài viết hữu ích với bạn đọc trong việc làm tốt bài văn phân tích của mình. Chúc các bạn học tốt.

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên hay nhất

Chế Lan Viên là một nhà thơ mới có phong cách và đặc sắc. Thơ ông lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, triết lý và khả năng sáng tạo hình ảnh. “Con cò” là bài thơ được ông sáng tác năm 1962 in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” rất thành công với thể thơ tự do, giọng điệu suy ngẫm, vận dụng sáng tạo ca dao. Thông qua hình tượng con cò trong những câu hát, lời ru, tác phẩm đã ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru trong cuộc đời mỗi con người. Mời bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn vẻ đẹp đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 1

Từ lâu tình mẫu tử đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao thi gia. Tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy đã đem đến không chỉ cho tác giả mà còn cho cả người đọc biết bao cảm xúc đặc biệt. Nhiều tác phẩm đã viết rất hay, rất tình ở thể loại này và một trong số đó ta không thể không kể đến “Con cò” của Chế Lan Viên.

“Con cò” được Chế Lan Viên sáng tác vào năm 1962 và được in trong tập thơ “Hoa, ngày thường – Chim báo bão”. Bài thơ sử dụng hình ảnh cánh cò quen thuộc trong ca dao để biểu hiện tình thương cao quý và tấm lòng lớn lao, sâu nặng của người mẹ. Trước hết, tác giả đã mở đầu bài thơ bằng những lời thơ nhẹ nhàng, êm ái:

“Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ ru

Có cánh cò đang bay

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng”

Những câu thơ gợi cho chúng ta nhớ đến hình ảnh mẹ bồng bế đứa con của mình trên tay quen thuộc và ấm áp. Nó khiến chúng ta nhớ lại lời ru “ầu ơ” của bà, của mẹ – đó là những món ăn tinh thần không thể thiếu từ thuở tấm bé còn thơ. Trong câu hát của mình mẹ đã nhắc đến quê hương, nhắc đến cánh đồng lúa chín, đến những danh lam thắng cảnh của đất nước.

Nó vừa là tình yêu dành cho quê hương vừa là tấm lòng thương cảm đến những cuộc đời lam lũ, vất vả. Nhưng mẹ không chỉ thương con cò lận đận trong ca dao, mà mẹ còn gửi vào đó bao yêu thương trìu mến dành cho con của mình:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”.

Từ lâu, hình ảnh con cò vốn là biểu tượng cho những người nông dân lam lũ, tần tảo sớm hôm. Ở trong bài thơ này Chế Lan Viên đã gợi nhắc lại một lần nữa sự lam lũ, vất vả của con cò qua các hình ảnh như “con cò ăn đêm, con cò xa tổ, gặp cành mềm, phải xáo măng…”. Từ đó tác giả khéo léo liên hệ đến hình ảnh đứa con thơ ngây được sống trong vòng tay bảo bọc của cha mẹ. Mẹ đã dành cho con tất cả những điều tốt đẹp nhất để con luôn được sống trong yên bình, hạnh phúc, ấm no:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân.

Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”

Điệp ngữ “ngủ yên”, “con chưa biết”, “con cò” được láy đi láy lại nhiều lần mang đến cho người đọc cảm giác thân quen, thắm thiết. Giúp người đọc thấy được tình yêu nồng ấm mà mẹ dành cho con.

Từ lời ru của mẹ, con dần lớn khôn:

“Con khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”.

Có thể thấy dù là khi còn nhỏ hay lúc trưởng thành, người mẹ luôn đồng hành cùng con, theo bước con đi học. Chế Lan Viên đã thật khéo léo trong việc mượn hình ảnh con cò để nói về sự ấp iu, đùm bọc mà mẹ dành cho đứa con của mình. Rồi cánh cò cũng nâng đỡ bước chân con.

Lời ru của mẹ cùng hình ảnh con cò đã nuôi con khôn lớn, theo bước con trên mọi nẻo đường để rồi nó trở thành cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn con, chắp cánh cho những ước mơ của con:

“Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!

Con làm gì?Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn”.

Điệp ngữ “lớn lên”, “con” khiến nhịp thơ nhanh hơn, dồn dập hơn thể hiện niềm háo hức, mong chờ của người mẹ vào tương ai tươi sáng của đứa con. Từ cảm xúc đó, bài thơ chuyển sang những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu xa:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con”

Những câu thơ như một lời khẳng định rằng dù có biết bao nhiêu vất vả, có trải qua bao nỗi cực khổ thì người mẹ vẫn mãi luôn bên cạnh đứa con của mình. Luôn dõi theo từng bước chân của con, luôn nâng đỡ, bảo vệ con. Xuyên suốt cả bài thơ ta có thể thấy hình tượng trung tâm là hình ảnh con cò trắng lam lũ, vất vả nhưng ẩn sâu bên trong đó là hình ảnh của người mẹ luôn hết mực yêu thương con của mình.

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ mãi theo con”.

Bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu thiêng liêng được gửi gắm hết ở hai câu thơ trên. Ý thơ rõ ràng nhưng cảm xúc trong đó thì lại vô cùng, vô tận. Câu thơ không chỉ đơn thuần muốn nói về tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý mà nó còn hàm ý cả sự biết ơn của người con dành cho mẹ.

Đọc “Con cò” của Chế Lan Viên ta vừa như được sống lại trong không gian ca dao dân ca quen thuộc, vừa như được thấy lại tuổi thơ và đặc biệt là có thể cảm nhận được từng cử chỉ yêu thương của mẹ hiện lên trong từng câu, từng chữ.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 2

“Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết những lời mẹ ru”

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)

Tình mẫu tử – tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao cả đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ thi sĩ. Lòng mẹ ấm áp bao la dẫn lối con đi trên cuộc đời, những khi con vấp ngã đã có vòng tay mẹ đỡ lấy, tình yêu mẹ là hành trang cho con vững tin bước vào đời. Lời ru mẹ in sâu trong tiềm thức những đứa trẻ, bài thơ Con cò của Chế Lan Viên nhắc lại hình ảnh con cò thân thuộc trong ca dao nhưng nhà thơ đã khéo léo mở rộng thành biểu tượng tình mẹ bao la, sâu nặng đối với đứa con của mình.

Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc của ông ở Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất độc đáo và đầy sáng tạo, vừa sắc sảo tinh tế lại mang đầy màu sắc triết lí, đậm đà chất trữ tình lãng mạn. Thơ ông giàu hình ảnh phong phú, đa dạng kết hợp các yếu tố thực ảo đầy sáng tạo. Con cò được sáng tác năm 1962 in trong tập Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967).

Đoạn đầu bài thơ, lời ru mẹ hiền cất lên ngọt ngào, êm ái như đưa con vào giấc ngủ diệu kỳ. Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận ngược xuôi, mẹ dành cho con bao yêu thương, săn sóc. Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Hình ảnh con cò lặn lội đêm khuya kiếm ăn thật đáng thương, nó chỉ có một mình đơn độc giữa màn đêm vắng lặng, không che chở không ai vỗ về. Những hình ảnh “Con cò ăn đêm, con cò xa tổ, cò gặp cành mềm, cò sợ xáo măng,…” là biểu tượng cho những người nông dân, những người phụ nữ vất vả sớm hôm, nhọc nhằn kiếm sống nhưng rất giàu tình thương, đức hy sinh cao cả.

Đứa con thơ bé bỏng chẳng phải lo lắng nghĩ suy bởi vì đã có vòng tay mẹ bảo bọc, nâng đỡ. Tình mẹ lớn lao vô cùng, mẹ hy sinh những giấc ngủ êm ái để hát ru cho con ngủ ngon, ngồi quanh nôi ngắm nhìn khuôn mặt đứa con say giấc lòng mẹ hạnh phúc biết bao. Cánh tay vỗ về của mẹ, câu hát dịu êm của mẹ, dòng sữa ngọt ngào của mẹ, tất cả đều thể hiện tình mẫu tử bao la của người mẹ hiền:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân.

Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

Điệp từ “Ngủ yên”, “con chưa biết” được Chế Lan Viên lặp lại nhiều lần làm nhịp thơ trở nên thật sống động và mang hơi ấm thiết tha dịu dàng. Nhịp thơ cũng là nhịp nôi đung đưa ru con vào giấc ngủ diệu kỳ. Những câu thơ tiếp theo là ước mơ, sự tin tưởng mà người mẹ dành cho con. Rồi mai đây khi con lớn khôn xa vòng tay mẹ để đến với những chân trời mới, mẹ vẫn hy vọng con trở thành người có ích cho cuộc đời:

“Con khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì?Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…”

Nhìn con thơ say ngủ mà lòng mẹ chứa đầy niềm hy vọng, khi con khôn lớn con đi học rồi mai này con trở thành thi sĩ chỉ nghĩ đến thôi người mẹ đã dạt dào hạnh phúc. Tác giả dùng nghệ thuật điệp ngữ “lớn lên”, “con”,… làm nhịp thơ thêm dồn dập như niềm háo hức mong chờ của mẹ vào một tương lai tươi sáng của đứa con. Hình ảnh “cánh cò trắng” theo bước con trong suốt chặng đường lớn khôn, trở thành người bạn đồng hành thân thiết, gắn bó với con vượt qua những khó khăn, thử thách của cuộc đời.

Mạch thơ tươi vui bỗng chuyển sang màu sắc đầy triết lý, suy ngẫm về cuộc đời. Đoạn cuối bài thơ là những câu thơ mang tính khái quát với những hình ảnh đầy chiêm nghiệm, tình yêu của người mẹ lúc nào cũng dõi theo con trong suốt cuộc đời:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con”

“Cò” là biểu tượng cho người mẹ vất vả, lam lũ nhưng chẳng bao giờ mẹ thôi nghĩ về đứa con mình. Dù phải trải qua muôn vàn khó khăn, cách trở, phải “lên rừng xuống bể” thì mẹ vẫn luôn yêu thương, bảo vệ cho con. Nghệ thuật điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối lập “gần – xa”, “lên – xuống” làm cho ý thơ thêm phần sâu lắng, khắc sâu vào tâm trí người đọc những cảm xúc dạt dào, tha thiết.

Tình mẫu tử quả là thiêng liêng biết nhường nào, tình cảm ấy bao la rộng lớn hơn biển cả, bất chấp cả những khó khăn, rào cản lòng mẹ vẫn hướng theo con cả cuộc đời.

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ mãi theo con”

Vì quá yêu, vì quá thương mà trong trái tim mẹ hiền thì đứa con dù lớn khôn vẫn là con của mẹ, vẫn bé bỏng ngây thơ như ngày nào. Con lớn khôn cũng là khi mẹ đã già, sức mẹ ngày một yếu đi chỉ có lòng mẹ vẫn luôn hướng về đứa con mình. Cảm động biết bao! Có lẽ tình yêu mẹ là vô tận chẳng có gì đo lường được, núi có cao sông có dài vẫn chẳng thể đo hết tấm lòng người mẹ.

Lời ru là mở đầu cũng là kết thúc cho bài thơ, Chế Lan Viên đã vận dụng ý thơ rất sáng tạo để khắc hoạ nên hình tượng cánh cò mộc mạc, giản dị mà rất gần gũi với đời sống mỗi người Việt ta:

“À ơi! Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.”

Những con cò cô đơn lẻ bóng trong đêm khuya, những con cò trong ca dao xưa gợi cho người mẹ bao suy nghĩ trăn trở. Mẹ nghĩ về cuộc đời đứa con sau này, trên đường đời khi không có mẹ ở bên con sẽ một mình đối mặt bao khó khăn thử thách, những gian nan vấp ngã liệu con có vững tin để bước tiếp? Mẹ cũng nghĩ về cả những cánh cò nhỏ bé, chúng thật đáng thương và đáng trân trọng.

Con cò của Chế Lan Viên là bài thơ rất thành công trong việc vận dụng sáng tạo hình tượng con cò, đúc kết những suy tư sâu sắc, ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng cao cả và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy biết yêu thương, quý trọng những tình cảm gia đình đừng vì những nông nổi của tuổi trẻ mà đánh mất đi những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 3

Chế Lan Viên viết bài thơ Con cò vào năm 1962, in trong tập Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967). Bài Con cò mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 8 chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ!

Đoạn 1, người mẹ hiền bế con thơ trên tay, cất lời ru bài “Con cò bay lả bay la… Con cò mà đi ăn đêm…” Nhìn con thơ “Con còn bế trên tay – Con chưa biết con cò”, mà lòng mẹ dào dạt tình thương. Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận; mẹ dành cho con bao chăm chút yêu thương. Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ:

Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

Mẹ đã dành cho con thơ tất cả. Cánh tay dịu hiền của mẹ. Lời ru câu hát êm đềm của mẹ. Dòng sữa ngọt ngào của mẹ. Những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng tình mẫu tử bao la. Nhịp thơ cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về:

Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân.

Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.

Điệp ngữ “ngủ yên”, “con chưa biết”và “con cò” láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, thiết tha dìu dịu. Đoạn 2; mẹ ru con ngủ yên, ngủ ngon: “Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”. Ngắm nhìn con thơ mà lòng mẹ dào dạt mong ước.

Con sẽ lớn khôn, con đến trường đi học.

Con khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Mai sau lớn lên con sẽ làm thi sĩ. Cuộc đời con nhiều sáng tạo, mải miết chuyên cần bay hoài không nghỉ. Hình ảnh cánh cò trắng bay… thể hiện ước mơ đẹp của mẹ hiền về cuộc đời tương lai của con. Con sẽ nối chí cha. Một câu hỏi khẽ thốt lên trong lòng mẹ hiền:

Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…

Đoạn thơ cuối, tiếng ru con, tiếng hát của mẹ hiền cất lên dào dạt, mênh mang. Mẹ nghĩ về cuộc đời của con mai sau, và tình thương yêu của mẹ. Như một lời nguyền của mẹ:

Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.

Chữ “dù”, chữ “ vẫn” được điệp lại, ý thơ được khẳng định, tình mẫu tử bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ thương con. Phần cuối, lời thơ thấm đượm chất triết lí trữ tình. Nghĩ về con cò trong ca dao, nghĩ về cuộc đời con mai sau, người mẹ nghĩ về thân phận, số phận những con cò nhỏ bé, đáng thương trong cuộc đời:

À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.

Phải chăng người mẹ hiền đang bâng khuâng về câu hát: “Có xáo thì xáo nước trong – Đừng xáo nước đục đau lòng cò con ?” Thác trong còn hơn sống đục, ấy là ý vị cuộc đời đáng thương, đáng trọng xưa nay. Bài thơ Con cò là một bài thơ có đề tài nhỏ nhưng mang ý nghĩa sâu sắc: ca ngợi tình mẹ bao la, nói lên tình thương cuộc đời. Rất nhân hậu và nhân tình.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 4

Ai đó đã từng nói: “Kì quan tuyệt phẩm nhất của tạo hóa là trái tim người mẹ”. Từ lâu, đề tài tình mẹ – tình mẫu tử đã trở thành ngọn nguồn cảm hứng, khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc cho các thi nhân viết lên những áng thơ thật hay, thật xúc động lòng người. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…” đã từng có lời thơ:

“Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.”

Hay Chế Lan Viên cũng đã từng viết:

“Thêm một người trái đất sẽ trật hơn

Nhưng thiếu mẹ, thế giới đầy nước mắt

Đối với con, riêng mẹ là duy nhất

Mẹ từng ngày dõi theo bước chân con.”

Và cũng viết về tình mẹ, Chế Lan Viên – một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca Việt Nam thế kỉ XX với thi phẩm “Con cò” (1962) đã thể hiện thật xuất sắc, thật cảm động tình yêu thương con vô bờ và ý nghĩa lời hát ru của mẹ đối với cuộc đời của mỗi con người.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh con cò qua lời hát ru của mẹ đến với tuổi ấu thơ của người con. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, tác giả đã xây dựng lên hình ảnh con cò có ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ và ý nghĩa của lời hát ru trong cuộc đời của mỗi con người.

Từ lâu, hình ảnh con cò đã đi vào trong những câu thơ ca dao của người Việt Nam mang rất nhiều ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Ở đây, tác giả không lấy nguyên văn những câu ca dao về con cò vào lời thơ của mình mà chỉ lấy ý, lấy lấy hình ảnh nhưng lại rất giàu sức gợi cảm. Đầu tiên, nó cho người đọc hướng tới một không gian sống nơi làng quê Việt Nam thật thanh bình, yên ả, với những cánh đồng quê rộng lớn, mênh mông:

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ,

Con cò Đồng Đăng…

Câu thơ được nhà thơ lấy ý từ câu ca dao xưa:

Con cò bay lả bay la

Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng

Con cò bay lả bay la

Bay từ của phủ bay về Đồng Đăng.

Còn hình ảnh “Con cò ăn đêm, con cò xa tổ, cò gặp cành mềm, cò sợ xáo măng…” lại biểu tượng cho những người nông dân, những người phụ nữ, những người mẹ vất vả nhọc nhằn, lặn lội kiếm sống nhưng rất giàu đức hi sinh, phẩm giá cao quý. Câu thơ khiến người đọc liên tưởng tới những câu ca dao xưa về hình ảnh cánh cò vất vả, lam lũ, cơ cực:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống áo

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

Hay:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”

“Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về…”

Trong bài thơ, qua lời ru của người mẹ, hình ảnh con cò đã đến với tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức. Nhưng qua những lời ru ngọt ngào, thiết tha ấy của người mẹ, điệu hồn dân tộc, lối sống ông cha dần thấm sâu vào tâm hồn ngây thơ, non nớt của những đứa trẻ, dần hình thành trong em ý thức về nguồn cội, về tình yêu quê hương, đất nước.

Đây chính là khởi đầu của con đường đi vào thế giới tâm hồn của mỗi người. Đứa trẻ chưa hiểu và cũng chưa cần hiểu ý nghĩa của những lời ru ấy và chúng chỉ cần vỗ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận bằng trực giác, vô thức tình yêu và sự chở che của người mẹ hiền:

Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân….

Để làm nổi bật lên tình cảm mẫu tử thiêng liêng, bền chặt, Chế Lan Viên đã sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản giữa cánh cò và người con:

Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

“Cò” thì một mình, cô đơn, quanh năm suốt tháng, không kể ngày nắng hay ngày mưa, trời sáng hay trời tối, mùa đông hay mùa hạ chỉ lẻ bóng một mình “kiếm lấy ăn”. Ngược lại, người con thì dưới bàn tay chăm sóc chu đáo của người mẹ, bằng tình yêu thương con một cách lặng thầm, mẹ luôn bên cạnh con nên người con vô tư “chơi rồi lại ngủ”. Qua đó, người đọc mới thấy hết được tình mẹ dành cho con thật bao la, rộng lớn biết nhường nào!

Thậm chí, một tay bồng ẵm con, một tay vuốt ve, vỗ về con rồi mà người mẹ vẫn còn lo sợ người con sẽ hoảng hốt khi bắt gặp cánh cò bị nạn trong giấc mơ qua lời ru của mẹ về cò:

Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Cách ngắt nhịp 2/2/2/2 đều đặn, kết hợp với điệp từ “ngủ yên” được nhắc lại hai lần và các dấu chấm cảm liên tiếp xuất hiện, làm cho nhịp thơ trở nên ngọt ngào, nhẹ nhàng, thiết tha, rất phù hợp với lời hát ru con của người mẹ: vỗ về, ầu ơ, chăm chút…. Đồng thời, giúp cho người con có thể yên tâm, ngủ ngon trong giấc mơ đẹp.

Tóm lại, với cách sử dụng sáng tạo những câu ca dao về hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ, nhà thơ đã diễn tả thật thấm thía, cảm động về tình yêu thương, sự chở che, nâng niu của người mẹ ru con.

Theo những lời ru của mẹ, cánh cò dần phát triển mạnh mẽ, vỗ cánh bay từ lời ru ra với cuộc đời làm quen với đứa con bé bỏng và trở thành người bạn đồng hành nâng đỡ người con trên mỗi chặng đường đời hết sức thân thiết, gắn bó, gần gũi (đoạn II). Khi còn ở trong nôi: “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ/Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.

Khi đến tuổi tới trường: “Mai khôn lớn con theo cò đi học / Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”.Khi trưởng thành: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ / Trước hiên nhà / Và trong hơi mát câu văn…”. Như vậy, con cò đã gợi ý nghĩa biểu tượng cho lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng và bền bỉ của người mẹ.Tình yêu và lời ru của mẹ đã nuôi dưỡng đứa con lớn lên, trưởng thành, đã chấp cánh ước mơ cho con, là nguồn dinh dưỡng không vơi cạn cho con.

Giọng thơ tâm tình, thủ thỉ tha thiết đưa nỗi của người mẹ hiền đã chuyển sang giọng triết lí, chiêm nghiệm sâu sắc. Đến đoạn ba, hình ảnh con cò được nhấn mạnh với ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng bên con đến suốt cả cuộc đời:

Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc, kết hợp nghệ thuật tương phản (gần – xa, rừng – bể) có tác dụng diễn tả tình cảm yêu thương con thật bao la, rộng lớn của tình mẹ. Bất chấp mọi khoảng cách thời gian và không gian, bất chấp mọi khó khăn và trắc trở, lòng mẹ mãi dõi theo con, đi theo con suốt cả cuộc đời. Nhận ra được tấm lòng đó của mẹ dành cho con, Chế Lan Viên đã khái quát thành một quy luật tâm lí tình cảm có ý nghĩa lớn lao, cao cả và thiêng liêng về tình mẹ:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ mãi theo con

Kết cấu “dù… vẫn”, và điệp lại chữ “vẫn”, nhà thơ đã khẳng định tình mẫu tử thật thiêng liêng, bền chặt. Dù con đã lớn khôn, trưởng thành, mẹ đã già cả hoặc không còn trên cõi đời này nữa thì lòng mẹ vẫn mãi dõi theo con. Ta bắt gặp kiểu tư duy thơ mang đậm tính triết lí rất quen thuộc trong thơ Chế Lan Viên.

Và người đọc cũng nhận ra bài học có ý nghĩa thiêng liêng, trở thành quy luật tình cảm của con người: có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển và có gì bao la bằng tình mẹ yêu thương con. Phần cuối bài thơ, trở lại với âm hưởng lời ru ngọt ngào, đều đặn, tác giả đã đúc kết ý nghĩa về hình tượng con cò:

Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi

Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò cánh vạc

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.

Chỉ cần một con cò thôi cũng đã đủ chất chứa biết bao nhiêu tâm tình, ước vọng của mẹ dành cho con. Lời ru chính là lòng mẹ đã nuôi dưỡng tâm hồn đứa con thêm trưởng thành. Và con cò, lời ru, lòng mẹ chính là cuộc đời, là tâm hồn đất nước dân tộc hòa quyện giúp cho con khôn lớn thành người. Từ đó, ta mới thấm thía hết được câu thơ của Nguyễn Duy về lòng mẹ bao la:

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết những lời mẹ ru.

“Bài “Con cò” mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất hai chữ, câu dài nhất tám chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ”. (Nhiều tác giả, Bình giảng văn 9, NXB Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh)

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 5

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam. Sáng tác ở cả hai chặng trước và sau cách mạng tháng tám nhưng thơ ông luôn đậm tính chất triết lí, mang vẻ đẹp của trí tuệ, hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu trưng. Con cò là một trong những tác phẩm như vậy.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã hàm chưa nhiều ý nghĩa. Con cò gợi về hình ảnh đẹp đẽ gần gũi với làng quê Việt Nam, những cánh cò trắng muốt sải cánh giữa đồng lúa: “Con cò bay lả bay la/ Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”. Con cò còn gợi nhắc đến những lời ru thân thuộc mà tấm bé bất cứ ai cũng được nghe tiếng ầu ơ của bà của mẹ. Và quan trọng nhất nó là biểu tượng cho tình mẫu tử thiêng liêng, bền bỉ theo con suốt cả cuộc đời.

Bài thơ được chia làm bố cục ba phần rất rõ ràng, như từng chương từng khúc: khúc 1 là hình ảnh con cò đến với tuổi thơ con qua lời ru của mẹ; khúc 2 hình ảnh con cò đồng hành cùng con suốt chặng đường đời; khúc ba tác giả mượn hình ảnh con cò để thể hiện những suy ngẫm sâu xa về tình mẫu tử thiêng liêng. Con cò đến với tuổi thơ con thật ngọt ngào, dịu nhẹ qua những lời ru của mẹ:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ,

Con cò Đồng Đăng…”

Câu thơ chỉ gồm bốn chữ, hình ảnh con cò được lặp lại bốn lần ở đầu mỗi câu thơ tạo nên nhịp điệu dịu dàng, tha thiết của lời ru, sự ấm áp của lòng mẹ. Theo cánh cò trong lời ru của mẹ, thế giới xung quanh như được mở ra trước mắt để con thỏa sức khám phá, đó là thế giới thân thuộc của quê hương, xứ sở.

Ở một chiều kích khác mẹ lại cho con thấy hình ảnh những cánh cò tảo tần, vất vả, lủi thủi giữa dòng đời: “cò một mình, cò phải kiếm ăn” “con cò ăn đêm/ con cò xa tổ/ cò gặp cành mềm/ cò sợ xáo măng…”. Đó là những cánh cò không có mẹ ở bên che chở, chăm lo, phải tự kiếm ăn và gặp biết bao khó khăn. Câu thơ là niềm cảm thương sâu sắc cho số phận những cánh cò bất hạnh, đồng thời ca ngợi phẩm chất trong sạch của họ, dù giây phút cận kề cái chết vẫn mong được chết một cách trong sạch.

Hơn nữa đó còn là lời ngợi ca tình yêu thương đức hi sinh của mẹ đối với con. Tác giả sử dụng thủ pháp đối lập, bên cạnh những cánh cò vất vả, cay đắng trên đường đời là hình ảnh của con được mẹ bao bọc, yêu thương: “con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”, “cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng”, “sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”.

Qua đó cho thấy được tình yêu thương sâu sắc của mẹ dành cho con. Lời ru ngọt ngào đó đã xua tan bao nỗi lo âu, khắc khoải, mong cho con có được giấc ngủ êm đềm. Tuổi thơ con thật hạnh phúc khi được sống trong tình yêu thương, trong lời ru của mẹ.

Sang đến phần thứ hai, cánh cò gắn với con trong suốt tuổi thơ êm đềm hạnh phúc: “Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên/ Cho cò trắng đến làm quen/ Cò đứng quanh nôi/ Rồi cò vào tổ./ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ/ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Dòng thơ đầu với cấu trúc đặc biệt “ngủ yên” được lặp lại ba lần gợi lên lời ru êm đềm, đôi bàn tay dịu dàng, vỗ về giấc ngủ cho con.

Kết hợp với thủ pháp nhân hóa “cò đến làm quen” “cò đứng quanh nuôi”,… khiến cánh cò càng trở nên sinh động, gần gũi như một người bạn thân thiết của con. Dù con khôn lớn cánh cò vẫn luôn bên con, theo con đi học, vun đắp những mơ ước của con. Điệp từ “lớn lên” cùng những dòng thơ chứa đựng tâm tình của mẹ, cho thấy mẹ luôn là ở bên chia sẻ với con mơ ước, hoài bão.

Mẹ mong con làm thi sĩ, một người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu cái đẹp và có trái tim nhân hậu. Cánh cò cũng chính là hình ảnh của mẹ, sẽ theo con suốt cả cuộc đời. Sau những lời ru tha thiết, thể hiện tình yêu thương con sâu nặng, sang đến khổ thơ cuối cùng tác giả nói về ý nghĩa lời ru.

Dù ở gần con

Dù ở xa con,

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.

Hình ảnh cánh cò – ẩn dụ cho tình yêu thương vô hạn của mẹ. Tác giả sử dụng hình ảnh tương phản: gần – xa; lên rừng – xuống bể, gợi ra biết bao vất vả mà con sẽ gặp trên đường đời, nhưng điều mẹ hướng tới đó là dù con có ở bất cứ đâu mẹ cũng sẽ tìm được con, mãi mãi bên cạnh con. Hai câu thơ cuối cùng đã cho thấy tình cảm thủy chung, sâu nặng, vĩnh hằng của cánh cò, của tình mẹ.

Từ đó Chế Lan Viên khái quát lên một quy luật muôn đời về tình mẫu tử: dù sau này con có khôn lớn, trưởng thành, thành công cả về trí tuệ và nhân cách nhưng trong trái tim mẹ con mãi là đứa trẻ bé bỏng cần sự che chở, yêu thương. Ngoài ra câu thơ con như một lời khẳng định mẹ là bến đỗ vững chắc, chốn bình yêu nhất trong cuộc đời đầy những sóng gió, giông tố. Đoạn thơ kết bài là những lời ru ngọt ngào, đưa con vào giấc ngủ êm đềm. Đồng thời cũng hàm chứa những ý nghĩa, triết lí sâu sắc về cuộc đời, về tình mẫu tử.

Tác phẩm được viết bằng thể thơ tự do đã giúp tác giả thỏa sức thể hiện trọn vẹn những cung bậc cảm xúc một cách tự nhiên, linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh độc đáo, giàu ý nghĩa biểu tượng. Sử dụng đa dạng và linh hoạt chất liệu dân gian cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.

Khai thác thành công chất liệu dân gian qua hình tượng con cò, Chế Lan Viên đã thể hiện ý nghĩa to lớn, cao cả của tình mẫu tử trong cuộc đời mỗi con người. Bài thơ cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc đến mỗi con người cần phải biết trân quý tình cảm thiêng liêng này, biết báo đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 6

Chế Lan Viên là một nhà thơ có phong cách thơ độc đáo vừa mang tính trí tuệ, triết lý sâu sắc lại vừa đậm đà chất trữ tình. Ông là nhà thơ có nhiều đóng góp quan trọng trong nền văn học dân tộc thế kỷ XX. Bài thơ Con Cò chính là một trong những sáng tác thành công để lại nhiều dấu ấn cho người đọc.

Bài thơ sử dụng hình ảnh quen thuộc đó chính là con cò. Một hình ảnh mà chúng ta thường bắt gặp trong ca dao, dân ca của dân tộc. Thêm vào đó còn gắn với lời ru của mẹ để ngợi ca tình mẹ thiêng liêng và ý nghĩa của lời ru với tâm hồn của mỗi con người.

Hình ảnh con cò thường là hình ảnh ẩn dụ về người nông dân đặc biệt còn tượng trưng cho người phụ nữ, những người mẹ tần tảo, lam lũ và hi sinh vì con cái. Chính vì thế hình ảnh con cò càng được khai thác rất hay và độc đáo:

“Con cò bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay:

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con Cò Đồng Đăng”

Những câu thơ gợi tới lời ru quen thuộc của bà của mẹ. Chế Lan Viên đã lấy những câu chữ trong lời ru ấy để thể hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò. Bối cảnh của khổ thơ chính là khi người mẹ ru con. Đứa con nhỏ bé được mẹ ru với lời ru ngọt ngào để được yên bình đi vào giấc ngủ. Trong lời ru ấy người mẹ đã cho con thấy được hình ảnh về con cò để sau này con lớn sẽ biết và yêu thêm, hiểu thêm về nó:

“Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ

Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…”

Sự vất vả của con cò vì phải đi kiếm ăn ở nhiều nơi, kiếm cả vào ban đêm, từ đồng sâu đến đồng cạn. Trong khi đó con chỉ cần ăn rồi ngủ còn tất cả đã có mẹ lo. Trong lời ru ấy bộc lộ cuộc mưu sinh vất vả nhưng mẹ vẫn luôn là chỗ dựa tin cậy cho con, che chở con suốt cuộc đời mình. Lời ru lại vang lên:

“Ngủ yên! Ngủ yên!

Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”

Lời ru thắm thiết, thắm đượm tình nghĩa. Hình ảnh con cò luôn thường trực theo những lời ru của mẹ. Đó chính là sự khởi đầu cho tâm hồn của mỗi con người. Từ lời ru khiến con cảm nhận được sự yên thương, âu yếm và vỗ về. Dù con còn nhỏ nhưng con vẫn có thể cảm nhận được bằng trực giác. Cánh cò bắt đầu từ trí tưởng tượng bằng sự chiêm nghiệm. Từ đó cánh cò trở thành người bạn của con thơ:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò ở quanh tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ.

Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”

Cò trở thành người bạn, người đồng hành với con từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành. Cánh cò cũng giống như mẹ lúc nào cũng theo sát bên con. Tượng trưng cho tấm lòng của người mẹ luôn dõi theo từng bước chân của con. Lời thơ dịu dàng, xúc động:

“Dù ở gần con,

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con”

Đó là sự chân thành, tha thiết của một người mẹ luôn luôn hướng về con. Từ đó nhà thơ khái quát thành một quy luật tình cảm của mẹ dành cho con với tính chất vĩnh hằng:

“Dù con lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”

Tình mẹ là bao la, không thể đong đếm cũng như không bao giờ cạn. Phần cuối của bài thơ với âm hưởng chập rãi để đúc kết ý nghĩa của hình tượng con cò trong lời ru của mẹ:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát quanh nôi”

Bài thơ được sáng tác với bút pháp nghệ thuật độc đáo. Với thể thơ tự do nhà thơ có thể dễ dàng biểu đạt cảm xúc một cách tự nhiên, sinh động. Bài thơ còn là lời ru là lời triết lý về cuộc đời. Bài thơ Con cò là một bài hát ru thấm đẫm tình mẫu tử. Bài thơ khiến cho người đọc như được trở về với tuổi thơ, với cánh cò từng in dấu trong những ngày thơ bé, những giấc mộng trưa hè.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 7

Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên, chập chờn theo đôi cánh cò trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn.

Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế.

“Con cò bế trên tay

Con chưa biết cánh cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc đời một cách vô thức. Vô thhức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru.

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng

Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một bầu không khí đã rất xa xăm bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ, những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết, sẵn sang hi sinh cho con tất cả những cánh cò kia, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước trong” để khỏi mang tiếng xấu cho đàn con nhỏ.

Lời ru của mẹ có đứa con bé bỏng, có cánh cò yếu đuối, nó không còn là lời hát ru nữa, nó là lời tâm tình của trái tim người mẹ nhân từ, bao dung. Khi thì mẹ thương con, khi thì mẹ thương cánh cò cả cuộc đời yếu đuối. Dù rằng lời ru có mang theo bao điều như thế, em bé vẫn say ngủ ngon lành. Tình mẹ hòa vào lời ru vẫn vỗ về tâm hồn non nớt, vẫn cho con niềm yêu thương và che chở tuyệt vời. Bầu không khí của hoài niệm quá khứ dần dần khép lại, đưa con người trở về với thực tại, với mẹ, với em:

Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cánh cò mềm mẹ đã sẵn tay nâng

Lời mẹ trước kia còn trầm, buồn vang lên trong cái âm điệu dài, xa vắng vậy mà giờ đây sao trìu mến, sao tha thiết đến lạ lung, vỗ về, nâng giấc tình yêu, thi nhân bước đến khoảng trời vời vợi chân lí, nơi ấy có một sự thực mà cả đời người kiếm tìm mới chợt hiểu, nó ở bên ta, nó ở giữa cuộc đời:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.

“Dù”, “vẫn”, sự khẳng định chắc chắn hơn bao giờ hết. Nó hiển nhiên như chính cuộc đời. Con dù lớn khôn, dù trưởng thành đến đâu, trước long mẹ bao la con vẫn luôn bé bỏng. Mặt trời con luôn sưởi ấm trái tim mẹ, còn mẹ, mẹ mãi yêu con, yêu con bằng tình yêu theo bé bước đi mãi mãi.

Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu, cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru (Nguyễn Duy)

Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ như thế vì bằng trải nghiệm ông đã hiểu cái bao la bất tận của tình mẹ yêu con. Còn Chế Lan Viên, thi sĩ tìm thấy trong cánh cò yêu thương bay ra từ câu hát, một triết lí thiêng liêng đủ soi rọi mọi tâm hồn tận ngóc ngách sâu thẳm nhất.

Có lẽ phút hiểu ra cái điều cả đời mình tìm kiếm, nhà thơ phải nén lại niềm xúc động đến rưng rưng trực tuôn trào ra khoé mắt để viết lên cái điều ấp ủ bấy lâu, rằng tình mẹ là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời chúng ta, rằng lòng mẹ là bao la, vô bờ bến, luôn ôm ấp tâm hồn mỗi con người.

Với mẹ, con là hơi ấm nồng nàn, là sự sinh tồn, sự sống, con đem lại cho mẹ hơi sống, niềm hạnh phúc yêu thương lớn nhất cuộc đời. Ta chỉ có thể nói như vậy về cái quy luật bất biến ấy, vì tự nó đã nói lên tất cả những điều thấm thía nhất trong cuộc đời. Biểu tượng của long mẹ thì thiêng liêng, biểu tượng của cuộc đời thì ấm áp:

À ơi

Một con cò thôi

Con cò mẹ há

Còng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi

Tình mẹ cứ theo con đi suốt năm tháng, trở thành hành trang cho đứa con bé bỏng bước vào đời. Con sẽ bước đi trong niềm tin mạnh mẽ vì: “Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân”. Cánh cò tuổi thơ sẽ chắp cánh giấc mơ đẹp đẽ, đưa em đến những phương trời xa. Như cánh cò trong thơ Trần Đăng Khoa khiêng nắng về đánh thức ngày mới: “ Cánh cò trắng khiêng nắng qua sông…”

Cánh cò của Chế Lan Viên biết đánh thức cả bầu trời lấp lánh hi vọng những vì sao mơ ước, cho em thơ tương lai đẹp đẽ, sáng rực lên muôn vạn sắc màu. Và trong muôn vàn sắc màu rực rỡ ấy, rất nhẹ nhàng đọng lại một thứ màu dìu dịu yêu thương, màu của tình mẫu tử, để rồi cho con. Đâu rồi cái cánh cò trắc trờ, hiểm nguy trong câu hát thủa xưa, chỉ còn cánh cò em,, ngủ ngon trong vòng tay mẹ.

Em và cò hóa thân vào nhau trong vòng tay ấm áp yêu thương. Cứ như vậy, em bé ngủ yên trong tình mẹ dạt dào, trong sự che chở, chăm sóc, nâng niu ẩn chứa yêu thương vô bờ bến. Đứa bé đón nhận tình yêu, đón nhận lời ru vô thức để rồi mang hơi ấm của lời ru vô thức ấy đi theo suốt cuộc đời.

Lời ru – giọt mật đầu tiên mẹ rót cho em bé trong cuộc đời nó sóng sánh tình mẹ, sóng sánh không khí của đất trời thấm vào lời ru. Em ngủ say, ngủ say trong tình mẹ, ngủ say trong tình yêu thương của đất trời bao la ban cho những thiên thần cho những tâm hồn bé nhỏ. Và khi ấy, dù:

“ Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mền mẹ hát

Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”

Mẹ vẫn gọi con mẹ vẫn nhắc tên con, sự lặp lại những lời yêu thương ấy là lời nhắn nhủ, lời giãi tỏ tâm tình, tràn đầy tình yêu con. Cánh cò, cánh vạc bay, ngân xa mãi tình yêu vô tận ấy. Em bé có hiểu tình mẹ ko nhỉ? Nhưng thôi, cứ ngủ đi em ạ, vì còn gì em ả, thanh bình bằng giấc ngủ của em trong lời ru ầu ơ tha thiết.

Cánh cò đến, trong lời ru tuổi thơ, dịu dàng, êm ái là vậy mà theo ta đi mãi, đi suốt những chặng đường dài, gắn bó bền bỉ, thân thương cho con người tựa vững chắc nhất: “ Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”. Lời ru của mẹ vỗ về cho em ngon giấc, nó ngọt lịm, thanh bình như tình mẹ bao thuở vẫn vậy, vẫn nhẹ nhàng nâng đỡ đời con. Và cánh cò, từ một miền xa xăm nào đó, lại đến cùng lời mẹ hát ru, chở theo cả niềm yêu thương ấm áp về cùng giấc ngủ trẻ thơ:

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi, rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Lý muôn đời của tình mẹ, của lời hát ru con. Chẳng cần phải rút ra một châm nghiệm to tát, chẳng cần phải trau chuốt lời văn, ý thơ đâu, nhẹ nhàng thôi, giản đơn thôi, thi sĩ làm xao xác tận sâu thẳm tâm hồn người đọc:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con”

Ta tự hỏi lòng chẳng lẽ còn thứ tình cảm tha thiết, mãnh liệt hơn thứ tình cảm kia nữa? Một tình cảm vượt lên trên tất cả khó khăn, ngăn cách, nối liền những nẻo xa xăm, một tình cảm có sức lay động, ám ảnh tâm can dù mới chỉ làn đầu nhìn thấy. ôi! Tình mẫu tử… có lẽ còn thiêng liêng hơn mọi điều thiêng liêng nhất. Dù ở đâu, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, lòng mẹ cũng như cánh cò kia, vẫn bên con, vẫn lặn lội đi tìm, lặn lội sưởi ấm trái tim con, cho con sức mạnh, cho con niềm tin vào cuộc sống.

Kì thực em bé vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn đang ngủ ngon lành trong cánh nôi tuổi thơ nhưng ước mơ of mẹ về một tương lai đẹp mai sau cứ theo tình yêu cháy lên mãi. mẹ độc thoại với chính lònh mình, tự soi long mình trong tình cảm yêu con tha thiết:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…”

Chưa bao giờ ước mơ cháy bỏng, tha thiết đến như thế, mẹ ước mơ và gửi trọn ước mơ ấy vào đôi chân con mai này sẽ bước trên đường đời, sẽ vươn tới những khát khao mẹ ấp ủ bằng cả niềm tin. mẹ hỏi lòng và tự trả lời cho câu hỏi: mẹ muốn con làm thi sĩ, mang cái đẹp đến cho cuộc đời qua những vần thơ về mẹ, về con, về cuộc sống xung quanh đang từng ngày nuôi con lớn khôn. Mẹ muốn cuộc đời con mãi mãi đẹp mãi mãi trong sáng như bài thơ đẹp đẽ nhất.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 8

Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam Với những ý nghĩa sâu sắc. Nó là hình ảnh biểu trưng cho hình tượng người, phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để viết nên bài thơ Con cò ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ.

Bài thơ Con cò được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ Hoa, ngày thường – Chim báo bão (1967) của Chế Lan Viên. Viết Con cò, nhà thơ thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu hát thể hiện được tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con còn bé thơ.

Hình ảnh con cò qua bài thơ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng, luôn luôn biến hóa trong tiếng hát và lời ru. Hình ảnh con cò, tượng trưng cho tấm lòng trong trắng, cho những nỗi khổ của ngày qua, cho niềm vui và mơ ước hôm nay, cho tình yêu thương rộng lớn của người mẹ với cái bé bỏng côi cút của con thơ.. Dường như, với tính chất tượng trưng, con cò trong trường hợp nào cũng đúng cả, cũng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Trong trang thơ, cánh cò không tự có, không tự hiện hữu bất di bất dịch như muôn vàn câu chữ của thi ca, nó phải bay ra từ một miền xa xôi lắm. Chế Lan Viên đã đánh thức cánh cò yên ngủ, gọi cò về với những lời ru ấp ủ trong tâm hồn thi nhân để rồi, qua lời ru của mẹ trên trang thơ, con cò bắt đầu đến với tuổi thơ diệu kì của đứa trẻ. Dịu dàng, êm ái, người mẹ bắt đầu thủ thỉ, tâm tình với niềm yêu thương tha thiết:

Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay

Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc đời một cách vô thức. Vô thức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru.

Em chưa hiểu tình mẹ, nhưng mơ hồ, em đã thấy bên em một sự che chở, vỗ về thiêng liêng, một tình yêu thương êm đềm, trìu mến. Và cánh cò bắt đầu chao lượn dập dìu trong lời hát ru con:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng…

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

“Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…”

Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.

Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một không gian đã rất xa xăm bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi ấy thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ, những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết.

Ta thấy những cánh cò kia sẵn sàng hi sinh vì con, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước trong” để khỏi mang tiếng xấu cho Con. Dẫu rằng đó là lời hát ru, lời ca dao cách tân trong thơ hiện đại, cánh cò vẫn mang theo cả nỗi buồn, niềm vui hòa lẫn, khiến người đọc phải nghĩ suy. Người mẹ ru con trong vất vả, nhọc nhằn càng gieo thêm đắng cay, cái vị đắng cay mà Xuân Quỳnh từng không giấu nổi xúc động khi nghe câu hát ấy trong “gió Lào” và “cát trắng” miền Trung:

Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt

Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng.

Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, đất nước; hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: “cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng”.

Câu thơ khiến ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh sẻ chia:

Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Cho cò trắng đến làm quen,

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.

Mai khôn lớn con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì? Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…

Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò gắn bó mật thiết và trở thành người bạn đồng hành với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Đoạn đầu là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò “đứng ở quanh nôi”, rồi cò “vào trong tổ”; con có ngủ thì cò mới ngủ.

Hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai:Mai khôn lớn con theo cò đi học,Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Đó là sự đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính mình. Ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con.

Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững vàng, không sợ vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa bao la.

Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò – hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành. Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người. Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nhiều xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình, tha thiết.

Dù ở gần con,

Dù ở xa con,

Lên rừng, xuống bể

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn, vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.

Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ là điểm tựa cho con bởi: “con dù lớn vẫn là con của mẹ”. Thế nên: “đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Có biết bao nhiêu tình cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta.

Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu. Cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lợi mẹ ru. (Ngồi buồn nhó mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lội ru à ơi:

À ơi!Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.

Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát quanh nôi.

Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ. Lại một lân nữa các cụm từ: “ngủ đi”, “cánh cò, cánh vạc”, “nôi” được nói về kì niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức của mỗi người.

Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trau chuốt. Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được.

Thế nhưng, với bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, ta như được trải nghiệm và hiểu thêm một cách sâu sắc về ý nghĩa của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. Để rồi, mỗi lần đọc lại bài thơ Cơn cò vần gợi lên những rung động và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của người mẹ. Từ đó mỗi người chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trước lòng mẹ bao la, dạt dào thân thương và trìu mến, trước cuộc sống hôm nay của đất nước.

Con cò cùng với những bài thơ khác trong Hoa ngày thường – Chim báo bão, Ánh sáng và phù sa giúp chúng ta thấm thía hơn những “Trang đời, trang viết, nặng nghĩa đời sau” của nhà thơ Chế Lan Viên.

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 9

Chế Lan Viên là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với hơn bốn mươi năm sáng tác, bằng nhiều tìm tòi và sáng tạo nhiều tập thơ gây được tiếng vang trong công chứng. Bài thơ Con cò sáng tác vào năm 1962. Bài thơ như một lời ru tha thiết, đầm ấm và tràn đầy tình thương mà người mẹ gửi gắm đến cho con.

Lời ru không biết từ bao giờ đã đi vào tiềm thức, vào tuổi thơ của mỗi con người. Với khổ thơ tự do, từ ngữ giản dị, bài thơ đã đi vào lòng người đọc một cách dịu êm và thấm thía. Mở đầu bài thơ là hình ảnh con cò qua lời ru của mẹ đến với tuổi ấu thơ :

Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay.

Có thể thấy qua cách xưng hô mẹ – con, tác giả đã đóng vai người mẹ để nói với con. Tác giả đã giới thiệu đứa con còn nhỏ. Con đang được mẹ bế, được ngủ yên trong hơi ấm tình thương, trong lời hát ngọt ngào và lời ru của mẹ :

Con cò đang bay

…..

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng.

Lời ru vẽ ra cảnh cánh đồng lúa, phố xá, không gian, địa danh cụ thể của quê hương người Việt. Tác giả còn gợi ra hình ảnh cò mẹ – một ẩn dụ, liên tưởng tới con người lao động thật đẹp đẽ. Lấy hình ảnh con cò để nói về con người. Thơ của Chế Lan Viên đã khiến chúng ta phải suy nghĩ về sự vận dụng sáng tạo ca dao.

Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ.

Con cò ăn đêm,

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm,

Cò sợ xáo măng…

Nhà thơ đã vận dụng ca dao, lọc chọn một số từ ngữ để gợi. Con cò đi ăn đêm gặp tai nạn và chết, nhưng khi chết nó vẫn thương con, nó muốn chết trong, không muốn chết đục để cho con nó khỏi mang tiếng xấu. Đó chính là lòng mẹ, tình thương mẹ dành cho con, luôn mong điều tốt đẹp cho con dù trong hoàn cảnh nào.

Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận, mẹ dành cho con bao tình yêu thương. Cánh tay dịu hiền của mẹ, che chở cho con, lời ru câu hát êm đềm và dòng sữa mẹ ngọt ngào đã nuôi con khôn lớn. Tình mẫu tử qua lời thơ thật cảm động và sâu sắc. Nhịp thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vô bờ bến.

Ngủ yên ! Ngủ yên ! Cò ơi, chớ sợ ! .

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng !

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc,

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.

Điệp ngữ “ngủ yên”, “con chưa biết”,”con cò” làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, thiết tha êm dịu. Nhịp điệu ru cứ trôi đi khi điệp ngữ “ngủ yên !” lặp lại ba lần trong khổ thơ thứ hai – khi mẹ nói đến tình bạn ấu thơ của con với cò trắng. Nhà thơ thật yêu trẻ khi ông để cho người mẹ hát:

… Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ.

Và thật đẹp, hình ảnh cò và đứa con ngủ chung trong tổ như hai thiên thần bé nhỏ: “Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”.

Ngắm nhìn con thơ ngủ mà lòng mẹ dạt dào mong ước, con sẽ lớn khôn, con đến trường đi học:

Mai khôn lớn, con theo cò đi học

Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân.

Mai sau lớn lên con sẽ làm thi sĩ. Cuộc đời con nhiều sáng tạo, mải miết chuyên cần “bay hoài không nghỉ”. Hình ảnh cánh cò trắng bay… thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mẹ về cuộc đời tương lai của con. Con sẽ nối chí cha. Một câu hỏi đến với mẹ hiền :

Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì ?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…

Dù con làm thi sĩ hay không làm thi sĩ, con sẽ làm một nghề nào đó có ích cho đời, thì cánh cò trắng tuổi thơ vẫn theo lời ru của mẹ đi với con suốt cuộc đời dài… Đoạn thơ cuối, tiếng ru con, tiếng hát của mẹ hiền cất lên. Ở phần thơ này, từ hình ảnh cò trong lời ru, tác giả nói về lòng mẹ và cuộc đời.

Dù ở gần con,

Dù ở xa con,

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.

Chữ “dù”, “vẫn” được điệp lại, ý’ thơ được khẳng định tình mẫu tử bền bỉ, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển và có gì bao la hơn là lòng mẹ thương con. Hai câu cuối của khổ thơ đã triết lí thật sâu sắc về lòng mẹ. Quả thật, mỗi bước ta đi trong đời lúc nào cũng có mẹ theo bên, nếu có lỡ chân sa ngã, mẹ lại đỡ ta dậy, nâng bước ta đi tiếp trên đường đời. Ôi, lòng mẹ của chúng con ơi !

Mười câu cuối bài thơ đượm chất triết lí trữ tình. Nghĩ về con cò trong ca dao, nghĩ về cuộc đời con mai sau, người mẹ nghĩ về thân phận, số phận những con cò nhỏ bé, đáng thương trong cuộc đời xưa và cuộc đời nay.

À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.

Phải chăng người mẹ hiền đang băn khoăn về con cò trong những câu hát xưa mà nghĩ về cuộc đời:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Thác trong còn hơn sống đục, ấy là ý vị cuộc đời đáng trọng xưa nay.

Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh một cuộc đời mới bình yên, êm ả, hạnh phúc của con thơ… Bài thơ Con cò mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. Năm mươi mốt câu thơ tự do, câu ngắn nhất hai chữ, câu dài nhất tám chữ đan xen, kết thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, mang ý nghĩa sâu sắc: Bài thơ ca ngợi tình mẹ bao la, sâu sắc, ca ngợi cuộc đời đầy ắp nhân tình. Bài thơ đã nói với chúng ta: Tất cả hãy vì trẻ thơ. Tình mẫu tử thật thiêng liêng, cao quý!

Bài văn phân tích bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên số 10

Hình tượng con cò bao quát toàn bộ bài thơ được khai thác từ trong ca dao truyền thống và được tác giả phát triển, xây dựng thành ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, và ý nghĩa của lời hát ru trong cuộc đời mỗi con người.

Thân bài Phân tích bài thơ “con cò”của Chế Lan Viên.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh con cò qua những lời ru hát ầu ơ của mẹ, của bà, hình ảnh của những người phụ nữ nông dân vất vả, cực nhọc nhưng giàu đức hy sinh và những câu ca dao dùng làm lời hát ru.

“Con cò bay lả bay la

Bay từ Cổng phủ bay ra cánh đồng

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng…”

Đây là những cánh cò bay lả bay la dọc theo chiều dài của những cánh đồng lúa xanh tít tắp, bay về những mái nhà tranh bình yên. Hình ảnh con cò gợi cuộc sống xưa cũ từ làng quê đến phố xá, thong thả, bình yên, ít biến động. Cuộc sống ấy là quê hương thân yêu với cánh cò trải rộng. Hình ảnh con cò là nét rất riêng, rất duyên dáng, dịu dàng, đặc trưng cho làng quê Việt Nam. Con cò ấy phải chăng là hồn của quê hương, mà mẹ gửi vào giấc ngủ của đứa con.

Hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ còn là “Con cò ăn đêm, con cò xa tổ, cò gặp cành mềm, cò sợ xáo măng”. Đó là hình ảnh cánh cò vất vả, lam lũ trong ca dao:

“Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”

Hay câu ca dao:

“Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”

Đó là cánh cò tần tảo, là hình ảnh của người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con. Đây không còn là con cò trắng bình yên vô tư lự mà đã trở thành biểu tượng của những người nông dân vất vả, cực chẳng đã, thậm chí còn vất vả hơn khi cò gặp cành mềm.

Qua những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn tuổi thơ ấu một cách vô tư. Đây chính là sự khởi đầu của con đường đi vào thế giới tâm hồn mỗi con người, của những lời ru, lời ca dao dân ca, qua đó là cả điệu hồn dân tộc. Ở tuổi ấu thơ, đứa trẻ chưa thể hiểu và chưa cần hiểu nội dung ý nghĩa của những lời ru này

“Con chưa biết con cò con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát”.

Chúng chỉ cần được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận bằng trực giác vô thức tình yêu vô bờ bến và sự che chở của người mẹ: “Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”.Nhịp 2 và vẫn đóng mở ngân vang, xen kẽ nhau trong từng dòng thơ kết hợp với biện pháp tu từ nhân hóa và so sánh đã tạo nên vẻ đẹp cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm sâu sắc. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng giấc ngủ say nồng của trẻ thơ.

Hình ảnh con cò đi vào trong tâm hồn trẻ thơ cùng với âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru trở nên gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường đời:Từ lời ru của mẹ, con cò bước ra làm quen với đứa con bé bỏng. Thế rồi cò trở thành người bạn thân thiết, gần gũi.

Khi còn ở trong nôi “Con ngủ yên thì cò cùng ngủ. Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Khi con đi học “Mai khôn lớn con theo cò đi học. Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”. Và khi con đã trưởng thành “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ. Trước hiên nhà, và trong hơi mát câu văn”.

Như vậy, con cò đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết hơn bất cứ người bạn nào. Cánh cò không mệt mỏi bay qua mọi không gian và thời gian, luôn ở bên con từ trong nôi, từ mái trường, từ hiên nhà, từ câu văn. Cánh cò ấy dường như tung tay theo từng ước mơ, khao khát của con. Như vậy, hình ảnh con cò là biểu tượng về lòng mẹ, là sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng, bền bỉ của mẹ và mẹ mong cho con có tâm hồn yêu quê hương.

Hình ảnh con còn là biểu tượng cho tấm lòng yêu con của người mẹ, theo con suốt cuộc đời: Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát một quy luật tình cảm có ý nghĩa sâu sắc và bền vững: “Con dù đã lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Câu thơ giàu chất trí tuệ, triết lý. Triết lý của trái tim. Điệp từ “dù”, “vẫn” đã khẳng định tình mẫu tử là bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ yêu con.

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con

À ơi!

Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi

Ngủ đi, ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi”

Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết hình tượng con cò trong những lời ru ấy “Một con cò thôi. Con cò mẹ hát. Cũng là cuộc đời. Vỗ cánh qua nôi”. Đúng vậy, chỉ một con cò trong lời ru của mẹ thôi mà ẩn chứa bao bài học, bao ý nghĩa về cuộc đời. Bài học ấy, ý nghĩa ấy đến với con thật nhẹ nhàng sâu lắng, qua âm điệu thiết tha của những lời ru. Không có lời ru, cuộc đời con thiệt thòi, nghèo nàn biết mấy.

Có thể nói hình tượng con cò không có gì là xa lạ đối với thơ ca Việt Nam nhưng bằng tài năng của mình, Chế Lan Viên đã mang tới cho ta một hình tượng con cò rất mới, rất lạ nhưng lại rất Việt Nam. Con cò đến với con như một người bạn, người đồng hành cùng con trong giấc ngủ êm đềm.

Càng đọc, chúng ta càng thấm thía về tình mẫu tử thiêng liêng và càng thấy trân trọng, biết ơn công ơn trời biển của mẹ chăm chút ta từ khi tấm bé tới lúc trưởng thành. Chúc các bạn học tốt để không phụ lòng mẹ của mình.

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt hay nhất

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt hay nhất

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được sáng tác năm 1963 khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước Nga xa xôi. Với giọng điệu tâm tình, thiết tha, chân thành cùng hình ảnh bếp lửa đầy sáng tạo mà hiện thực, bài thơ đã viết lên những dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, tác phẩm đã bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước. Đặc biệt, những điều thân thiết, những kỉ niệm của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ chúng ta trên mỗi bước đường đời. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 1

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kì niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà.

Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình.

Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hú kêu trên những cách đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lứa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.

Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.

Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:

Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (…)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp.

Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông.

Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng va quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu.

Ngựời bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế… Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?” Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người.

Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.

Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn. Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thế thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình.

Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng đế yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.

Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa:

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng con đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản: “Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”. Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui. Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện.

Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biên xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ờ bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy… (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 2

Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê hương đất nước,…

Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ “một bếp lửa” và từ láy “chờn vờn” khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà.

Người bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ.

Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm, một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc.

Gian truân cuộc đời bà vì cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu. Từ đây ta thấy rằng trong trái tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời thương nhớ về người bà, một câu “cháu thương bà” cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Ở đoạn này, kỉ niệm không phải là hình ảnh nhẹ nhàng như “chờn vờn sương sớm” hay “ấp iu nồng đượm” mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả, đứa cháu bốn tuổi cùng bà cơ cực trải qua nạn đói năm 1945. Không khí u ám, lầm than của nạn đói nhờ có người bà kính yêu đã được xoa dịu đi phần nào, bà tảo tần sớm hôm mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn đỡ đói.

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” nghe như tiếng kêu xé lòng, nỗi ám ảnh của một đứa trẻ hằn sâu trong tâm trí là nỗi sợ hãi. Không như bao người khi nghĩ về tuổi thơ của mình là mảng màu hồng, thì với tác giả đó lại là mảng màu xám pha cả màu đỏ của máu từ những nỗi đau của đói khổ, cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử đã làm chết hơn hai triệu con người. Nhưng có bà luôn bên cạnh che chở, có khói bếp làm nhòa đi phần nào đau thương từ nạn đói, kỉ niệm vẫn mang chút hơi ấm, làm quên đi nỗi khốn khổ.

Chi tiết “khói hun nhèm mắt cháu” để thấy được đứa trẻ bốn tuổi ấy cố lấp đi những ám ảnh của việc đói mòn mỏi bằng khói bếp của bà, và chi tiết “sống mũi còn cay” cay do mùi khói nghi ngút ấy đang cố che giấu đi mùi máu tanh ở các ngõ ngách, cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh “đói mòn đói mỏi” đang dần len lỏi vào từng mảng kí ức thơ ngây, mang theo nỗi đáng sợ của nạn đói, mang theo cả cảm giác thèm từng củ khoai, củ sắn, khi ấy những món ăn đơn sơ cũng trở thành “mĩ vị nhân gian”.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Tám năm ròng” khoảng thời gian dài đằng đẵng cháu cùng bà vẫn luôn nhóm lên ngọn lửa yêu thương, nồng ấm, ngọn lửa của sự sống, khoảng thời gian đó dẫu trải qua khó khăn nhọc nhằn nhưng chỉ cần có bà vẫn thật bình yên. Tuổi thơ người cháu gắn với bà với bếp lửa yêu thương, gắn với cả tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng, như thúc giục người nông dân mau ra ruộng thu hoạch thoát khỏi sự đói khát.

Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú kêu cũng như một tiếng chuông báo rằng: “Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe.” Từ “tu hú” được lặp lại ba lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả vì trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Tiếng tu hú trở thành một khoảng trời kỉ niệm nhẹ nhàng đậm tình yêu thương giữa tác giả và bà.

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? “

Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy vẫn nói lên được sự tận tụy của bà chăm lo cho cháu khi “mẹ cùng cha công tác bận không về”. Hình ảnh bà như một người cha một người mẹ lo lắng chăm bẵm cho con mình, cũng như một người thầy dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của tác giả.

Cấu trúc “bà-cháu” thể hiện một tình yêu sự gắn kết của người bà với người cháu. Hình ảnh “bà dạy cháu làm”, bà dạy cháu cháu cách làm người, dạy cháu tự lập cho cuộc sống của mình, bà dạy cháu yêu thương gia đình, và hình ảnh “bà chăm cháu học” bà dạy cho cháu từng nét chữ, bà cho cháu kiến thức mai sau giúp ích cho đất nước.

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” đứa cháu nhỏ lo lắng cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc đứa cháu cùng bà nhóm lên bếp lửa giúp bà đỡ đi phần nào nhọc nhằn. Sau đó lại là lời trách tu hú của đứa trẻ thơ ngây, trách tu hú sao lại chẳng đến ở với bà, giúp bà đỡ đần công việc, để bà đỡ cô quạnh buồn tủi, mà tu hú cứ mãi ham chơi trên những cánh đồng kia.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 3

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình…

Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn.

Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc.

Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.

Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”. Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm

(Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp.

Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.

Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chính là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh.

Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà.

Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu.

Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp. Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình.

Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà.

Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình.

Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”.

Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối.

Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu.

Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người…

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 4

Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,…nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ánh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta…

Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,… và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng…. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế… Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi…có bà!

Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết…”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người…”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi…? Bà đang nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu…

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ “chờn vờn” sưởi ấm cả gian nhà vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa đông khi hai bà cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ.

Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia…? ” Ấp iu”-gợi một bàn tay nhen nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân cần.

Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng ta thấy hình ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhóm lên ngọn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho cháu. Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian nan, vất vả và từng trải!

Chỉ một từ “thương” thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho cả đoạn. Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, “nắng mưa”, khó khăn, gian truân đời bà! Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình thương là vị muối mặn của tình người, là chất keo của mối gắn bó. Chứ “thương” vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người.

Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ “thương” đã có thể thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương cồn cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bến bà, ngồi cạnh bà dưới ấm áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương… Hình ảnh bà “biết mấy nắng mưa” cứ rõ dần, tỏ dần với sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ…:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Kỉ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Những năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi lên bốn, đó chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và dai dẳng, “đói mòn đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào quên- cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy!

Bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy gời là cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã làm chết hơn hai triệu người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn ám ảnh dai dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, như thể vừa mới “hun nhèm” thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn trong tim, trong tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ.

Cay vì khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ họng và dường như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, củ sắn, hay là giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng khi sắp được ăn cho thỏa nỗi thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng, lúc bà đang lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy!

Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon, nhưng hồi ấy là cả một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh bằng, cả một điều lớn lao, vĩ đại!

“…Cái năm đói củ rong giềng luộc sượng

Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm” (Đò Lèn-Nguyễn Duy)

Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ niệm không thể quên của đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái đắng của những đói khổ không chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác nữa! Đến người còn không có ăn, nói chi “ngựa gầy” “khô rạc” là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe chạy chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội .

Đó cũng là một kỉ niệm còn neo lại nơi tâm trí cháu, trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không quên! Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng…Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy…Trong lòng cháu…!

Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa,…cứ đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,”cháu cùng bà nhóm lửa”, vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.

Đó là tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn thương thế! Nó ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ dội về hiện tại, làm kỉ niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỉ niệm ấy, có cả đắng và ngọt, cô đơn và hạnh phúc!

Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa, lâng lâng trong lòng người cháu xa xứ. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.

Hạnh phúc tưởng chừng như nhỏ bé mà lại là thiêng liêng và lớn lao nhất của cuộc đời mỗi con người, là hạnh phúc gia đình, là phút giây sung sướng đến tột cùng khi được trông thấy đứa con-hình hài yêu dấu-món quà vô giá mà cuộc đời ban tặng cho mình – cất tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được một căn nhà, một tổ ấm-nơi nương tựa vững chãi nhất trong những phút giây bi quan, yếu lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc đời-con người ta tìm về để được an ủi, sẻ chia một cách chân thành!

Ấy vậy mà loài chim tu hú đâu có được niềm hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng, đẹp đẽ nhất cuộc đời ấy! Tiếng kêu của chúng trở vì vậy trở nên khắc khoải, mòn mỏi, mong đợi, khát khao một điều gì đó tha thiết lắm…Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu, làm sục sôi khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên:

“Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi!

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”

Tiếng kêu đầy khao khát và khắc khoải ấy cũng xuất hiện ở nỗi nhớ da diết về quê hương và bóng người cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô con gái tuổi thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh Thơ:

“Rồi tiếng chim tu hú

Vang suốt những mùa hè

Con đi dài thương nhớ

Mười năm chưa về quê!”

Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong cái không gian xa vẳng của nỗi nhớ thương… Và bà ơi khi tu hú kêu, thì đó cũng là lúc “Bà hay kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện ấy, rất dài mà rất hay, thấm thía, hơn thế nữa, nó còn được kể qua chất giọng ấm áp, chậm rãi, chan chưa cảm xúc và tình yêu thương của bà.

Có thể đó là những chuỗi ngày hạnh phúc khi gia đình ở Huế, bà cũng là người hoài niệm, sâu sắc và đầy suy ngẫm… Cũng có thể đó là rất nhiều những câu chuyện,… giống như những câu chuyện mà bà hay kể “hồi còn ở Huế”! Vậy ư? Thế thì nhiều lắm lắm!

Trong kho tàng chuyện ấy, có thể, tuổi thơ cháu đã ướp đậm vị ngọt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình vào thế giới nơi có cô Tấm thảo hiền, có chằng Thạch Sanh dũng cảm, có mẹ con nhà Cám độc ác, tàn nhẫn, có mẹ con Lí Thông gian xảo, mưu mô,…có cái thiện cũng như cái ác.

Và hơn hết, cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác! Nhắc tới tuổi thơ, người ta bao giờ cũng nghĩ ngay đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ hay kể cho con trẻ nghe, rồi bảo chúng rút ra bài học, hoặc dăn dạy những điều hay, lẽ phải từ câu chuyện ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn giản, dễ hiểu, mà lại vừa sâu sắc, thấm đẫm tình…

Bà đã ươm lên và nuôi dưỡng trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ khi còn thơ dại một mầm cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngời, nó là cái gốc để phát triển thành những thân, những cành, những hoa, lá, những quả… sau này!

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 5

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.

Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Khổ thơ đầu chỉ vỏn vẹn ba câu nhưng đã khắc sâu hình ảnh “bếp lửa” trong kí ức của tác giả. Từ bao đời nay, bếp lửa đã trở thành một vật dụng quá đỗi quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân làng quê Việt Nam. Đó là nơi đun nấu những bửa cơm ngon lành và ấm cúng cho cả gia đình sau một ngày làm việc. Là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn, là không khí sinh hoạt gia đình đầm ấm, yên vui.

Trong mỗi gia đình, không thể không có một bếp lửa. Có lẽ vì những điều ấy nên đang sống ở xứ người lạnh lẽo, tác giả chạnh lòng nhớ về bếp lửa của quê nhà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Từ láy “chờn vờn” có sức gợi tả rất lớn. Nó vẽ nên một ngọn lửa không định hình, lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn cháy cao, tỏa sáng một cách mãnh liệt.

Hình ảnh ấy vừa giúp ta hình dung làn sương sớm lành lạnh đang nhẹ vờn quanh bếp lửa bập bùng, lại vừa rất thích hợp để gợi lên cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian, của những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn có sức ám ảnh day dứt…

Từ láy “ấp iu” cũng là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy đơn thuần là sự kết hợp và biển thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Một bếp lửa ủ than hồng nồng đượm nhờ có bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp.

Từ hình ảnh “bếp lửa”, ta liên tưởng đến hình ảnh người nhóm bếp: người mẹ, người chị và đặc biệt trong bài thơ này là người bà – người phụ nữ cả một đời vất vả lo toan cho cháu, chăm lo, vun vén cho cuộc sống của cháu trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và gian khổ.

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhòe lẫn trong nhau đó là “bà” và “bếp lửa”. Trong hồi tưởng của người cháu, hình ảnh bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu thương của bà dành cho cháu và những người thân. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút.

Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Bếp lửa ấy cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ. Chính vì điều đó, khi nghĩ đến bếp lửa, hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ trong tâm trí của nhà thơ.

Vào đề chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến hai lần điệp ngữ “một bếp lửa”. Phải! Chỉ một bếp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ để gợi về cả một quá khứ, một tình yêu thương mãnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp đi như tô, như khắc đậm thêm tình yêu thương của cháu đối với bà.

Người cháu, dù đã cố kìm nén, cũng không thể nào giấu được nỗi lòng của mình: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Chữ “thương” diễn đạt rất chân thật, giản dị, không một chút hoa mĩ như chính tấm lòng của đứa cháu đối với bà. Chính cách nói gây xúc động đối với người nghe. Ta nghe như tiếng thơ đang thổn thức…

Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà. Và chính tình thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đó mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”

Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.

Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.

Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bòng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả xúc động vè cái khổ của con ngưới, của cuộc sống trong thời kì đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:

“Con đói lã ôm lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đấu khóc cầm hơi

Kiếp người cơm vãi cơm vãi rơi

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”.

Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng những chi tiết gợi tả:”Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”.Bút pháp kể, tả đan lồng vào nhau gây xúc động lòng người. câu thơ vừa miêu tả cái biểu hiện đáng sợ của “giặc đói”, vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống với bà. Cái đói, cái nghèo lan tràn khắp thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng với con người gầy rạc đi vì không đủ ăn, bỏ lại đứa con thơ cho người đàn bà yêu thương, chăm sóc.

Cảm nhận về nỗi vất vả, đói khổ của tuổi thơ ấu, kỉ niệm như vẫn còn nguyên, tác giả không thể nào quên: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” Cái cay, cái xót của cuộc sống đói khổ, cơ cực thấm đến lồng xương, ống máu để đến bây giờ, hơn mười năm sau nghĩ lại, cái cảm giác “cay” ấy vẫn còn nguyên vẹn nơi cánh mũi. Cái cay nơi sống mũi cứ lan tỏa, triền miên trong tâm hồn người cháu. Dường như đó là một nỗi niềm mang vị chua xót, nghẹn ngào lẫn yêu thương.

Lời thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như đang lạc vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn gắn bó, chăm sóc, che chở về cả tinh thần lẫn vật chất cho cháu. Tình yêu thương của bà, tấm lòng nhân hậu của bà như xua tan đi bao đau thương, bao khổ cực chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động lòng người trong cả bài thơ. Tác giả tiếp tục để mình đắm chìm trong những dòng hổi tưởng về quá khứ, về cả một tuổi thơ sống bên cạnh bà:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà. Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẳng với bao kỉ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa.

Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.

Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.

Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân?

Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp? Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam.

Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà.

Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu quẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thờ thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…

Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt… Kỷ niệm cũ như những thước phim thời thơ ấu tràn về trong tâm tưởng của người cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.

Chiến tranh. Chỉ cần nhắc đến hai chữ ấy thôi, ai trong chúng ta cũng đều liên tưởng đến tính khốc liệt, tàn ác mà nó đem đến cho dân tộc. Nó đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao người, bao gia đình. Hai bà cháu trong bài thơ cũng không ngoại lệ: gia đình bị chia cắt, nhà cửa bị đốt “cháy tàn cháy rụi”.

Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được cái đau thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.

Và trong hoàn cảnh này, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hi sinh cao cả. Nỗi khổ vì nhà của bị giặc tàn phá, bà âm thầm chịu đựng. Từ “lầm lụi” diễn đạt rất xúc động hình ảnh bà lặng lẽ sớm hôm, muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những lo toan vất vả, nhọc nhằn.

Bà vẫn chịu thương chịu khó, cặm cụi làm việc chỉ vì không muốn con mình ở chiến khu phải lo lắng cho gia đình:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. Nỗi khổ giặc phá làng xóm, nỗi vất vả, thiếu thốn, bà âm thầm chịu đựng. Chỉ mong sao con mình ở nơi tiền tuyến xa xôi luôn yên lòng để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lời dặn dò giản dị ấy không chỉ giúp hiểu thêm về tấm lòng, về tình cảm thương con, thương cháu của người bà, mà còn gián tiếp đề cao những phẩm chất cao quý của bà: bình tĩnh, vững lòng, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để yên lòng người đi công tác.

Đức hy sinh, tần tảo; sự nhẫn nại, kiên trì trụ thật vững trong lòng bà đến cảm động! Cháu nhớ đến bà, nghĩ về bà và cảm nhận được rằng: bà đang hiện diện bên mình. Lời bà yêu thương, ấm lòng cứ như văng vẳng bên tai… Làm sao cháu có thể quên? Trong những ngày tháng vất vả ấy, bà vẫn giữ vững hy vọng, một niềm tin mãnh liệt vào kháng chiến:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Giữa tro tàn, mất mát, đau thương, bà lại nhóm lửa. Bếp lửa ân cần ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phản hoàn toàn với ngọn lửa hung tàn, thiêu hủy dã man của bọn giặc. Bếp lửa bà nhen ấm nồng tình yêu thương, niềm tin trong sáng mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”.

Bếp lửa bà nhen không chỉ là bếp lửa thông thường nữa mà nó chứa ngọn lửa của nghĩa tình, ngọn lửa nhóm lên trong tâm hồn đứa cháu thơ một tình cảm rộng lớn. Đó là tình bà hằng ấp ủ, tình thương bao la dạt dào suốt cả cuộc đời bà luôn dành cho cháu và những người thân yêu. Từ “bếp lửa” của lòng yêu gia đình và quê hương đất giờ đã trở thành hình ảnh “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng.

Ngọn lửa. Đó là sực sống, là niềm hy vọng và niềm tin mãnh liệt của bà vào cuộc kháng chiến, vào một tương lai tươi sáng, một tương lai không có chiến tranh. Đất nước được độc lập, hòa bình, gia đình được đoàn tụ, sum họp. Ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, soi sáng cả quãng đường cháu đi. Đây cũng là hình ảnh bao trùm, khái quát, là nét tình cảm tinh túy của cả bài thơ.

Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt chiu, giàu nghị lực và có tấm lòng hi sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng cao quý. Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm với triết lí sâu xa:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”.

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng. chăm sóc cho con cháu.

Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh vẫn đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo.

“Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh. Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.

Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu.

Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chấp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.

Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.

Dù giờ đây, tuy không được ở gần bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”

Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã khôn lớn, được bà và tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa, rộng lớn; bay tới những cuộc sống đầy đủ, với nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc khắp nơi, khắp chốn. Vậy mà cháu vẫn không nguôi nhớ bà, không quên ngọn lửa của bà. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, lời độc thoại:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí người đọc. Người cháu đang tự nhắc nhở bản thân mình luôn phải nhớ về “Bếp lửa” của quê hương, nhớ về bà, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chúng cháu phương xa. “Bếp lửa” vừa thực tế, vừa có ý nghĩa biểu tượng cho sự yêu thương, niềm tin, nguồn cội gia đình và quê hương, sức sống bền bỉ của con người.

Bài thơ khép lại bằng một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng. Dấu câu như gợi mở về một bài học đạo lý tha thiết: sống chung thủy, nhân nghĩa; phải có lòng biết ơn, có cách đối xử ân tình với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn cội.

Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…

Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tình bà cháu ấm nồng, sâu nặng thiết tha…

Qua đó, tác giả đã bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung cùng với tình yêu thương xen lẫn cảm phục đối với người bà đáng kính. Đọc xong bài thơ, người đọc như được sưởi chung với Bằng Việt hơi ấm của tình yêu thương của gia đình, của cội nguồn, của Tổ quốc.

Bếp lửa bồi dưỡng cho mỗi chúng ta cách sống nghĩa tình, nhân hậu, thủy chung. Bài thơ cũng là bài học đạo lý sâu sắc, thấm thía mà đến với nó, ta như tìm được những yêu thương, ấp ủ mặn nồng của cuộc sống đến suốt cuộc đời không thể nào quên.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 6

Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.

Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà.

Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà.

Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa.

Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng không để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu.

Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.

Tiếng “tu hú” lúc mơ bà, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu chuyện cổ huyền ảo của cháu.

Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu.

Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.

Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.

Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến.

Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu. Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa:

“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:

“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”. Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.

“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, “Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện.

Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:

“Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng.”

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

“Giờ cháu đã đi xa

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau.

Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. “Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy…” (Văn Giá).

Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 7

Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.

Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ừa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay

Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi “cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.

Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa. Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi

Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt. Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở kí ức luôn sống mãi, không quên.

Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 8

Nhà thơ Bằng Việt sinh ngày 15/06/1941, quê ông thuộc xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là cây bút tài năng có nhiều đóng góp cho nền thi ca của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và dồi dào với rất nhiều các tác phẩm có giá trị. Thơ Bằng Việt thiết tha, mượt mà và trong trẻo. Nhiều áng thơ đã khai thác tối đa những kỷ niệm cùng mơ ước của tuổi trẻ.

Bài thơ Bếp Lửa được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt 19 tuổi và đang đi du học Liên Xô. Trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người bà của mình da diết, những ý thơ tự nhiên ngọt ngào và bình dị ấy cứ tuôn chảy để rồi tạo nên một thi phẩm đặc sắc. Bếp lửa đã gợi lên những kỉ niệm đầy xúc động về tình cảm bà cháu, về những năm tháng nhọc nhằn trong kí ức của nhà thơ, từ đó khéo léo bộc lộ tình yêu quê hương đất nước.

Hình ảnh về bếp lửa quê nhà đã khơi nguồn cảm xúc cho thấy đó là những kỉ niệm quen thuộc, gần gũi, thân thương. Phân tích bài thơ Bếp lửa, chúng ta mới thấy được hết những ý nghĩa lớn lao của hình tượng thân thuộc này. Với dáng hình tảo tần khuya sớm của bà cũng là tình cảm sâu đậm bà dành cho cháu đã hiện lên rõ nét qua những vần thơ:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Hình ảnh khói bếp hiện lên chập chờn cùng mảng kí ức thăm thẳm trong tâm hồn của nhà thơ. Bà đã thắp lên bếp lửa, ánh sáng tuổi thơ được thắp lên và tỏa sáng lung linh trong kí ức của đứa cháu nhỏ. Bếp lửa đó phải chăng chính là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa?

Phân tích bài thơ Bếp lửa là cảm nhận về tình bà cháu sâu đậm được thể hiện qua từng lời thơ. Đó là những buổi sớm khi sương mai còn đọng trên những nhành cây, hình ảnh bếp lửa ấm áp đã được bà thắp lên tự khi nào. Từ láy “chờn vờn” kết hợp cùng động từ “ấp iu” được đặt ở giữa câu đã cho thấy sự vất vả khuya sớm, sự lam lũ chăm chỉ ở người bà của tác giả.

Cả một tuổi thơ tràn ngập kí ức có bếp lửa, có hình ảnh về người bà chịu thương chịu khó. Động từ “thương” cùng tính từ nắng mưa ở cuối câu thơ đã cho thấy nhà thơ yêu mến người bà biết bao để rồi phải thốt lên những tình cảm da diết ấy. Khoảng cách của không gian dù là nửa vòng trái đất nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được sự yêu thương, vỗ về từ đôi bàn tay khéo léo và kiên nhẫn của bà. Phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc không khỏi xúc động với những dòng thơ dung dị mà ngập tràn cảm xúc này.

Trong cái khoảnh khắc nhớ nhà, nhớ quê hương ấy, trong lòng Bằng Việt lại trào dâng một tình yêu thương vô hạn với người bà của mình. Những khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của Bằng Việt về những năm tháng sống bên bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Những câu thơ dung dị, nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình. Câu chuyện tuổi thơ với nhiều kỉ niệm cùng bà như được giãi bày bởi lối kể tự nhiên. Câu chuyện tuổi thơ ấy không chỉ có bà Tiên, có phép màu, mà còn là hình ảnh về bà và bếp lửa yêu thương. Đến đây, chúng ta thấy xúc động biết bao.

Trong cái nạn đói ghê rợn của năm 1945, những ngày nghèo đói, vất vả thì chính bà là người đã gắn bó với nhà thơ, xua bớt đi cái không khí của nạn đói ấy. Mùi khói bếp đã trở thành một phần kí ức của đứa cháu nhỏ. Đứa trẻ lên 4 ấy đã sống trong tình yêu thương, chở che của bà. Ngọt ngào kí ức đan quyện mùi khói – kí ức có bà, có mái bếp ấm nồng tình thân.

Với câu thơ “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi”, người đọc mới nhận thấy sự thiếu thốn khó khăn thời điểm bấy giờ. Tất cả những kí ức ấy còn sống mãi, hiển hiện trong kí ức của đứa cháu 4 tuổi và của cả người con xa nhà. Những kí ức ấy dù năm tháng trôi qua có ít nhiều làm vơi đầy kỉ niệm, nhưng khi nghĩ lại thì sống mũi vẫn còn cay. Ở đây, là nhớ nhung, là kí ức về mùi khói làm cay mắt cháu hay chính là tấm lòng của người bà dành cho cháu khiến người cháu rưng rưng xúc động?

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Hai bà cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên tình yêu và sự sống, nhóm lên niềm hy vọng mà bà dành cho đứa cháu bé bỏng, hồn nhiên. Hình ảnh chim tu hú hiện lên qua sự liên tưởng từ khói bếp. Khi phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc dễ dàng nhận thấy, từ “tu hú” được điệp lại 3 lần trong cùng một đoạn thơ làm cho âm điệu vần thơ trở nên bồi hồi và khiến người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.

Lúc mơ hồ, lúc văng vẳng da diết từ cánh đồng xa khiến người đọc không khỏi khắc khoải. Dòng kỉ niệm của nhà thơ cũng vì thế mà như dài hơn, rộng hơn cái không gian sâu thẳm của nỗi nhớ nhà.

“Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”

Kí ức tuổi thơ của cháu gắn liền với hình ảnh tảo tần của bà, với khói đượm từ bếp lửa. Mẹ cha bận công tác, cháu ở cùng bà, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Tám năm ròng, đất nước chiến tranh, đói khổ cùng cực. Sự thiếu thốn ấy dường như lại khiến kí ức ngọt ngào bên bà tăng lên gấp bội. Trong cái khói bếp mờ ảo chập chờn ấy, hình ảnh bà hiện lên như trong câu chuyện cổ tích huyền ảo.

Ta nhận thấy tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá với tác giả. Tình yêu thương vô bờ mà bà đã dành cho cháu đã trở thành điểm tựa, là chỗ dựa tình thần lớn lao. Bởi vậy, đến khi xa bà, nhà thơ Bằng Việt lại càng thương bà hơn, biết ai sẽ cùng bà nhóm lửa?

“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà” Câu thơ như lời tự trách nhẹ nhàng và sâu sắc. Nhân xưng bà và cháu hiện lên nhiều lần trong cùng một đoạn thơ cho thấy hai bà cháu luôn gắn bó, sóng đôi, quấn quýt.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Những kỉ niệm tuổi thơ tiếp tục hiện lên trong kí ức của tác giả khi ta phân tích bài thơ Bếp lửa. Đó là dòng hồi tưởng với sự khốc liệt của chiến tranh. “Cháy tàn cháy rụi”, “lầm lụi” những cụm từ được đặt cuối câu càng nhấn mạnh hơn sự tàn phá của chiến tranh lúc bấy giờ. Để rồi, nhà thơ tiếp tục bộc bạch thổ lộ về người bà của mình. Túp lều tranh nhỏ hai bà cháu cùng dựng lên. Dù đói khổ bà vẫn luôn dặn cháu vững tin, an lòng, nhớ kể bình yên khi viết thư cho bố để nơi xa bố yên tâm đánh giặc.

Khổ thơ tiếp theo là những suy nghĩ của người cháu về cuộc đời cả bà. Hình ảnh bà hiện lên không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống và niềm tin. Bếp lửa ấy không chỉ được nhóm lên bằng củi khô rơm rạ, mà còn được nhóm lên trong lòng bà. Trong những dòng thơ tiếp theo là những biết ơn, là niềm tự hào nhà thơ dành cho người bà giàu đức hi sinh và tảo tần của mình.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Đôi tay gầy guộc ấy đã chống đỡ biết bao nắng mưa, đã nuôi dưỡng cháu, đã nhóm lên ngọn lửa của tình yêu và hy vọng bằng cả tấm lòng đôn hậu của bà. Hình ảnh về người bà là đại diện tiêu biểu cho những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc không khỏi nghẹn ngào bởi sự hy sinh, sự tảo tần “lận đận” mưa nắng của người bà.

Thói quen dậy sớm để nhóm lửa, nhóm khoai sắn, nhóm lên những ngọt bùi yêu thương. Biết bao những suy tưởng sâu sắc, biết bao nhiêu tâm tình tuổi nhỏ đã được nhen nhóm từ hình ảnh bếp lửa. Để rồi nhà thơ Bằng Việt phải thốt lên “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Những câu thơ như bản tình ca ấm áp về tình bà cháu thiêng liêng. Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần trong khổ thơ mang một ý nghĩa lớn lao mà chỉ khi phân tích khổ thơ này, ta mới có thể cảm nhận sâu sắc.

Bà là người đã thắp lên sự sống, xua đi khổ cực của cuộc đời. Đồng thời, bà cũng là người đã nhen nhóm thắp lên trong cháu nhiều mơ ước, thắp lên ngọn lửa của niềm tin. Mai này dù trưởng thành, cháu vẫn luôn nhớ khôn nguôi:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”

Trong đoạn cuối bài này, chúng ta thấy nhà thơ đang đúc rút gói gọn lại trong nỗi thương nhớ ấy là tất cả sự biết ơn và kính trọng đối với người bà của mình. Đã bao năm trôi qua rồi, cháu giờ đang sống nơi xa, ở một khung trời mới mà chưa một lần quên đi hình dáng của bà bên bếp lửa thân thương. Có biết bao niềm vui ở một nơi hạnh phúc, nhưng nào bằng được nỗi nhớ thương của cháu về bà với nỗi nhớ nhà nhớ quê hương.

Câu thơ cuối cùng đọng lại đầy ám ảnh trong lòng bạn đọc “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Cả một miền xúc cảm nghẹn ngào từ một khung hình kỉ niệm, từ một miền trời thương nhớ. Nơi miền kí ức ấy có dáng hình lam lũ tảo tần của bà, có tiếng tu hú, có những cánh đồng, có những túp lều và cả những gian khổ mà hai bà cháu đã cùng nhau vượt qua.

Bếp lửa của Bằng Việt là những lời thơ dạt dào và chứa chan cảm xúc. Bài thơ chính là những kí ức của tác giả bên người bà kính yêu của mình. Bài thơ đã giúp người đọc thấm thía được nỗi nhớ nhung da diết của nhà thơ phương xa về người bà, về quê hương yêu dấu. Từ đó giúp chúng ta trân trọng, yêu thương hơn tình cảm với gia đình, với người thân.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 9

Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!” “Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người.

Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

Qua những năm tháng đói mòn đói mỏi lại nhớ về kỉ niệm những năm chiến tranh “Mẹ cùng xa công tác bận không về”. Tám năm cháu ở cùng bà. Bên ánh lửa bập bùng, bà vừa là cha, là mẹ, bà dạy dỗ cháu nên người:

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Sự xuất hiện của hàng loạt những động từ “dạy”, “bảo”, “chăm”, “học”, “ở”, “nghe”, “làm” diễn tả những công việc lặng thầm của bà. Mỗi cử chỉ của bà đều thấm đẫm tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc cháu. Bếp lửa còn đánh thức thêm kỉ niệm nữa của tuổi thơ, kỉ niệm với tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè.

Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên cánh đồng, cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời, khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Nhà thơ đang kể chuyện mà như tách hẳn ra để trò chuyện cùng bà:

“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”

Những câu chuyện đó là sự từng trải của cuộc đời bà và bà muốn nhắc nhở cháu hãy sống thật tốt, thật có ích cho cuộc đời. Tự nhiên cháu thấy thương bà quá. Cháu thương bà vất vả, lo toan, không biết ngỏ cùng ai chỉ biết tâm tình với chim tu hú mà thôi:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Câu hỏi tu từ đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của người cháu. Như vậy hình ảnh “bếp lửa” đã đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người và có cả hình ảnh đất nước. Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn vĩ đại khi người cháu nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả khi giặc tàn phá xóm làng.

Lời dặn “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” không chỉ gợi ra giọng nói hiền từ của bà, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của bà. Bà đã nhận về mình tất cả mất mát, khổ đau để con cháu yên tâm đánh giặc. Bà là người mẹ, người bà, người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Với Bằng Việt, họ gánh cả kháng chiến lên đôi vai bé nhỏ của mình.

Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ, về bà, người cháu trở về với hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và những lẽ sống về bà, cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn:

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Từ bếp lửa bình dị thân quen ấy đã nâng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa không chỉ được nhen lên bằng những nguyên liệu đời thường mà còn được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ, chở che nên không bao giờ vụt tắt. Điệp từ “rồi” kết hợp với hai danh từ chỉ thời gian “sớm”, “chiều” khiến câu thơ vang lên như bước gõ nhịp của thời gian. “Bếp lửa” là hình ảnh tả thực còn “ngọn lửa” được chuyển hóa thành hình ảnh biểu tượng.

Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng nâng bước cháu trên chặng đường dài. Ngọn lửa là niềm tin dai dẳng, bền bỉ, bất diệt bà nhen lên trong lòng cháu. Nhờ ngọn lửa ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành vừa tạo nhạc tính cho câu thơ khiến lời thơ dồn dập, tha thiết mà mạnh mẽ, xúc động, vừa khẳng định sức sống mãnh liệt, bất tận của ngọn lửa bà nhen. Theo dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, sáng đẹp, ấm áp:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”

Từ láy “lận đận” giàu giá trị gợi cảm được đảo lên đầu dòng thơ gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, gian truân của cuộc đời người bà. Điệp từ “nhóm” đứng ở đầu mỗi dòng thơ, nhắc đi nhắc lại bốn lần khắc ghi những ý nghĩa trong công việc nhóm lửa của bà. Mỗi sớm mai bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên niềm yêu thương; nhóm sự chở che, cưu mang đùm bọc giữa ngọt bùi, khoai sắn; nhóm sự sẻ chia, đoàn kết của tình làng, nghĩa xóm; nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của cháu.

Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa và giữ lửa. Bà không chỉ làm công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu của một đời người. Từ đây cảm xúc về bà và bếp lửa dâng trào lên mãnh liệt:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Người cháu giờ đây đã khôn lớn trưởng thành, nhưng trong sâu thẳm lòng cháu vẫn da diết một nỗi nhớ thương về bà và bếp lửa:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Nơi cháu đang sống với đầy đủ tiện nghi vật chất, khác hẳn với không gian của bà cháu nơi quê nhà, nhưng cháu luôn nhớ về bà, nhớ về ngọn lửa bà nhen. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ nhắc nhở cháu không nguôi nhớ về những kỉ niệm về bà và bếp lửa.

Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 10

Bằng Việt sinh năm 1941, là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp Lửa, một bài thơ có nhiều đặc sắc về giá trị nghệ thuật và nội dung. Đặc biệt có giá trị về mặt nội dung bài thơ, gợi lại những kỉ niệm về người bà, tình cảm bà cháu sâu sắc, thấm thía. Bài thơ đã để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mở đầu bài thơ là sự hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa và tấm lòng cháu thương bà. Theo dòng hồi tưởng của tác giả, bếp lửa chờn vờn sương sớm là hình ảnh gần gũi quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời. Từ láy chờn vờn giúp ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa, vừa gợi cái mờ nhạt của hình ảnh kí ức theo thời gian.

Ấp iu là một sự sáng tạo của nhà thơ trẻ, gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng tri chút, rất đúng với việc nhóm lửa cụ thể. Đồng thời cách nói ẩn dụ biết mấy nắng mưa gợi ra phần nào cuộc đời vất vả, lo toan của bà. Vậy từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng đến người nhóm lửa, nhóm bếp – đến nỗi nhớ tình thương với bà. Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn, gian khổ:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Kỉ niệm thời thơ bé khi lên bốn tuổi kỉ niệm một thời đen tối, đói khổ. Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” phản ánh tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945 có mối lo giặc tàn phá xóm làng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa được nhớ lại trong đó có một ấn tượng về khói bếp. Nhà thơ đã chọn chi tiết thật đặc sắc: Mùi khói, khói hun vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm thía những tình cảm lúc da diết bâng khuâng, xót xa thương mến.

Lời thơ nghĩ lại đến giờ sống mũi còn còn cay nhấn mạnh dòng kỉ niệm, xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả thể xác con người. Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa và mùi khói cùng hình ảnh bà hiện ra trong nỗi nhớ thương ngậm ngùi:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Đoạn thơ tiếp theo gợi nhắc một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian “8 năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” bếp lửa quê hương – bếp lửa của tình bà cháu lại gợi lên một liên tưởng khác, sự xuất hiện của tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc khi vào hè, một điều gì da diết lắm khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong.

Đó là hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc dạy dỗ cháu lên người, lời thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng, nhịp thơ êm ái hài hòa các từ ngữ bà bảo, bà dạy, bà chăm diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà với cháu.

Bà thức khuya dậy sớm nhóm lửa làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa cha mẹ trở lên ấm áp. Âm thanh tiếng chim tu hú với hình ảnh bà kết hợp hài hòa được diễn tả với nghệ thuật cảm thán, câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết của cháu với bà. Tác giả khéo lựa chọn hai hình ảnh: Bếp lửa và âm thanh tiếng chim tu hú để nói lên lòng kính yêu sự thương nhớ và biết ơn bà.

“Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.

Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét cụ thể với những phẩm chất cao quí. Sống trong những năm dài chiến tranh khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, được sự đỡ đần của bà con hàng xóm, hai bà cháu dựng lại túp lều tranh nhưng bà vẫn bình tĩnh vững lòng đinh ninh… làm tròn nghĩa vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.

Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp người đọc hình dung rõ ràng, giọng nói tình cảm suy nghĩ của bà mà còn sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước đầy lòng kiên trì, nhóm lửa, giữ lửa.

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… “

Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nguyên bên ngoài mà còn chính được nhen lên từ trong lòng bà – Ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương niềm tin bởi vậy từ bếp lửa, gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trìu tượng khái quát. Như thế hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Đồng thời với nghệ thuật sử dụng điệp ngữ (rồi sớm, rồi chiều) bà ủ sẵn một ngọn lửa thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn bà đối với đức hi sinh tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! “

Những suy nghĩ của cháu về bà và việc bà nhóm lửa trong suốt cuộc đời trải qua “bao nắng mưa mấy chục năm rồi” bà nhóm lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà bằng cả tấm lòng đôn hậu “Ấp iu nồng đượm…” của bà với cháu và mọi người. Điệp từ nhóm cùng câu thơ cảm thán khắc sâu hình ảnh người bà tiêu biểu cho những phẩm chất cao quí của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, nhẫn lại đầy yêu thương.

Bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho con cháu và mọi người chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị gần gũi thân thuộc sự kì diệu thiêng liêng: “Ôi! kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”. Bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu, thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa tạo lên tuổi thơ ấu của cháu…

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Dù ở đâu, làm gì bây giờ và mãi mãi người cháu không thể quên bà và bếp lửa. Khói trăm tàu, lửa trăm nhà sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về cội nguồn quá khứ dù đó là những ngày vất vả gian lao. Câu thơ kết trở về thời hiện tại. Nhà thơ lại muốn hỏi bà, nhắc bà việc nhóm bếp để nói cái ý không bao giờ quên quá khứ, không bao giờ quên được hình ảnh bà, của một thời thơ ấu nghèo khổ gian nan và ấm áp nghĩa tình. Như vậy, hình ảnh trung tâm mở đầu khơi nguồn mạch cảm xúc của nhà thơ đã được khép lại bằng chính hình ảnh đấy.

Tóm lại, bài thơ “Bếp lửa” đã khơi dậy cho mỗi chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với quê hương, gia đình và xã hội. Càng đọc, càng suy ngẫm thấm thía từng lời thơ của Bằng Việt ta lại càng hiểu thế nào là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ hình ảnh quen thuộc gắn liền với bếp lửa.

Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm cho các thế hệ chúng ta cần phải nhớ về cội nguồn, nhớ về những nơi đã sinh ra ta khôn lớn, nhớ về những hình ảnh thiêng liêng bên bếp lửa để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 11

Đối với mỗi người chúng ta, tình cảm gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm đáng quý và đáng trân trọng nhất. Nhưng khi đất nước có chiến tranh thì người dân vẫn chấp nhận bỏ lại gia đình để lên đường đi chiến đấu. Chính từ tình yêu gia đình đã hình thành nên tình yêu đối với Tổ quốc.

Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ phải sống xa bố mẹ vì bố mẹ nhưng như thế không có nghĩa là nhà thơ sống thiếu thốn tình cảm. Ngược lại, nhà thơ Bằng Việt lớn lên trong tình yêu thương và dạy bảo của người bà kính yêu. Chính vì vậy mà khi lớn lên, phải xa nhà, xa bà, có bao nhiêu nỗi nhớ, tác giả dành cả cho bà của mình để rồi bài thơ Bếp lửa đã ra đời từ nỗi nhớ ấy. Bếp lửa ở đây không đơn thuần chỉ là bếp lửa, nó là cả tình yêu thương của bà ở trong đó:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Hình ảnh một bếp lửa chỉ vừa mới xuất hiện nhưng nó đã đi kèm với các từ láy như chờn vờn, ấp iu khiến cho người đọc cảm nhận được tình cảm ấm áp và chan chứa của người cháu dành cho bà của mình. Câu thơ thứ ba một lần nữa khẳng định cho tình cảm ấy. Đó là tình thương của cháu dành cho người bà đã phải chịu nhiều vất vả, nắng mưa. Cùng với tình thương ấy, những hồi ức của tuổi thơ hiện lên trong đầu tác giả. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nên cứ ngỡ như là chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Năm đói mòn đói mỏi ấy chính là năm 1945, nhân dân miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp. Nó cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người dân vô tội. Nhà thơ đã lớn lên trong bối cảnh đất nước như vậy thế nhưng trong kí ức nhà thơ không có hình ảnh người chết đầy đường, không bị mùi tanh thối ám ảnh.

Đó là bởi vì mùi khói bếp đã át đi hết những cảnh đau thương ngoài kia. Đó là cách để người bà làm cho cuộc sống của cháu bớt đau thương hơn. Mùi khói đã hun nhèm đôi mắt của người cháu để rồi hơn mười năm sau, nghĩ lại chuyện cũ sống mũi vẫn còn cay. Có lẽ sự xúc động đã khiến cho mắt nhà thơ nhòe đi, cay xè vì những kỉ niệm đói khổ.

Bà đã cùng cháu đi qua những năm tháng đói khổ như vậy. Để rồi suốt những năm tháng tuổi thơ, hình ảnh người bà vẫn gắn liền bên cháu. Hai bà cháu đã cùng nhau nhóm lên không biết bao nhiêu ngọn lửa trong suốt 8 năm ròng:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

Hình ảnh cháu cùng bà nhóm lửa thể hiện sự gắn kết giữa hai bà cháu. Không chỉ là nhóm lửa, đó còn là nhóm lên sự sống, nhóm lên tình yêu. Từ hình ảnh nhóm bếp lửa đã gợi lên trong nhà thơ những hình ảnh khác đó là tiếng chim tu hú kêu. Đối với người nông dân Việt Nam tiếng chim tu hú đã trở thành tiếng kêu quen thuộc và là sự báo hiệu cho một mùa lúa chín.

Tiếng tu hú kêu vì vậy tượng trưng cho sự no đủ của người dân. Tiếng tu hú kêu như tiếng của chiếc đồng hồ báo thức nhắc nhở người bà rằng đã đến giờ kể chuyện cho cháu nghe. Trong một đoạn thơ mà tiếng tu hú kêu được lặp lại tới 3 lần khiến cho độc giả có cảm tưởng như tiếng tu hú đang từ xa vọng về. Nó khiến cho lòng người cháu ở nơi xa xứ lâng lâng. Tiếng tu hú kéo nỗi nhớ của nhà thơ về khiến cho nó dài hơn, rộng hơn. Bà không chỉ kể chuyện, bà còn dạy bảo cho cháu nhiều điều, thay cha mẹ chăm lo cho cháu để cháu được nên người:

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Ngôi nhà nhỏ vắng người, chỉ có hai bà cháu. Bà đã thay cha mẹ, làm nhiệm vụ của cha mẹ đó là dạy cháu làm, chăm cháu học. Bà dù già yếu nhưng vẫn tận tụy hết lòng vì cháu. Chính vì vậy mà hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện lên càng ấm áp hơn. Hai bà cháu đã nương tựa vào nhau để sống qua những ngày tháng khó khăn như vậy. Chính từ tình cảm ấy nên khi nhà thơ đi xa, nỗi nhớ thương bà càng lớn hơn.

Nhà thơ đi xa rồi, thương cho bà ở nhà không có ai chăm sóc. Câu hỏi tu từ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà giống như một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc. Hai từ bà, cháu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ này, thể hiện sự sóng đôi, quấn quýt, gắn bó giữa bà và cháu. Những năm tháng chiến tranh, hai bà cháu đã cùng nhau trải qua nhiều khó khăn khi mà ngôi nhà bị cháy rụi:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Chính từ trong khó khăn đó, nghị lực của người bà càng trở nên bền vững hơn. Những câu thơ vừa cho thấy bà là người cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Ngôi nhà của hai bà cháu dù bị giặc đốt cho cháy rụi nhưng thương con đang công tác xa nhà, không muốn con phải lo lắng, bà đã dặn cháu không được nói gì với bố.

Thậm chí bà còn dặn cháu nói với bố là ở nhà mọi chuyện được yên. Bà là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, hết lòng vì con vì cháu. Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa:

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Hình ảnh ngọn lửa như bừng sáng và nó có một sức truyền cảm vô cùng mạnh mẽ. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của tình bà cháu,… Chính vì vậy mà cứ nhìn thấy ngọn lửa là người cháu lại cảm thấy như nhìn thấy bà của mình. Cuối bài thơ, nhà thơ tiếp tục suy ngẫm về bà và bếp lửa:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm một lần nữa được nhắc đến ở cuối bài. Bà không chỉ là người truyền lửa, bà còn truyền cho cháu tình yêu thương từ những miếng khoai, miếng sắn, nhắc cháu nhớ về những năm tháng cơ cực, bởi đó là những năm tháng đã nuôi dưỡng tâm hồn của cháu.

Trong cả bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện 10 lần, đó là 10 lần hình ảnh bà cũng xuất hiện. Bài thơ mang âm điệu dồn dập như sóng vỗ khiến người đọc cảm nhận được tình cảm dạt dào của bà dành cho cháu và ngược lại. Đi xa rồi, cháu vẫn nhớ về bà:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Nơi trời Âu giá lạnh, hình ảnh của bà đã sưởi ấm trái tim người cháu. Mặc dù đã trưởng thành nhưng trong lòng cháu vẫn nhớ mong về nơi góc bếp với mùi khói bếp cay nồng nặc. Nhớ lời bà dặn, cháu chưa bao giờ quên đi nguồn cội của mình. Thông qua bài thơ này, chúng ta thấy được hình ảnh bếp lửa và dáng bà đang ngồi lặng lẽ ở bên. Hình ảnh bếp lửa từ đó tượng trưng cho sự ấm áp, nghĩa tình. Qua bài thơ này, hẳn mỗi người sẽ thấy yêu hơn gia đình của chính mình.

Bài văn phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt số 12

Có những kỉ niệm hóa thành động lực, sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, giông bão trong cuộc đời. Bằng Việt cũng mang trong mình những kỉ niệm tuổi thơ mà mãi mãi ông không bao giờ quên, ấy là kỉ niệm về bếp lửa và người bà mà ông yêu quý nhất. Tất cả những tình cảm đẹp đẽ, chân thành ấy đã được ông tái hiện đầy đủ nhất trong bài thơ Bếp lửa.

Bài thơ được sáng tác khi ông mới mười chín tuổi và đang du học ở Liên Xô. Những năm tháng xa quê hương, xa gia đình nỗi nhớ luôn thường trực trong ông chính là nỗi nhớ về người bà đáng kính. Tình cảm và kỉ niệm của hai bà cháu được gợi lên bởi một hình ảnh thật mộc mạc, thân thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấm iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa là hình ảnh gần gũi thân thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam xưa. Nó thường gắn liền với người bà, người mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, chăm sóc gia đình. Hình ảnh những ngọn lửa chờn vờn, chập chờn trong sương sớm khơi gợi kí ức về người bà thân thương. Hai chữ ấp iu thật khéo léo và tài tình. Chỉ hai chữ mà vừa gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo vừa thể hiện tấm lòng chi chút của người bà.

Thật tự nhiên và chân thành hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương bà trong cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương sâu sắc ấy được bộc lộ trực tiếp, không giấu giếm, thương bà với biết bao vất vả, khó nhọc, thương bà một đời lam lũ, hi sinh cho gia đình.

Bốn khổ thơ tiếp theo tương ứng với những kỉ niệm thời thơ ấu khi nhà thơ được sống bên bà, đó là những kỉ niệm ấm áp, tạo thêm động lực, sức mạnh cho tác giả. Đó là kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với nạn đói 1945 khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nạn đói khủng khiếp ấy đã được tác giả tái hiện đầy chân thực qua từ đói mòn đói mỏi .

Từ mòn mỏi được tách ra làm đôi nhấn mạnh hơn nữa nạn đói rợn người, khiến biết bao nhiêu người chết. Khi ấy gia đình tác giả cũng chẳng khá khẩm hơn, hình ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy đã phần nào nói lên cái khó khăn, thiếu thốn ấy. Và với đứa cháu ngoài những năm đói khổ đó mùi khói bếp của bà hun nhèm mắt đến giờ vẫn không thể quên, mỗi lần nghĩ lại sống mũi còn cay. Cay có thể vì khói bếp, vì tuổi thơ cơ cực, cũng có thể là nỗi xúc động của tác giả khi nhớ về bà.

Không chỉ vậy, trong dòng nhớ thương, tác giả nhớ những kỉ niệm về bếp lửa, về tám năm được sống bên bà. Đó là tám năm cháu được sống trong tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc của bà. Bà chính là người dạy dỗ cháu nên người Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Hàng loạt các từ bảo, chăm, dạy được tác giả liệt kê trong hai câu thơ ngắn ngủi đã cho thấy tình yêu thương bao la, sâu sắc của bà dành cho cháu.

Trước tấm lòng của bà, người cháu nhỏ thầm cảm ơn, và thể hiện tấm lòng yêu quý kính trọng với bà: Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Trong chuỗi kỉ niệm ấy, còn có cả tiếng chim tu hú tha thiết, khắc khoải, tiếng chim cũng là âm thanh để nhắc về bà, về những kỉ niệm đẹp đẽ khi được sống bên bà. Câu hỏi tu từ: Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa, đã phần nào diễn tả được nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của tác giả về người bà mình hằng yêu quý, kính trọng.

Đọng lại trong kí ức cháu không chỉ là một người bà dành trọn tình yêu thương cho cháu, mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc giúp con cháu vượt qua mọi khó khăn, mất mát: Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi/…/ Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:/ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố/ mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.

Bà đối mặt với bom đạn, mất mát, với những khó khăn thiếu thốn không một lời than thở, oán trách, vẫn vững lòng, một mực giấu đi những gian truân để con ở ngoài chiến trường yên tâm công tác. Bà là biểu tượng của lòng can đảm, đức hi sinh thầm lặng. Bà là chỗ dựa cho cháu có tuổi thơ bình yên, cho những đứa con yên tâm làm việc.

Giữa đống tro tàn mất mát, đau thương bà vẫn nhóm lên ngọn lửa tin yêu và hi vọng: Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Thời gian sớm chiều cho thấy sự bền bỉ, kiên trì của bà.

Ở đây có sự chuyển hóa từ bếp lửa thành ngọn lửa, ngọn lửa ấy chứa đựng lòng yêu thương chan chứa của bà; ngọn lửa còn là đức tin trong sáng bất diệt; hơn thế nữa, ngọn lửa đó sẽ là ngọn đuốc soi sáng tâm hồn, và tương lai cháu sau này. Bà là kí ức đẹp đẽ, bà là người đã thắp lên trong cháu niềm tin và tương lai cao cả.

Khổ thơ cuối là những suy ngẫm của tác giả về bà. Những suy ngẫm về vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, suốt một đời lận đận, hi sinh vì con cháu. Điệp từ nhóm được điệp lại nhiều lần, vừa gợi lên ánh lửa bập bùng vừa cho thấy sự bền bỉ trong lòng bà. Bà nhóm lên tình yêu thương cao cả trong cuộc đời đầy thiếu thốn. Nhóm lên ngọn lửa tâm hồn để cháu biết trân trọng khoai sắn ngọt bùi.

Câu thơ Ôi ! Kì lạ và thiêng liêng bếp lửa diễn tả cảm xúc mãnh liệt của tác giả về bếp lửa và sức mạnh mà nó trao thuyền cho mỗi con người. Bếp lửa còn là nguồn cội gia đình, quê hương, đất nước. Cũng bởi vậy mà những năm tháng xa nhà hình ảnh và hơi ấm bếp lửa vẫn luôn luôn bên tác giả, để Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở : – Sớm mai này nhóm bếp lửa lên chưa.

Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm và bình luận. Ngôn ngữ thơ giản dị và tràn đầy cảm xúc. Hình ảnh thơ chân thực, giàu ý nghĩa biểu tượng đặc biệt là hình ảnh bếp lửa, hàm chứa ý nghĩa triết lí sâu sắc.

Bài thơ Bếp lửa với ngôn từ giản dị mà giàu cảm xúc đã gợi lại những kỉ niệm thiêng liêng, đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó còn thể hiện lòng biết ơn, sự kính trọng sâu sắc của tác giả với bà. Đồng thời qua tác phẩm tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu đậm.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ hay của thi ca Việt Nam. Đọc xong bài thơ, mỗi chúng ta đều muốn được chạy về nhà, sà vào lòng bà để được nghe bà kể chuyện. Hi vọng qua bài viết này, các bạn có thể tham khảo được cách phân tích một bài thơ để chuẩn bị tốt nhất cho bài văn của mình. Chúc các bạn học tốt.

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải hay nhất

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải hay nhất

Thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được sáng tác vào tháng 11 năm 1980 trong hoàn cảnh đất nước đã thống nhất đang đi lên xây dựng cuộc sống mới nhưng còn muôn vàn khó khăn gian khổ, không đầy một tháng trước khi nhà thơ qua đời. Tác phẩm như một lời tâm niệm chân thành, một khát vọng đẹp đẽ muốn dâng hiến cho cuộc đời. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm trên mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để cảm nhận cái hay cái đẹp trong đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 1

Thanh Hải là một nhà thơ được mọi người biết đến như một hiện tượng đặc biệt của thơ ca Việt nam. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh biến thái của cuộc đời, ngay cả những phút giây cận kề cái chết Thanh Hải vẫn khát khao sống, làm việc và cống hiến cho đời chung.

Mùa xuân nho nhỏ chứ không phải cái gì lớn lao ồn ào nhưng thật tinh túy, sâu xa lắng động của Thanh Hải để lại cho đời trước lúc ra đi. Những vần thơ nhỏ nhẹ trầm bổng mà ý tứ lắng sâu lạ kỳ. Và không thể thiếu ở làng thơ xuân nếu ta quên đi một mùa xuân nho nhỏ của một nhà thơ tài hoa, mệnh bạc – Thanh hải thì quả là thiếu sót. Bài thơ ra đời vào năm 1980 được xem như một lời tâm niệm trẻ trung đáng trân trọng của nhà thơ để lại cho đời trước lúc ra đi.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hóa đất trời. Sau những ngày đông giá lạnh lẽo, thiên nhiên; lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Đất trời như rộng thêm, cao hơn được Thanh Hải phác họa bằng ba nét chấm phá. Một “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, “tiếng chim chiền chiện” gợi ra không gian cao rộng, êm dịu, tươi tắn. những âm thanh vang vọng, tha thiết. Những đường nét đó đã khắc họa thành một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, yên ả, thanh bình, rạo rực niềm vui và tràn trề sức sống.

Đối tượng được nhà thơ miêu tả sâu sắc đó là hình ảnh:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Đây là chi tiết tạo hình và sự chuyển đổi cảm giác tuyệt vời trong thơ ca. “Giọt long lanh rơi” là những giọt xuân, màu xuân đẹp, kì diệu với những sắc màu long lanh. Tác giả đã đưa tay hứng cả mùa xuân đất trời rất đỗi nâng niu, trìu mến, trân trọng và có cảm giác từng giọt xuân lung linh, ấm áp, mát dịu đang thấm vào da thịt, vào lòng người. Tất cả đang được tắm gội trong hương sắc mùa xuân say sưa, ngây ngất, ngọt ngào.

Vả cảm hứng nhà thơ chuyển dần từ màu xuân cảnh sắc thiên nhiên đất trời tươi đẹp sang mùa xuân đất nước Cách mạng:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao….”

Từ “mùa xuân” đã được chuyển nghĩa theo cách hiểu thứ hai với hai nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ trong tư thế đi lên đất nước. Điệp từ “lộc” láy lại đầu câu có nhiều nghĩa khác nhau: “lộc” là chồi non, sức sống, mùa xuân; lộc là do con người mang đến cho mùa xuân, đất nước trong chiến đấu, sản xuất. con người đi đến đâu mang mùa xuân đến đó, mang chồi non, lộc biếc cho cuộc sống sinh sôi nảy nở.

Âm hưởng của câu thơ,nhịp thơ hối hả, khẩn trương kết hợp tượng trung liên tưởng quá khứ hiện tại, tương lai đất nước:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Động từ “cứ” như một mệnh đề thăng tiến khẳng định bước đi vững chãi, tự tin của dân tộc sau mỗi mùa xuân nhìn lại mình, vững bước đi lên. Từ mùa xuân chung của đất nước và cách mạng Thanh Hải ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ đóng góp vào cuộc đời chung.

Nếu nhịp điệu thơ ở những khổ thơ trên vừa hối hả, vừa khẩn trương, vừa tả thực, vừa tưởng tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa về màu xuân của đất nước lớn lao. Tự hào thì mùa xuân ở những khổ thơ dưới như sau:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Lại cất lên một cách nhỏ nhỏ, khiêm tốn nhưng thật thiết tha, cảm động, sâu lắng. “ta làm” là điệp ngữ vang lên ở đầu các câu thơ như một khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, cống hiến nhiều nhất cuộc đời.

Hình ảnh đối ứng lặp lại ở đầu bài thơ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” là thể hiện mong ước cụ thể của nhà thơ được góp cái đó dù nhỏ bé nhưng có ích cho đời. là con chim hãy mang lại những âm thanh vang vọng, những tiếng hót say mê lòng người là nốt nhạc, nốt trầm trong bản nhạc nhưng không thể thiếu giàn hợp xướng, trong bản hòa ca tất cả mọi người.

Cũng trong khổ thơ này Thanh Hải đã được chuyển những cái bé nhỏ, riêng tư thành cái “ta” lớn lao, hòa chung mọi người. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân thành không khuôn thước, ồn ào mà ngược lại đằm thắm, lắng đọng, sâu xa tác động mạnh mẽ vào con tim, khối óc người đọc. Khổ thơ tiếp theo là tiếng lòng cao cả của nhà thơ, của những con người biết hướng tới mùa xuân đẹp, sống có lý tưởng, mục đích, ước mơ:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Tác giả nhắc lại nhan đề bài thơ như một lời nhắn nhủ, tâm tình gợi ra một lẽ sống cống hiến cho đời chung lặng lẽ, khiêm tốn, sống đẹp, sống có ích âm thầm đóng góp cho mùa xuân chung không kể gì tuổi tác, không kể gì thời gian.

Khổ thơ ánh lên và tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn luôn luôn khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp như mùa xuân vang vọng đất trời góp phần làm đẹp cho mùa xuân chung của đất nước, Tố Hữu viết:

“Nếu là con chim chiếc lá

Con chim phải hót chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

Thơ xưa và nay thường gắn nhiều định ngữ với mùa xuân nhưng mùa xuân của Thanh Hải nho nhỏ mà không nhỏ chút nào. Nó nói lên được nhiều ý nghĩa hơ cả bởi đó là lời tâm niệm chân thành, sâu lắng nhất của một tâm hồn trước lúc đi xa, giã từ cuộc sống ngàn lần đáng yêu về với cõi vĩnh hằng hư vô.

Có phải khi con người ta đến gần cái chết là lúc họ khao khát muốn sống hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng rộng mở, thanh thản, cao đẹp, sống có ý nghĩa đến những phút chót cuộc đời. Đúng như mong ước nhà thơ “mùa xuân nho nhỏ” được phổ nhạc. bài thơ lại một lần nữa được chắp thêm cánh bay xa vào bản hòa xa trong giàn hợp xướng một nốt trầm làm xao xuyến lòng người.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 2

Là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào tháng 11 – 1980, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông dã diễn đạt cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước. Đồng thời, bài thơ cũng là một tâm nguyện dâng hiến sức xuân trong cuộc sống cách mạng của đất nước.

Bài thơ đi theo một mạch cảm xúc bắt đầu từ những cảm xúc trực tiếp trước vẻ đẹp của sức sống mùa xuân xứ Huế từ đó liên tưởng tới mùa xuân của đất nước, của cách mạng. Sau đó đẩy mạnh cảm xúc đến những ước nguyện của bản hòa ca cuộc đời. Và cuối cùng, bài thơ lại trở về với cảm xúc thiết tha tự hào qua làn điệu dân ca xứ Huế. Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế tươi mát đẹp đẽ để từ đó bộc lộ những cảm hứng say đắm, đón nhận thanh sắc đất trời mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Chỉ bằng một vài nét phác hoạ, bức tranh mùa xuân quê hương đã hiện lên với một khoảng không gian khoáng đãng, cao rộng, êm dịu và đầy chất thơ. Bức tranh ấy được mở ra bằng chiều dài của dòng sông, chiều cao của bầu trời và chiều sâu của cảm xúc. Bức tranh là một sự pha trộn đặc biệt của màu sắc. Nó có sắc tím biếc, tươi tắn, đằm thắm của một bông hoa đang mọc giữa dòng sông xanh.

Bằng việc sử dụng đảo ngữ từ mọc lên đầu cùng với việc sử dụng lượng từ một tác giả đã nhấn mạnh sự xuất hiện đột ngột, bất ngờ cùng với sức sống mạnh mẽ căng tràn của sức xuân thể hiện qua hình ảnh bông hoa. Màu tím biếc như có sức lan tỏa cả mặt sông xanh, hòa quyện với nhau tạo cảm giác dịu mát hài hòa, vừa là tín hiệu của mùa xuân, vừa là vẻ đẹp tinh túy của đất trời. Hơn thế nữa, bức tranh mùa xuân còn ghi vào lòng người những âm thanh lảnh lót của con chim chiền chiện, khiến cho niềm xúc động bồi hồi, xốn xang chợt bật thành tiếng hỏi:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, mùa xuân tình cảm của tác giả được thể hiện thật mãnh liệt, ông dang rộng vòng tay, mở rộng tấm lòng, trân trọng nâng niu đón nhận mùa xuân. Tiếng chim vang ra, không tan ra, loang vào không trung mà tuôn ra thành tiếng rõ ràng, tròn trịa kết tinh thành từng giọt, kết lại thành dấu ấn mùa xuân để nhà thơ hứng với đôi bàn tay trân trọng và tấm lòng rộng mở.

Cả đoạn trên đã không chỉ lột tả được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn diễn tả được sự say đắm, ngỡ ngàng và thái độ đón nhận trân trọng, nâng niu của tác giả. Sau những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, khổ thơ thứ hai trong bài là những cảm nhận thật hơn về sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước.

Bốn câu thơ lặp lại từng cặp cấu trúc sánh đôi cùng điệp ngữ mùa xuân xuất hiện đầu hai câu 1 – 3 đã gợi ra những hình ảnh về đoàn quân cầm súng và đoàn người ra đồng. Bên cạnh đó, tác giả dùng thêm từ lộc để nói tới sức xuân đang nảy nở. Cành lá ngụy trang trên lưng người ra đồng, dẫu là cành nhưng trước sức xuân nhiệm màu vẫn đâm chồi nảy lộc.

Những cây mạ non vừa được gieo xuống trong khí xuân, chẳng đợi thời gian đâm chồi trải dài nương mạ. Dùng từ lộc để diễn tả sức xuân nảy nở mãnh liệt đang trào dâng của thiên nhiên đất trời, đồng thời còn thể hiện sức xuân của con người. Những con người cầm súng, truyền sức xuân cho cành lá ngụy trang trên lưng nảy lộc, những người ra đồng gieo mạ xuống đất hay là đang gieo xuống những mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Họ đã mang cả mùa xuân, sức xuân ra đồng, ra chiến trường và hơn thế nữa, họ đang mang cả mùa xuân về cho đất nước. Từ hai hình ảnh của hai lớp người này tác giả đã đi tới một khái quát cao hơn đối với tất cả.

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

Cả dân tộc đang hừng hực sức sống mới trước mùa xuân nhiệm màu. Tất cả đang vội vã, khẩn trương trong công việc để cống hiến, xây dựng đất nước. Và thêm nữa, từ xôn xao như diễn đạt một sự thay đổi, một sự biến chuyển trong tâm hồn mỗi con người trước mùa xuân. Tất cả mọi người đang đóng góp những mùa xuân nhỏ bé của mình cho mùa xuân của đất nước:

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Mùa xuân của đất nước được cảm nhận trong sự tổng kết chiều dài lịch sử bốn nghìn năm với bao vất vả, gian lao và đất nước được so sánh với vì sao, nguồn sáng kì diệu của thiên hà, vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên vũ trụ. Đất nước ấy như một bà mẹ tảo tần, vất vả, qua bao gian lao thử thách vẫn kiêu hãnh, ngoan cường cứ đi lên phía trước không chỉ bằng sức mạnh của hôm nay mà bằng sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử. Câu thơ như là một điểm nhấn, lời tổng kết về sức sống mãnh liệt của đất nước đồng thời ẩn chứa niềm tự hào, niềm tin của tác giả vào cuộc đời và đất nước.

Khổ thơ thứ tư, năm là hai khổ thơ bộc lộ rõ nhất chủ đề của bài thơ đó là ước nguyện thiết tha muốn hòa đồng cùng mùa xuân đất nước, ước nguyện dâng hiến tài sức cho đời. Và trước tiên, ước nguyện của nhà thơ là ước nguyện muốn hòa đồng cùng thiên nhiên đất nước:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Ở khổ thơ này đã có sự lặp lại cấu trúc ngữ pháp, bắt gặp những hình ảnh bông hoa, con chim, những tín hiệu mùa xuân ở khổ thứ nhất. Trong muôn ngàn điều ước, tác giả chỉ ước làm một tiếng chim trong muôn ngàn giọng hót để gọi xuân về, một bông hoa trong muôn triệu đoá hoa để tô điểm cho mùa xuân. Những ước muốn giản dị để thành những vật nhỏ bé nhưng chính những vật nhỏ bé này lại góp phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên mùa xuân, tạo nên sắc xuân.

Bên cạnh đó, tác giả còn muốn làm một nốt trầm trong bản hòa ca êm ái. Chỉ là một nốt trầm kín đáo, khiêm nhường, chứ không phải là một nốt thanh thánh thót, nổi trội. Lẫn vào trong bản hòa ca, khó nghe và nhận ra những nốt trầm khiêm nhường đó đã tạo nên cái hay của bản nhạc. Tác giả muốn làm một nốt trầm nhưng là nốt trầm xao xuyến, có sức ngân vang, một nốt trầm có ích cho đời.

Những ước muốn tưởng như giản dị ấy lại có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ tôi sang ta, nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung.

Sau ước nguyện hòa đồng, tác giả đã đi tới khát vọng cống hiến bền bỉ của mình. Trong cảm hứng trữ tình, nhân vật trữ tình bỗng biến thành mùa xuân nho nhỏ, một mùa xuân không chỉ mang ý nghĩa mà là một mùa xuân nhỏ bé, có hình khối hữu hạn nhập vào mùa xuân rộng lớn của đất nước:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Khổ thơ như là một lời nhắn nhủ, một lẽ sống. Sống là để cống hiến. Mùa xuân nho nhỏ còn là quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa mỗi con người giữa cuộc đời chung của dân tộc. Thanh Hải đã chọn cho mình một cách cống hiến riêng không phô trương, không ồn ào, cống hiến một cách âm thầm lặng lẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi.

Khổ thơ là một sự tổng kết, chiêm nghiệm từ chính cuộc đời đã cố gắng không biết mệt mỏi từ tuổi hai mươi căng tràn sức sống đến khi phải nằm trên giường bệnh của nhà thơ. Là lời cho riêng mình, đoạn thơ bỏ trống cách xưng hô nhưng điều đó lại như mở rộng tới mọi người, lay động người đọc cùng chung ý nghĩ.

Bài thơ ít nói đến Huế nhưng người đọc vẫn nhận ra một điều, bài thơ vẫn đậm đà chất Huế. Chất Huế nằm trong cảnh sắc nên thơ trong tâm hồn dịu dàng, đằm thắm trong những bài thơ ngũ ngôn, trong những bài dân ca Huế. Và đặc biệt chất Huế đậm đà ở khổ cuối trong tiếng hát, tình yêu nước non, tình yêu quê hương đất nước

Mùa xuân tôi xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nếu những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình, Thanh Hải đã chuyển thành một nội dung đằm thắm chất Huế, vừa hòa chung cùng nước non.

Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái ngàn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và ấm áp. Tiếng hát đằm thắm hiền hòa xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế. Kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi vừa thể hiện nguyện ước chân thành, tha thiết vừa như dựng lên một lẽ sống cao đẹp, cống hiến hết mình, bền bỉ mà âm thầm, lặng lẽ.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 3

Núi Ngự sông Hương là quê hương thân yêu của nhà thơ Thanh Hải. Ông là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Mồ anh hoa nở, Những đồng chí trung kiên, Mùa xuân nho nhỏ… là những bài thơ đặc sắc nhất của Thanh Hải.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hòa bình, xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang. Đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng.

Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên “một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh,

Một bông hoa tím biếc.

“Bông hoa tím biếc” ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sồng nước làng quê:

Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông…

(Trở về quê nội – Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu “tím biếc”của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót – Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

“Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác – thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.

Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót…, Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân. Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy quanh lưng.

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

“Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc.

Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

“Hối hả” nghĩa là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” nghĩa có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả như… ” làm cho câu thơ vang lên nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc Mùa Xuân của thời đại Hổ Chí Minh. Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của nhà thơ về đất nước và nhân dân:

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Chặng đường lịch sử của đất nước với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm để xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa.

Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ “Đất nước như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian, và thời gian. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: “Cứ đi lên phía trước”.

Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh. Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người. “Một cành hoa” để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. “Một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, cổ vũ nhân dân. “Con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm…” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của đất nước và con người Việt Nam. Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trờ thành “một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lăng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu).

Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, cả từ lúc “tuổi hai mươi” trai tráng cho đến khi về già “tóc bạc”. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời gan ruột của mình. Ông đã sống như lời thơ ông tâm tình. Khi đất nước bị Mỹ – Diệm và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: “Ta làm… ta làm… ta nhập…”, “dù là tuổi… dù là khi… ” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt”.

Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình tượng. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, song hành đối xứng, điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa.

Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 4

Thanh Hải là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì đất nước gồng mình kháng chiến chống Mỹ. Cùng hoà mình trong nhịp điệu hào hùng của dân tộc, Thanh Hải có những sáng tác riêng về con người đất nước thời kì này. Năm 1980, khi đất nước đã trải qua thời kì kháng chiến sục sôi được 5 năm và khi đó nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, ông đã viết nên những vần thơ trong trẻo, nhiệt huyết về đất nước. Đó là bài thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam thời kì này: “Mùa xuân nho nhỏ”.

Mở đầu khổ thơ là bức tranh mùa xuân hiện ra:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Đảo từ: “Mọc” cùng từ “một” ngay đầu câu thơ không chỉ miêu tả một bông hoa tím biếc nổi bật giữa nền trong xanh của dòng sông, mà còn thấy được cả một quá trình sinh sản và phát triển. Trên nền bức tranh mùa xuân nổi bật một bông hoa tím mang trong mình sự sống nhiệt huyết trỗi dậy, một sức sống vô cùng mãnh liệt. Bức tranh mùa xuân với gam màu tươi tắn của hoa tím, sông xanh làm lòng người thanh mát.

Tiếng “Ơi” đầu câu thơ thứ ba như tiếng gọi thân thương, trìu mến. Tiếng hót của chú chim chiền ngân vang làm xáo động cả đất trời. Nghệ thuật nhân hóa khiến cho chú chim trong bài thơ trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác ở câu thơ :” Từng giọt long lanh rơi” hướng ta liên tưởng tới đó có thể là giọt mưa mùa xuân hay là giọt âm thanh thánh thót của chú chim hay đó là hình ảnh con chim bay vút lên trời cao rồi thả tiếng hót thật trong, thật tròn, thật vang.

Âm thanh không hề tan, không biến mất mà ngưng đọng thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc. Những giọt ngọc đó được tác giả nâng niu, trân trọng mà “ đưa tay ra hứng”. Bức tranh mùa xuân với những đường nét đặc trưng của Huế với không gian cao rộng, thoáng đãng, sắc màu pha trộn hài hòa. Nhà thơ mở mọi giác quan của mình để cảm nhận. Đoạn thơ có cả chất nhạc, chất họa, tựa như tiếng tâm hồn của nhà thơ bay bổng, say sưa trước thiên nhiên đất trời.

Đứng trước mùa xuân của đất nước, Thanh Hải lại có những cảm nhận khác:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc rắc đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải đầy nương rẫy

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng” tượng trưng cho mùa xuân, cho những con người làm nên lịch sử mùa xuân. Hình ảnh “lộc” ẩn dụ cho nhành non lộc biếc, cho sức sống, sức vươn lên phát triển của những giá trị thành quả tốt đẹp. Lộc non theo người lính ra chiến trường, theo tay người nông dân trải đầy ruộng nương. Nghệ thuật sóng đôi và đối nhau tạo ra một cặp hình ảnh tượng trưng cho hai lớp người : người ở nơi tiền tuyến, người nơi hậu phương.

Đó đều là những con người mang mùa xuân về cho đất nước, làm ra mùa xuân cho dân tộc. Điệp cấu trúc: “Tất cả như” cùng từ láy “hối hả, xôn xao” diễn tả không khí lên đường, sự khẩn trương, rộn ràng, háo hức trong những năm tháng gian lao. Khổ thơ:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

với cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa và so sánh biến đất nước trở thành con người : vất vả, gian lao” diễn tả sức sống bền bỉ, kiên định, vững vàng và trong sáng. Hình ảnh ví von đất nước với vì sao như thể khẳng định dân tộc sáng mãi với thời gian, vũ trụ. Qua khổ thơ ta thấy được niềm tin vào tương lai rộng mở vững chãi, niềm tin vững vàng bước vào thế kỉ mới, thời kì của tự do, độc lập.

Trước mùa xuân đất trời và mùa xuân đất nước, tác giả tâm niệm:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Tác giả ước là con chim hót để dâng tiếng ca vang vọng trong trẻo, ước làm nhành hoa để dâng hương cho đời. Tác giả còn ước làm “một nốt trầm” trong bản hòa tấu của cuộc đời, để lặng lẽ mang thanh âm trong trẻo vào hòa ca. Ước nguyện của nhà thơ giản dị thể hiện quan niệm sống đẹp, trách nhiệm với cuộc đời chung.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Với tác giả mùa xuân của ông là “mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước. Mùa xuân ấy cứ “lặng lẽ” âm thầm cống hiến bằng tình yêu , nhiệt huyết, khiêm nhường, thầm lặng. Điệp ngữ: “dù là”cùng hình ảnh hoán dụ ở hai câu cuối “tuổi hai mươi” tượng trưng cho tuổi trẻ, “tóc bạc” tượng trưng cho tuổi già.

Ở khoảng thời gian nào tác giả cũng khát vọng được cống hiến. Lời thơ của Thanh Hải như lời tổng kết về cuộc đời chính mình, gợi bao liên tưởng xúc động cho bạn đọc và thấm đẫm triết lý nhân văn. Khổ thơ cuối là lời ngợi ca đất nước:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Cảm xúc mãnh liệt cất thành lời ca mến yêu và tự hào trong tiếng hát tự nguyện của làn điệu quê hương Huế. Phải là con người tha thiết, yêu cuộc sống, phải là một tâm hồn tràn đầy sinh lực mới cất lên được tiếng hát ngợi ca yêu đời như Thanh Hải. Tiếng ca ấy còn mãi với thời gian, với đất nước, đi ngược với mọi quy luật mất còn của tạo hóa.

Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” với thể thơ năm chữ gắn với các điệu dân ca phù hợp với việc giãi bày tâm trạng đã vẽ lại một bức tranh toàn cảnh của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Nhịp điệu và giọng điệu thơ phù hợp với tâm trạng háo hức, nhiệt huyết của tác giả khiến người đọc không thể nghĩ đây là những vần thơ của một con người sắp gần đất xa trời.

Đất nước ngày một phát triển, mùa xuân đất nước ngày càng đẹp nhưng những vần thơ : “Mùa xuân nho nhỏ” vẫn đi mãi với thời gian bởi đó không chỉ là cảm xúc của Thanh Hải mà còn là những bài học nhân sinh sâu sắc.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 5

Mùa xuân trong thơ của Thanh hải cũng thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa. Không những đẹp từ cảnh thiên nhiên mà đến tâm hồn Thanh Hải cũng thật đẹp. Đó là mùa xuân trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” mà tác giả sáng tác không bao lâu trước khi qua đời (1980).

Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát khao cống hiến của nhà thơ, bộc lộ niềm lạc quan, vui say trong cảnh đất trời vào xuân nhưng cũng đầy trăn trờ và suy nghĩ: “Mọc giữa dòng sông xanh… Nhịp phách tiền đất Huế”

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời. Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

Ơi con chim chiền chiện

Hót cho mà vang trời,

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng rất Huế đó là hình ảnh màu “tím biếc ” của “một bông hoa” hòa với màu “xanh” của “dòng sông”. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế.

Cả hai màu sắc đều rất hài hòa như vẫy gọi mùa xuân. Động từ “Mọc” xuất hiện một cách đột ngột trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng lớn. Cả hai hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biết” ấy đã gợi lên trong lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo của chim chiền chiện:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót cho mà vang trời,

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lãnh lót như mở thêm không gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên, sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô. Tác giả lắng nghe tiếng chim hót, nghe bằng tai chưa đủ, nhà thơ còn nghe bằng của trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo.

Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giọt nước mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác “tôi đưa tay tôi hứng”.

Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa,

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Với những vầng thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa xuân cách mạng quê hương của tác giả:

“Mùa xuân người cầm súng,Lộc giắt đầy trên lưng.Mùa xuân người ra đồng,Lộc trãi dài nương mạ.Tất cả như hối hả,Tất cả như xôn xao…”

Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ và xây dưng đất nước. Từ “Lộc” có hai tầng nghĩa: “Lộc” có nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người chiến sĩ ra mặt trận. “Lộc” còn là mạ non theo chận người nông dân ra đồng ruộng. Với biện pháp ẩn dụ “Lộc” còn mang ý nghĩa tượng trưng hơ.

“Lộc” biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn lên quyết giành chiến thắng, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự bình yên đến với mọi nhà. Mà chính người chiến sĩ sẽ mang mùa xuân yên vui đến cho mọi nơi trên đất nước. “Lộc” tượng trưng cho sự ấm no, “trúng mùa” của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:

“Tất cả như hối hả,

Tất cả như xôn xao…”

Điệp từ “tất cả” xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung của mỗi người. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” gợi hình gợi tả thể hiện nhịp độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những con người đang bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất và vào gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca ngợi truyền thống đó, Nguyễn Trãi đã từng viết:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất và”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão dông, chiều ngăn nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:

“Việt nam ơi Việt Nam

Tiếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt

Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục

Dân tộc ta không chịu cúi đầu”

Thế nhưng đất nước vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì sao”

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng bền vững, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh diện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mãnh mẽ quy luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng của đất nước.

Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca,

Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hòa nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hòa ca bất tận của cuộc đời.

Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai.

Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả,

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ – Mùa xuân nho nhỏ:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vông tha thiết khiêm tốn cả cuộc đời cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ” một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, không cần mọi người biết đến. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già – cống hiến tuổi già, trẻ – cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.

Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng.

“Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giãi bày cho nhau.

Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời.

Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 6

Đề tài mùa xuân có lẽ là đề tài muôn thuở mà nhà thơ nào cũng ít nhất đã từng viết về. Viết về đề tài này, mỗi nhà thơ lại có những suy tưởng, những ý nghĩ riêng của mình. Nhiều nhà thơ cũng đã để lại dấu ấn của mình trên diễn đàn văn học Việt với những bài thơ xuân như “Vội vàng” – Xuân Diệu, “Mùa xuân chín” – Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” – Nguyễn Bính, … Nhưng có lẽ mùa xuân để lại trong lòng người đọc cảm xúc nhiều nhất là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

Tác phẩm được viết lên khi nhà thơ đang ở những ngày cuối cùng của cuộc đời chứa đựng trong đó là tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước và khát vọng của tác giả. “Mùa xuân nho nhỏ” có lẽ là bài thơ đặc biệt nhất trên diễn đàn thi ca Việt Nam.

Cả bài thơ là nỗi lòng của tác giả, chứa đựng một tình yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết, tấm lòng yêu đất nước non sông và ước nguyện được dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc yêu thương của mình. Mở đầu bài thơ, người đọc như được bước chân vào một miền quê hương quen thuộc:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Một không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam hiện lên trước mắt người đọc chỉ bằng vài ba nét chấm phá. Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, một vài chú chim nhỏ, chỉ bằng vài nét đơn sơ ấy thôi mà nhà thơ đã vẽ nên cho chúng ta thấy một không gian của một miền quê yên bình. Không gian thân thuộc ấy, chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên mọi nẻo đường quê hương Việt Nam.

Tác giả đã vẽ ra một dòng sông xanh biếc đang miệt mài trôi chảy. Và giữa dòng sông ấy, lại điểm xuyết một nét chấm phá nổi bật “một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được nhà thơ sử dụng ở ngay đầu câu thơ gây nên ấn tượng mạnh, khiến người đọc cảm thấy bông hoa kia như đột ngột nhú lên bất ngờ từ dòng nước xanh. Màu tím có lẽ là màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất. Người ta vẫn ấn tượng với chiếc áo dài xứ Huế tím bay bay trong gió sông Hương thơ mộng.

Vậy nên, ở đây, nhà thơ đã chọn màu tím để hình dung nên mùa xuân của quê hương mình. Khác với các nhà thơ khác, Thanh Hải ở đây không dùng tím nhạt, tím đậm, tím hồng để tả mà lại dùng “tím biếc”. Đọc câu thơ mà người đọc như ngỡ ngàng nhận ra màu sắc ấy hẳn đó là một đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước mênh mông. Ánh tím biếc của đóa hoa ấy như khiến cả mặt sông xanh rạng rỡ hơn, óng ánh hơn. Và không thể thiếu trong bức tranh quê hương thôn dã ấy, là những chú chim đang líu lo hót mừng.

Bằng một giọng nói tha thiết, nhà thơ cất tiếng gọi những chú chim ấy “Ơi con chim chiền chiện”. Không phải sơn ca, không phải chim yến mà lại là loài chiền chiện. Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam với giọng hót cao vút, thường bắt gặp ở đồng rộng hay những bãi quang đãng. Nhà thơ đã cất tiếng gọi “ơi” – một tiếng gọi như dành cho con người.

Tiếng hót của chúng cất lên như để báo tin cho con người rằng mùa xuân đã về, đã đến thật rồi. Nghe tiếng hót ấy, nhà thơ dù đang trên giường bệnh nhưng cũng không thể không vui mừng, và Thanh Hải đã cất tiếng trách yêu “Hót chi mà vang trời”. Giọng nói ngọt ngào, giọng trách hờn dỗi của một người con xứ Huế sao mà đáng yêu, sao mà nhẹ nhàng đến thế! Tiếng hót ấy vang lên không trung cao xa như đang biến thành những giọt những hạt rơi xuống thế gian.

“Từng giọt long lanh rơi” là những giọt mưa xuân hay từng giọt ấy là tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống để chào đón mùa xuân về? Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, không phải dùng thính giác nữa mà là dùng xúc giác. Mùa xuân về đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh. Nhà thơ đã không chỉ cảm nhận được mùa xuân kia mà còn có thể chạm tới nó nữa. Xuân Diệu cũng đã từng tỏ bày:“Hỡi xuân hồng – ta muốn cắn vào ngươi”

Nếu ở Xuân Diệu, người ta thấy cái ngông cuồng khi muốn cắn, muốn ôm cả mùa xuân vào lòng để thưởng thức cho trọn vẹn thì ở Thanh Hải, người ta lại thấy cái ngọt ngào, cái dịu dàng như nét riêng của người Huế. Nhà thơ chỉ muốn được cảm nhận, muốn được tận tay chạm vào xuân, hứng lấy từng giọt mùa xuân đang trôi chảy kia để tận hưởng mà thôi chứ không muốn xuân là của riêng mình.

Cả khổ thơ là một bức tranh quê hương thôn dã đầy rộn ràng. Đó là bức tranh chào xuân mà chỉ bằng vài nét chấm phá, Thanh Hải đã dựng lên một cách chân thực nhất của làng quê Việt Nam. Bước sang khổ thơ thứ hai, khung cảnh xuân không còn chỉ có thiên nhiên mà đan xen vào đó là hình ảnh con người:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh của những người đang trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là hình ảnh của người lính cầm súng với quanh mình là lá ngụy trang. Mùa xuân của họ là những cành lộc non giắt trên lưng để che mắt quân thù. “Lộc” ấy đối với những người sản xuất hậu phương là những mầm cây ngô, cây sắn, cây lúa mới đang trải ra trên khắp ruộng đồng, nương rẫy.

Mùa xuân của mỗi người tuy khác nhau nhưng đều góp phần dựng xây lên mùa xuân của đất nước. Cả Tổ quốc đang sục sôi, “hối hả” bước những bước chân đầu tiên đầy gian khổ để tiến lên xây dựng một đất nước mới mơ ước, hạnh phúc hơn. Điệp từ “tất cả” được lặp lại như một lời khẳng định của nhà thơ rằng cả nước, cả dân tộc đang rộn ràng, tươi vui, phấn đấu hết mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau bao năm đấu tranh vất vả.

Tác giả cũng sử dụng ở đây nghệ thuật so sánh với những từ láy của chuyển động và âm thanh để miêu tả rõ hơn không khí rạo rực, rộn ràng ấy. Phải chăng, chính tác giả Thanh Hải cũng đang háo hức được hòa mình vào không khí nhộn nhịp, muốn góp một chút sức mọn của mình để dâng lên mùa xuân của dân tộc? Nhịp thơ năm chữ vốn là một nhịp thơ khá nhanh, giàu cảm xúc và dồn dập. Thế nhưng, bước sang khổ thơ thứ ba, nhịp thơ ở đây lại trở lên trầm lắng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Nhịp thơ chậm và trầm lắng hơn bởi ở đây tác giả đang suy tưởng lại bốn ngàn năm lịch sử của dân tộc. Trong bốn ngàn năm dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, bao gian khổ nhọc nhằn. Những cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh chống quân Nguyên-Mông, chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã gây nên bao mất mát đau thương cho dân tộc.

Đó là những “vất vả và gian lao” mà cả dân tộc ta đã phải trải qua. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả khó khăn ấy, chúng ta đã làm nên những chiến thắng vang dội với ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông hung hãn, chiến thắng cả hai kẻ thù là hai quốc gia mạnh nhất lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ.

Một dân tộc như thế, một đất nước như thế hỏi có ai không tự hào được chứ? Dân tộc ta như một vì sao rực sáng, tiến lên phía trước, mà “đạp quân thù xuống bùn sâu”. Một lần nữa, Thanh Hải lại sử dụng nghệ thuật so sánh khi so sánh hình ảnh “đất nước như vì sao” luôn luôn chiếu rạng, sáng soi, chỉ đường dẫn lối chúng ta tiến về phía trước của văn minh và hạnh phúc.

Đất nước ta đã trải qua những ngày gian khổ để tiến lên những ngày tháng tươi sáng hơn. Chính lúc này đây là lúc mà mỗi chúng ta cần góp một phần nhỏ sức lực của mình để dựng xây lên một mùa xuân tươi đẹp hơn của đất nước. Bởi vậy giờ đây, khi sức khỏe cũng đang yếu dần, dù đang trên giường bệnh, nhưng Thanh Hải vẫn cất lên lời nguyện ước của chính mình:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Không phải muốn trở thành điều gì to lớn, ước nguyện của Thanh Hải chỉ muốn được làm một chú chim nhỏ, một nhành hoa thắm, một nốt trầm giữa bản hòa ca bất tận. Tác giả chỉ muốn được trở thành một chú chim nhỏ cất tiếng hót vui cho đời hay một đóa hoa để khoe sắc thắm mang lại sắc hương cho cuộc đời này, hay chỉ là một nốt trầm lắng giữa bản nhạc của tháng năm, của cuộc đời, của đất nước.

Tất cả nguyện vọng ấy của tác giả chỉ là những ước vọng nhỏ nhoi, vậy mà ông tha thiết mong mỏi được thực hiện. Điều đó được chứng tỏ qua điệp từ “ta làm” được lặp lại liên tiếp như một lời khẳng định. Chỉ một ước vọng nhỏ nhoi thế thôi mà cháy bỏng, mãnh liệt tới nhường nào. Nó đã thể hiện niềm khao khát yêu mến cuộc sống này, khao khát muốn được dâng hiến cho cuộc đời dù chỉ là một chút nhỏ bé mà thôi.

Nhà thơ cũng muốn được góp phần vào bản hòa ca của đất nước chỉ để trở thành “một nốt trầm xao xuyến” – nốt trầm giữa bản hòa ca rộn rã của dân tộc. Nếu như để ý một chút ở đây, ta có thể nhận ra, tác giả không sử dụng từ “tôi” để thể hiện khát vọng của mình mà là từ “ta”. Nếu như “tôi” chỉ thể hiện cái tôi cá nhân của riêng mình thì “ta” lại là cái tôi chung của cả dân tộc. Nó đại diện cho cái tôi chung của bao con người Việt Nam muốn dâng hiến cho cuộc đời, cho sự nghiệp của dân tộc.

Cuối cùng, kết lại, nhà thơ chỉ muốn trở thành “một mùa xuân nho nhỏ”. Mùa xuân ấy sẽ để dâng cho đời, cho đất nước, cho cuộc sống dù ở trong hoàn cảnh nào, độ tuổi nào cũng muốn được dâng tặng hết mình. Điệp từ “dù là” lặp lại như một lời khẳng định sự chắc chắn rằng bất cứ khi nào, lúc nào tác giả cũng sẽ sẵn sàng để dâng hiến cả cuộc đời mình. Điệp từ ấy cũng làm nhịp thơ trở lên nhanh hơn, rộn ràng hơn, càng khẳng định hơn ý chí của tác giả.

Và ước muốn của tác giả cũng là ước muốn chung của mỗi người con Việt Nam, muốn làm một mùa xuân nhỏ dâng hiến lên mùa xuân đại thắng của dân tộc, dù là bất kì ai, là cụ già hay thanh niên, trẻ nhỏ. Hai khổ thơ nhưng chung một niềm xúc cảm mong ước, đó là ước nguyện, là nỗi khát khao được cống hiến hết mình của tác giả, của mỗi con người dân tộc, cho sự nghiệp của Tổ quốc dù chỉ là những vật nhỏ bé, thường ngày.

Kết lại bài thơ, Thanh Hải lại trở về làm một người con của xứ Huế mộng mơ khi cất lên tiếng hát:

“Mùa xuân tôi xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế…”

Trở về với Huế thương, Thanh Hải xin được cất lên câu hát thân thương – câu hát đậm chất trữ tình của Huế: Nam ai, Nam bình. Hai điệu hát mà chỉ có ở đất Huế, chỉ có những người con của Huế mới có thể ca lên. Lời hát ấy xin dành tặng cho mùa xuân, cho đất nước, quê hương, con người Việt Nam. Từng nhịp phách tiền đệm cho tiếng hát ấy vang vọng lên, ngân dài lên trên xứ Huế như tiếng lòng của Thanh Hải chất chứa bao nỗi niềm.

“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một áng thơ văn chứa đầy cảm xúc, chất trữ tình đúng như tình cảm dịu dàng, thấm đượm của người con xứ Huế. Sử dụng nhịp thơ năm chữ dồn dập nhưng không kém phần nhẹ nhàng, đằm thắm, tác giả đã viết lên nỗi lòng của mình. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết, yêu đời tha thiết dù đang nằm trên giường bệnh, là tình yêu nước, ước vọng được cống hiến cho Tổ quốc dù là một chút nhỏ bé thôi.

Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” có lẽ là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất trong nền văn học Việt Nam khi được viết trong thời kì đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa cũng là lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh. Nhưng có thể thấy ở trong đó chứa chan bao nhiêu cảm xúc, tình yêu, bao nhiêu nỗi lòng của một nhà thơ cả đời gắn bó, cống hiến cho sự nghiệp của đất nước.

Bài thơ đã trở thành một tượng đài trong lòng người đọc về những tác phẩm viết về mùa xuân và sẽ luôn luôn còn nguyên giá trị cho đến mai sau.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 7

Mùa xuân với sức sống của thiên nhiên đất trời luôn là nguồn cảm hứng của thi ca. Nhắc đến xuân trong kho tàng thi ca Việt Nam ta đã từng biết đến “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính… Và trong rất nhiều tác phẩm viết về mùa xuân ta không thể không nhắc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

Bài thơ được viết vào năm 1980, khi tác giả đang phải chống chọi từng phút giây để có được sự sống. Mùa xuân là lúc thiên nhiên đất trời đang chuyển mình để đón chào sự sống mới vậy mà lúc này nhà thơ đang phải gồng mình trước cơn đau bệnh tật. Nói đến đây tự nhiên chúng ta lại nhớ đến “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử bởi bài thơ cũng được viết khi tác giả đang sống trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời mình. Thanh Hải cũng vậy. Dường như nhà thơ đang dành trọn từng phút giây để được cống hiến, để được sống với văn chương.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế với gam màu tươi sáng, âm thanh trong trẻo, bừng sức sống.

“Mọc giữa dòng sông xanh – Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” xuất hiện ngay đầu câu thơ khiến người đọc vừa có cảm giác giật mình, vừa gợi sự vui mừng, ngạc nhiên, thích thú. Câu thơ càng hiện lên đẹp hơn ở những hình ảnh tiếp đó. Sắc tím của bông hoa thật nổi bật giữa màu xanh bát ngát của dòng sông rộng lớn.

Câu thơ đã gợi được sức sống, sự vươn mình trỗi dậy của thiên nhiên, đất trời. Bút pháp chấm phá đã giúp tác giả tạo nên điểm nhấn cho bức tranh. Dù bông hoa xuất hiện một mình nhưng nó lại không hề cô độc, lẻ bóng. Nó có sức sống, có màu sắc, có sự thu hút người nhìn, khác hoàn toàn với “Củi một cành trôi lạc mấy dòng” (Tràng giang – Huy Cận). Có màu sắc ắt phải có âm thanh.

Tiếng chim chiền chiện hót vang trời đã mang đến sự náo nhiệt, tươi mới cho cả không gian. Tiếng chim ngân vang, rung động, kéo theo mùa xuân về. Không khí tươi vui của mùa xuân đất trời đã khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi, xúc động mà viết nên những vần thơ đầy hứng khởi: “Từng giọt long lanh rơi- Tôi đưa tay tôi hứng”. Một hình ảnh thơ rất nhẹ nhàng, lãng mạn.

Hành động “đưa tay”, “hứng” bản thân nó đã thể hiện được sự trân trọng, nâng niu. Ở đây tác giả đang hứng lấy “từng giọt long lanh rơi” đủ để thấy ông yêu khoảnh khắc này biết nhường nào. Nhà thơ đã cất bút đầu tiên cho bức tranh nhẹ nhàng là thế với dòng sông xanh, với bông hoa tím, với tiếng chim hót và với tất cả tình yêu mà ông dành cho nơi đây, cho những ngày tháng còn lại của mình.

Khổ thơ thứ hai vẫn là bức tranh thiên nhiên mùa xuân những tác giả gửi vào đó với niềm tin về tương lai rộng mở và sự vững chãi của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy quanh lưng.

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”.

Đọc bốn câu thơ ta thấy mùa xuân dường như là mùa của sản xuất, của chiến đấu. “Lộc” là chỉ mầm non, là nói đến sự đâm chồi nảy lộc, căng tràn sức sống. Như vậy người lính ở đây đang mang vác trên vai những cành lá ngụy trang xanh biếc hay đang mang theo sứ mệnh về một đất nước được độc lập, tự do? Dù hiểu theo cách nào thì ý nghĩa của câu thơ vẫn mang những vẻ đẹp của nó.

Cùng với sự gian khổ của người chiến sĩ, người nông dân cũng dùng mồ hôi, sức lao động của mình để tô điểm cho quê hương bằng màu vàng của nương mạ. Như vậy, máu và mồ hôi như đang cùng nhau lao động, cùng nhau chiến đấu để tô điểm, gìn giữ và bảo vệ quê hương, đất nước. Tất cả mọi người bước vào mùa xuân với khí thế vui tươi, phấn khởi và đầy náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Hai từ láy “hối hả”, “xôn xao” khiến người đọc vừa thấy khẩn trương, gấp gáp lại vừa có cảm giác ồn ào, náo động. Hai câu thơ như bừng lên sức sống khiến cho cả bài thơ như khúc ca mùa xuân vui vẻ và hứng khởi. Từ không khí đó, nhà thơ đã thể hiện tâm niệm tràn đầy nhiệt huyết nhưng cũng đầy triết lý nhân sinh của mình. Trước hết nhà thơ muốn hóa thân thành “con chim hót” để mang đến âm thanh trong trẻo, tươi vui. Rồi ông lại muốn thành “một cành hoa” để tô sắc thêm cho đời.

Và cuối cùng ông muốn được trở thành “một nốt trầm”, nhập tâm hồn mình vào “bản hòa ca” tươi vui của đất nước. Có thể thấy cả ba ước nguyện của nhà thơ đều là những ước nguyện bình dị nhưng ẩn sâu trong nó là khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ. Để rồi từ khát vọng đó nhà thơ muốn hiến thân cho cuộc đời:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

“Nho nhỏ” và “lặng lẽ” ở đây là cách nói khiêm tốn ẩn chứa đầy chân thành. Tố Hữu từng viết “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” và “dâng cho đời” ở đây là lẽ sống cao cả như thế. Ông cống hiến cho Tổ quốc từ khi còn trẻ cho đến tận những ngày tháng cuối cùng trên giường bệnh.

Nhà thơ dường như muốn dành cả đời mình để hiến dâng cho đất nước. Khổ thơ giống như một lời chiêm nghiệm nhà thơ dành cho chính mình. Ở khổ thơ cuối cùng, từ tình yêu thiên nhiên nhà thơ đã nâng lên thành khúc ca ca ngợi Tổ quốc:

“Mùa xuân tôi xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

“Nam ai”, “Nam bình” là khúc hát quen thuộc của người dân xứ Huế còn “phách tiền” là một loại đạo cụ dân tộc để làm nhạc đệm cho khúc hát này. Như vậy, Thanh Hải đã sử dụng chất liệu dân gian quen thuộc để viết nên câu thơ nhẹ nhàng, tình cảm. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm mà nhà thơ dành cho xứ Huế, đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” dành cho xứ Huế thân thương.

Có thể nói, với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã đóng góp một phần không nhỏ làm nên thành công của thơ ca dân tộc. Bài thơ không chỉ thể hiện được sự tinh tế cũng như những chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả mà còn truyền đến cho người đọc tình yêu quê hương đất nước mình.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 8

Mùa xuân là mùa hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ… Có lẽ vì thế mà thi nhân muôn đời yêu mến xuân. Xuân đi vào lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ là những trang thơ văn, mà ở đó, xuân là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người.

Ta đã có Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Một khúc ca xuân (Tố Hữu)… và giờ, với Thanh Hải, ta được thưởng thức một Mùa xuân nho nhỏ thân thương, gần gũi. Bài thơ được ra đời lúc nhà thơ Thanh Hải đang giành giật với tử thần từng phút sống, từng hơi thở cuối cùng.

Trong tâm lí nặng nề vì bệnh tật giày vò mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho đời một tình yêu cuộc sống thiết tha và ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ quốc thân yêu. Tác giả muốn dâng tặng Mùa xuân nho nhỏ cho đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng quê được vẽ bằng hình ảnh bình dị, chọn lọc, gợi cảm. Cảm xúc trước mùa xuân của tác giả mở ra thật ngỡ ngàng, không gian dường như tươi mới hơn, thánh thót hơn.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Đó là màu tím biếc của bông hoa dân dã soi bóng dưới dòng sông trong xanh. Đặc biệt là tiếng chim chiền chiện trong trẻo, loài chim cất tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất trước đất trời xuân.

Tất cả gợi cho ta cảm giác một không gian bận bịu và chắt chiu. Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Điều đó cũng chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, một tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tươi đẹp này. “Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị mà trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa.. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, dẫn đến cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Sự chuyển mạch ấy là tự nhiên và hợp lí. Bởi mùa xuân là “lộc” đất trời của chung mọi người.

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, “lộc trải dài nương mạ” là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. “Người cầm súng và “người ra đồng” là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc: Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Biết bao nhiêu mùa xuân ông cha ta đánh giặc giữ nước, bao nhiêu mùa xuân lập chiến công chống quân xâm lược “vất vả và gian lao”. Thanh Hải tự hào khi nghĩ về đất nước với bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đất nước như vì sao sáng vượt qua vất vả và gian lao để đi lên phía trước.

Từ “cứ” đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn giản mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần. Đó là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của nhà thơ đối với đất nước, với dân tộc. Rung cảm thiết tha trước mùa xuân đất nước, nhà thơ bộc bạch một ước nguyện chân thành:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, mang hạnh phúc yên vui cho mọi người, “một cành hoa” để tô điểm cho núi sông, một nốt nhạc trầm “xao xuyến” trong khúc ca phấn chấn tự hào động viên, khích lệ. Chữ “tôi” ở khổ thơ đầu được thay thế bằng chữ “ta” đầy hào hứng, sảng khoái, nó thể hiện tư thế hòa mình của nhà thơ vào cuộc sống, vào mùa xuân đến với mọi người. Mỗi người cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” đã là một: cuộc dâng hiến thật đầy đủ, thật trọn vẹn.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Nếu có ý thức hết mình, sống hết mình, lao động hết mình thì mùa xuân làm gì có tuổi? Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Thanh Hải như nhắc ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến toàn vẹn cho đất nước, cho cuộc đời.

Phải chăng đây chính là điều mong ước tột cùng đã đi theo tác giả suốt cuộc đời? Dù vẫn biết ngày mai rất có thể sẽ phải từ giã cõi đời này nhưng tiếng thơ Thanh Hải vẫn tràn ngập niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai, Nam Bình là hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế từ bao đời nay. Câu hát truyền thống ấy đi mãi cùng trái tim một người con đến giây phút cuối cùng vẫn còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương đất nước.

Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp, vừa là tiếng hát nhẹ nhàng tha thiết, sâu lắng về khát vọng cống hiến cho đất nước của nhà thơ Thanh Hải. Và đó cũng chính là một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi xa.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 9

Mùa xuân là đề tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)

Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của TH là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, TH đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chim mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình.

Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thước tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên.

Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nga của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất.

Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn? Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng:

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ.

Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế. Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù.

Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 10

“Mùa xuân nho nhỏ” ­– một khúc ca quen thuộc, gần gũi và thân quen với mỗi người chúng ta mỗi dịp mùa xuân về. Và những lời ca quen thuộc ấy được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Thanh Hải – một nhà thơ trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, một cây bút tiêu biểu của nền thơ ca dân tộc.

Và có thể nói, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của ông, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết, gắn bó với cuộc đời và những ước nguyện chân thành, sâu sắc của nhà thơ.

Khổ thơ mở đầu bài thơ chính là cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về khung cảnh thiên nhiên khi mùa xuân đến. Với những nét vẽ đơn sơ, giản dị tác giả đã gợi nên một khung cảnh thiên nhiên mùa xuân nhẹ nhàng, nên thơ, đậm chất xứ Huế. Đó là hình ảnh một bông hoa lục bình tím biếc khoe sắc mình giữa làn nước trong xanh.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Nhưng có lẽ, bức tranh xuân của thi sĩ không chỉ có hình ảnh, có màu sắc mà thi sĩ còn mở rộng lòng mình, lắng tai nghe tiếng chim hót ngoài kia báo hiệu một mùa xuân tươi đẹp đã về nơi đây.

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Với việc sử dụng các tình thái từ “ơi”, “hót chi” tác giả đã đưa vào câu thơ giọng thơ ngọt ngào, tâm tình của xứ Huế. Và dường như, âm thanh vang trời của chim chiền chiện đã làm cho bầu trời xuân, không gian thiên nhiên khi mùa xuân tới thêm rộng hơn, cao hơn. Để rồi, trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời đang độ vào xuân ấy, nhà thơ đã dãi bày, phô diễn nỗi niềm vui sướng của mình bằng những câu thơ, những hình ảnh thơ thật đẹp, thật lấp lánh:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Có thể nói, đây là hai câu thơ thật hay nhưng cũng thật đã nghĩa. “Giọt long lanh” đang rơi kia là giọt sương, là giọt mưa xuân đang rơi hay chính là giọt của của tiếng chim chiền chiện kia mang đủ cả hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Song, dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì nó cũng vẽ nên trước mắt chúng ta một bức tranh xuân thật đẹp và nhà thơ đã không thể giấu nổi nỗi lòng mình “tôi đưa tay tôi hứng”.

Câu thơ năm chữ với điệp từ “tôi” lặp lại hai lần đã nhấn mạnh một cách sâu sắc niềm vui, hạnh phúc ngất ngây, say mê của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đang bước vào mùa xuân. Không chỉ thể hiện niềm say mê khi đất trời vào xuân, nhà thơ Thanh Hải trong hai khổ thơ tiếp theo còn thể hiện cảm xúc, tâm trạng của mình đối với mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng.

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Có thể nói với bốn câu thơ trên tác giả đã sử dụng triệt để và thành công biện pháp điệp ngữ. Hình ảnh “mùa xuân” và hình ảnh “lộc” sóng đôi với nhau, được lặp lại nhiều lần tạo nên ý nghĩa, dư vị sâu sắc cho câu thơ và là hiện lên trước mắt người đọc hiện thực gắn với cuộc chiến đấu, lao động của nhân dân. “Lộc” chính là biểu tượng của mùa xuân, là biểu tượng cho sức sống và sức trẻ của thiên nhiên của trời đất.

đây, dường như, những chiến sĩ ra trận đã luôn mang trên mình lộc non mơn mởn nghĩa là mang trên mình niềm tin, sức sống bất diệt. Còn những người lao động lại mang lộc non, mang niềm tin, mang sức sống trải rộng đến muôn nơi. Như vậy, bốn câu thơ đã diễn tả một cách sâu sắc mùa xuân của đất nước, của dân tộc và chính những người chiến sĩ, những người lao động đã làm nên mùa xuân ấy với một bản hợp xướng, một khúc nhạc điệu “hối hả”, “xôn xao”, mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao

Đồng thời, trước những xúc cảm nồng nàn, say đắm của thiên nhiên, của đất nước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải cũng không dấu được niềm tự hào đối với quê hương, đất nước mình.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Với việc sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã hình dung đất nước như một người mẹ vĩ đại, đã trải qua “bốn ngàn năm” với bao gian nan, vất vả thậm chí cả máu, nước mắt và sự hi sinh để đất nước được trường tồn, phát triển và đón thêm những mùa xuân tươi đẹp. Đồng thời, với nghệ thuật so sánh đất nước với những vì sao, tác giả đã nhấn mạnh, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống của đất nước đang không ngừng phát triển và đi lên.

Và để rồi, chúng ta nhận thấy trong lời thơ, trong từng câu chữ niềm vui hân hoan, niềm tự hào của tác giả trước mùa xuân của đất nước. Nếu như ba khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện xúc cảm của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước thì hai khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã dãi bày một cách trực tiếp những nghĩ suy và ước nguyện chân thành của mình.

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Có thể nói, ngay từ những dòng thơ đầu tiên của khổ thơ ta đã bắt gặp ước nguyện chân thành của nhà thơ. Với việc sử dụng điệp từ “ta” cùng việc sử dụng các động từ mạnh “làm”, “nhập” và các hình ảnh thơ đẹp, tràn đầy sức sống đã diễn tả ước nguyện của nhà thơ. Dường như, ở đây, người đọc đã thấy mất dần cái tôi cá nhân mà thay vào đó là cái ta chung của cộng đồng của dân tộc.

Nhà thơ muốn hòa mình vào cộng đồng, vào cái ta để làm một con chim, một cành hoa, một nốt trầm xao xuyến lặng lẽ góp sức mình làm nên mùa xuân đẹp tươi của thiên nhiên, của tạo vật của đất nước. Đồng thời, ước nguyện của nhà thơ còn được thể hiện rõ nét qua khổ thơ:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Ở khổ thơ này, tác giả đã sử dụng từ ngữ thật chính xác và tinh tế. “mùa xuân nho nhỏ” là một cách nói hình ảnh nhằm chỉ cuộc đời một con người. Và để rồi, từ đây chúng ta nhận ra nhà thơ luôn có ước nguyện hiến dâng cuộc đời mình, góp một phần bé nhỏ của mình làm đẹp cho quê hương, đất nước dù khi còn trẻ hay khi đã về già. Như vậy, có thể nói, ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ là một ước nguyện thật đẹp, thật đáng trân quý.

Và để rồi, khép lại bài thơ chính là khúc ca ân tình, là lời ngợi ca quê hương đất nước, ngợi ca xứ Huế thân thương với những làn điệu Nam ai, Nam bình đầy nghĩa tình.

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế

Tóm lại, bài thơ với việc sử dụng thể thơ năm chữ cùng các hình ảnh thơ tươi vui và các biện pháp tu từ đã diễn tả chân thực và sâu sắc lòng thiết tha yêu đời, yêu quê hương đất nước và ước nguyện chân thành, cao đẹp của nhà thơ Thanh Hải.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 11

Khi nàng xuân nhẹ lướt trở về, trên trái đất như phủ lên một sức sống rạo rực kỳ diệu; Hương xuân quyện vào thiên nhiên, sông núi đất trời, tình xuân thấm vào tâm hồn mỗi con người với bao niềm hạnh phúc. Cả mùa xuân bừng nở giữa khoảng không gian tươi xanh ấy. Một thoáng bâng khuâng, ta chợt nhận ra hình như hương xuân, sắc xuân, tình xuân và cả mùa xuân đang hòa và trong bản xô-nát mùa xuân của nhà thơ Thanh Hải: Mùa xuân nho nhỏ.

Đọc kỹ bài thơ, ngẫm nghĩ, ta sẽ nghe được nhịp đập rạo rực mùa xuân đầy sức sống. Qua đó, chúng ta càng hiểu bản hợp tấu kỳ diệu của mùa xuân, của tâm hồn, của cuộc sống … Mùa xuân nho nhỏ – Tên của bài thơ đã tạo cho người đọc một cảm giác dễ chịu thoải mái. Mùa xuân nho nhỏ. Vâng mùa xuân của Thanh Hải thật đơn sơ và giản dị ở mức “nho nhỏ” mà thôi. Mở đầu, tác giả viết:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc …

Tôi đưa tay tôi hứng …

Một bức tranh xuân thật đơn sơ và giản dị! Tác giả đã lựa chọn những gam màu thật dịu, thật tươi để phác họa bức tranh xuân của mình, “dòng sông xanh – Hoa tím biếc”. Vài nét lướt nhẹ nhàng, nhưng tác giả đã cho người đọc thưởng thức mùa xuân đầy sức sống, trẻ trung, tươi và xanh. Mùa xuân của dòng sông, của bông hoa hay của đất trời quê hương xứ Huế? Những mảng màu sắc hình ảnh giản dị mộc mạc nhưng hài hòa và nên thơ.

Đoạn thơ gây ấn tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. Như con tằm, tác giả đã rút những sợi tơ của lòng mình dệt nên bài thơ về quê hương bằng tất cả tình yêu của trái tim mình. Câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng mà duyên dáng, say sưa. Tiếng chim chiền chiện vút cao phải chăng là nốt thăng rộn ràng, tươi vui của bản nhạc mùa xuân. Tiếng chim ngân vang, kéo dài một âm sắc thánh thót, tiếng chim ấy như lan tỏa, hòa quyền vào bầu trời xuân ấy.

Giữa bức tranh xuân đầy mắc sắc, Thanh Hải như đón nhận, như lắng nghe âm thanh của sự sống, của thiên nhiên đang trào dâng, ngân nga. Từng giọt long lanh rơi “giọt sương ban mai” – Hay giọt âm thanh? “Giọt long lanh rơi” – Giọt tình yêu hay hạnh phúc? Ồ phải rồi, đó là giọt mùa xuân êm đềm, thiết tha, giọt mùa xuân tiếng chim, của giọt sương hanh phúc được Thanh Hải trân trọng, nâng niu – áp vào trái tim mình.

Mùa xuân, mùa xuân trong Thanh Hải là bức tranh đơn sơ mộc mạc nhưng đầy màu sắc. Cả tiếng chim chiền chiện vút cao, là giọt sương ban mai – mùa xuân là tất cả. Trong bản xô-nát của Thanh Hải, ta còn bắt gặp một mùa xuân trẻ trung, xôn xao đầy sức sống, đó là mùa xuân của “người cầm súng” của “người ra đồng”.

Mùa xuân người cầm súng
…Tất cả như xôn xao

Các thế hệ trước đã ngã xuống để bảo vệ mầm hạnh phúc của dân tộc; và giờ đây, mầm hạnh phúc ấy đã bừng nở thành hoa hạnh phúc – bừng nở thành niềm tin và hy vọng. Mùa xuân “người cầm súng”, với trách nhiệm tiếp nối cha anh bảo vệ đất nước bảo vệ mùa xuân của dân tộc.

Hình ảnh người ra đồng, là người tô điểm cho mùa xuân là họa sĩ vẽ những mảng xanh lên mùa xuân; và tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao – sức xuân đang tưng bừng lên. Với nhịp độ khẩn trương, dồn dập tưng bừng hoạt động trên quê hương, đất nước sau ngày giải phóng.

Hình ảnh thơ giúp ta hiểu được, trên mảnh đất vừa thoát khỏi đau thương, tất cả như rạo rực, như đang nảy nở, sinh sôi trong cái men say của mùa xuân trong cuộc sống hòa bình. “Hối há”, “xôn xao” hai từu láy vừa gợi âm, gợi hình, gợi cảm xúc và gợi cả suy tư. Ôi! Một thanh âm từ rất xa vẳng lại, nhanh nhiều, thanh âm “xôn xao” của mùa xuân, của đất trời Việt Nam quê hương ta đấy.

Câu thơ nhịp nhàng với những vần bằng tha thiết, vần trắc khỏe mạnh, bỗng trầm hẳn, lặng đi trong thoáng suy tưởng của nhà thơ.

“Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Tương lai Tổ quốc hiện lên rực rỡ huy hoàng, nhưng Thanh Hải lại nhớ về lịch sử dân tộc – nhớ về quá khứ bốn nghìn năm oai hùng “Vất vả và thương đau”. Qua đó, ta càng hiểu thêm về Thanh Hải – một tâm hồn nồng nhiệt, gắn bó với mùa xuân với đất nước và sự hi vọng. “Đát nước như vì sao” của tác giả về một ngày mai đẹp đẽ thật đáng quý, đáng yêu!

Say sưa trong khúc nhạc mùa xuân, tơ lòng tác giả cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc đoạn thơ cuối, ta cảm nhận được ý nguyện của tác giả: muốn cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng, cho Tổ quốc “bay lên bát ngát mùa xuân”

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Điệp từ “Ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết chân thành càng làm ta xúc động bởi thái độ sống của nhà thơ. Sống phải làm nên “cái gì đó” cho đời, dù rất nhỏ… Bản hòa ca mùa xuân ngân lên với những nốt thăng rộn rã, tươi vui và với bè trầm tĩnh lặng, du dương. Nhà thơ lặng lẽ “nhập vào hòa ca” nhập vào bản xô-nát cuộc đời một chút xíu gì lặng lẽ, một chút xíu gì dễ thương làm sao.

Nốt trầm xao xuyến, một nốt trầm lặng lẽ đơn sơ nhưng không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Nốt nhạc trầm ngân nga lặng lẽ sau âm hưởng cao nhưng thường để lại trong lòng người ẩn tượng xao xuyến, bâng khuâng, sâu lắng, suy tư.

Xuân về đúng vào thời gian mà nhà thơ trọng bệnh, nhưng sức sống mãnh liệt đến diệu kì của mùa xuân đã bừng nở trong tâm hồn nhà thơ. Sức trẻ thôi thúc, rộn rã cùng nhịp đập trái tim nằm trên giường bệnh, nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thiết tha, tràn đầy tình yêu thương lạc quan và hi vọng:

Một mùa xuân nho nhỏ …
Lặng lẽ dâng cho đời …
Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Âm điệu thơ lắng dần ở khổ thứ tư, rồi chìm hẳn ở các khổ sau. Đọc thơ, ta như nghe được tiếng thì thầm, miên man của mùa xuân, của lòng người. Một lần nữa, tác giả lại nhắc tên bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Một tiếng chim một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến tạo nên một mùa xuân nho nhỏ. Nếu mỗi con người là “mùa xuân nho nhỏ” thì đất nước sẽ là cả một mùa xuân vĩnh viễn với bầu trời đầy chim, đất đầy hoa và lòng người đầy tiếng hát.

Ước muốn tha thiết của Thanh Hải là được cống hiến cho cuộc đời tất cả tuổi thanh xuân, tất cả cuộc sống của mình. Ông nguyện hát cho đất nước cho quê hương bản Nam Ai Nam Bình ; bản xô-nát của mùa xuân, bản xô-nát của lòng người cùng hòa âm thành bản hòa ca bất tử của dân tộc.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh thiên nhiên đơn sơ mộc mạc một bản nhạc dịu dàng tha thiết. Một tâm hồn chân thành tự nguyện. Mùa xuân nho nhỏ – Đi giữa bầu trơi xuân – hình như tôi nghe đâu đây hi vọng về bản hòa ca mùa xuân bất tử.

Bài văn phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải số 12

Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là kết tinh nghệ thuật trong đời thơ của ông. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với đất nước, với cuộc đời và nguyện ước chân thành của tác giả muốn được cống hiện cho đời, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Ngay từ nhan đề tác phẩm đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Thanh Hải đồng thời cũng bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Danh từ mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, không đong đếm, đo lường được nhưng dưới con mắt của thi nhân với trường liên tưởng độc đáo kết hợp với từ nho nhỏ đã khiến cho một khái niệm vốn trừu tượng trở nên hữu hình.

Đồng thời hình ảnh ẩn dụ này còn tượng trưng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Qua đó tác giả bộc lộ quan điểm, sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng. Ngoài ra, nhan đề còn thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả: muốn làm một mùa xuân nho nhỏ, nghĩa là muốn sống một cuộc đời tươi đẹp, có ý nghĩa và giúp ích cho đời, cho đất nước.

Cách đặt nhan đề đã làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Khổ thơ đầu mở ra khung cảnh mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đặc trưng nhất của không gian xứ Huế mơ mộng:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Không gian mùa xuân cao rộng, bao la của dòng sông – mặt đất – bầu trời gợi ra trước mắt người đọc, không gian ấy cho thấy sự thanh bình, yên ả. Cùng với đó là sự phối hợp hài hòa của sắc màu thiên nhiên: màu xanh mênh mông của dòng sông làm nền cho màu hoa tím biếc thơ mộng – một sắc màu tươi sáng, dịu dàng rất đặc trưng của xứ Huế.

Thanh Hải cũng thật tinh tế và tài tình khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu, việc đảo trật tự như vậy càng nhấn mạnh vào sự xuất hiện của những bông hoa trên nền xanh biếc của dòng sông và bầu trời, khiến bông hoa trở nên đẹp đẽ hơn. Hòa trong không gian ấy là tiếng chim chiền chiện náo nức, vui tươi hót vang trời. Cả không gian ngập tràn sức sống.

Đứng trước vẻ đẹp mùa xuân tác giả không thể kìm nén cảm xúc của bản thân mà cất lên tiếng gọi đầy tha thiết: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Chỉ một chữ “ơi” thôi đã cho thấy niềm xúc động, vui sướng mãnh liệt của nhà thơ trước thiên nhiên vạn vật, bởi vậy, ngay lúc đó đã diễn ra một cuộc trò chuyện thật gần gũi và thân mật giữa con người và thiên nhiên.

Cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở đó, sự say sưa, yêu mến còn được thể hiện trong động tác đầy trân trọng, nâng niu: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt” là hình ảnh đa nghĩa, ta có thể hiểu đó là giọt mưa xuân, cũng có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Câu thơ mang đến những hình ảnh mới lạ, đầy tính tạo hình. Có thể thấy rằng chỉ bằng vài nét phác họa rất đơn sơ nhưng Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy mơ mộng, tươi đẹp và tràn đầy nhựa sống.

Từ mùa xuân của thiên nhiên tác giả dâng trào của xúc trước của xuân của đất nước. Hai câu thơ đầu tạo ra những hình ảnh sóng đôi đặc sắc: “người cầm súng” “người ra đồng” tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước. Cùng với đó là hình ảnh “lộc”, mỗi chữ “lộc” lại mang những ý nghĩa khác nhau. “Lộc giắt đầy trên lưng” trước hết mang ý nghĩa tả thực là chồi non, ngoài ra còn biểu tượng cho sức sống mùa xuân, cho những thành quả tốt đẹp.

Cũng bởi vậy, khi những người chiến sĩ khi ra trận khoác trên mình chiếc lá ngụy trang như mang sức sống của toàn dân tộc trên vai với một niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai chiến thắng của toàn dân tộc. Hình ảnh “lộc” phía sau lại tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, được mùa dưới bàn tay của những người nông dân. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy khí thế, nghị lực của con người trên mặt trận bảo vệ tổ quốc và xây dựng của cuộc sống mới.

Hai câu thơ cuối diễn tả cái náo nức, xôn xao của con người. Ấy là không khí lên đường nhộn nhịp, khẩn trương, liên tục không ngừng cùng với đó là tâm trạng háo hức, hăng say. Cả khổ thơ dạt dào niềm vui, như lời cổ vũ, động viên con người lên đường, hòa vào nhịp chung của dân tộc.

Sang đến khổ thơ thứ ba, ta không còn thấy niềm vui trước mùa xuân dân tộc mà thay vào đó là những cảm nhận, suy tư của tác giả về lịch sử đất nước mình. “Đất nước bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao” cho thấy những thử thách, khó khăn mà dân tộc ta phải trải qua trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Thế nhưng trước những khó khăn chồng chất ấy ta vẫn “đi lên” một cách bản lĩnh, kiên cường. “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” là hình ảnh so sánh đẹp đẽ đem đến cho người đọc những ý nghĩa khác nhau. Câu thơ là lời khẳng định về sự trường tồn mãi mãi của dân tộc ta trước mọi khó khăn, thử thách. Ở câu thơ tiếp, ba chữ “cứ đi lên” như một lời khẳng định chắc nịch về tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Khổ thơ bộc lộ niềm tự hào, tin tưởng vào sự bền bỉ của đất nước và khí thế đi lên của dân tộc.

Những khổ thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà thơ cho cuộc đời. Tác phẩm ra đời trước lúc tác giả mất không lâu, khiến ta càng thêm trân trọng những nguyện ước giản dị mà đẹp đẽ của ông. Tác giả ước làm con chim để đem niềm vui cho cuộc đời, làm cành hoa đem hương sắc cho cuộc sống.

Đáng quý hơn, ông nguyện làm một nốt trầm trong bản hòa ca. Nốt trầm xao xuyến ấy làm xúc động, gây ám ảnh trong lòng người. Trong khổ thơ có sự chuyển đổi từ “tôi” sang “ta” – đại từ vừa diễn tả số ít, vừa diễn tả số nhiều giúp tác giả vừa thể hiện cái riêng nhưng đồng thời cũng thể hiện cái chung. Qua sự biến đổi đại từ ấy cho thấy đây không chỉ là khát vọng riêng của tác giả mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người.

Ước nguyện cống hiến tha thiết, chân thành càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời” cho thấy thái độ sống, cống hiến lặng lẽ, khiêm nhường nhưng lại vô cùng mãnh liệt, bền bỉ. Đây là cách sống cao đẹp, chân thành mà vô cùng dung dị. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc” nói lên sự thống nhất trong quá trình cống hiến của nhà thơ: dù là khi còn trẻ, tràn đầy nhựa sống hay khi tóc đã bạc thì trách nhiệm ấy vẫn không hề thay đổi.

Khổ thơ cuối cùng bộc lộ niềm tự hào, yêu mến đất nước của tác giả qua làn điệu dân ca xứ Huế. Bài thơ kết lại bằng làn điệu dân ca xứ Huế thiết tha cho thấy tấm lòng của tác giả trước quê hương, đất nước. Để tạo nên thành công của tác phẩm, Thanh Hải đã vận dụng tài tình thể thơ năm chữ, giàu nhạc điệu.

Kết hợp với cách gieo vần linh hoạt, gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo nên sự liền mạch cảm xúc cho tác phẩm. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tự nhiên, giản dị, trong sáng mà cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Cảm xúc, giọng điệu nhà thơ chân thành, tha thiết.

Bài thơ đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân đất nước tươi sáng, tràn đầy nhựa sống bằng giọng văn tha thiết, đầy tự hào. Nhưng đằng sau những câu thơ ấy còn cho thấy lẽ sống đẹp đẽ, cao cả của nhà thơ: nguyện cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, quê hương. Tấm lòng, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Với thể thơ năm chữ, nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca cùng với những hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm,… thi phẩm đã thực sự để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Qua bài thơ, ta càng ý thức được khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ ngày nay đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.