Top 10 Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lớp 9 hay nhất

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay viết về người chiến sĩ. Đoạn kết của bài thơ thực đẹp, nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” chính là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí hết sức thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nhất về tư thế chủ động, về tinh thần lạc quan tin tưởng vào chiến thắng, vào một tương lai tươi sáng của đất nước. Cao hơn nữa, đó còn là hình ảnh biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thủa và đó cũng là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay: đoàn kết, dũng cảm, có tinh thần sống lạc quan vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 1

Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết Chú cuội cung trăng hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập Đầu súng trăng treo. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.

Đầu súng trăng treo – đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút rừng hoang sương muối giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hòa quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ…

Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng tỏa ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân nước mặn đồng chua, hay đất cày trên sỏi đá cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cùng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng.

Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cùng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.

Đầu súng trăng treo – hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu – trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc; súng là con người – trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến; súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường – trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hòa tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lý tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng khát vọng hòa bình, nó tượng trưng cho tư thế lạc quan, bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.

Cái thần của câu thơ Đầu súng trăng treo nằm ở từ treo, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ lên cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng treo. Phải, chỉ có Đầu súng trăng treo mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng đứng chờ giặc tới, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là rừng hoang sương muối lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút.

Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan, và Phạm Tiến Duật thì Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa, hay Hoàng Hữu Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa – Ai bỏ quên ở phía chân trời…

Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh Đầu súng trăng treo làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát ly, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam và hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 2

Chính Hữu đã tạo nên hình ảnh người lính trong chiến tranh thật đẹp, thật đáng khâm phục qua bài thơ Đồng Chí. Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ bởi tinh thần của người chiến sĩ mà còn bởi hình ảnh đầy chất thơ: Đầu súng trăng treo.

Với cảnh rừng núi hoang vu, rừng thiêng nước độc, bom đạn ác liệt, người lính càng gắn bó với nhau hơn, để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Đêm lạnh và hoang vu, nhưng người lính vẫn luôn đứng gác, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Nhà thơ đã có cái cảm nhận thật mới mẻ và tinh tế khi kết hợp hai hình ảnh, súng và trăng. Đó là chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn, trái ngược nhau nhưng chúng bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường đã không ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Chính cái tinh thần đồng đội thiêng liêng và lý tưởng chiến đấu cao thượng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đứng giữa cái giá lạnh của núi rừng để chờ giặc, khi trăng đã ngang đầu súng. Người chiến sĩ đã không cảm thấy buồn chán mà trong tâm hồn họ lại khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Người chiến sĩ luôn trong tư thế chiến đấu, súng lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng, hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo.

Hình ảnh đầu súng trăng treo, vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang chất lãng mạn bay bổng. Hai hình ảnh này có sự trái ngược nhau, súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, súng là sự chết chóc là sự tàn khốc, còn trăng tượng trưng cho cái đẹp của cuộc sống yên bình. Muốn tận hưởng cuộc sống yên bình ấy thì phải cầm súng để dành lại.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo đã mang một thi vị lãng mạn cho bài thơ, nó thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm chiến đấu và tình đoàn kết của các chiến sĩ. Bài thơ trở thành động lực tạo nên sức mạnh cho thế hệ trẻ Việt Nam trong việc đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 3

Đồng chí của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua hơn năm mươi năm, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều lớp người cầm súng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ và tuyệt vời thi vị:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường như không còn gây được ấn tượng đe dọa đối với con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã ngang đầu súng. Và lạ lùng thay, người chiến sĩ như có một khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Anh bộ đội hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Cảnh ấy có thể có thật song có thể chỉ là sự liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. (Mũi súng chờ giặc – chất hiện thực quyết liệt; trăng – chất thơ bay bồng). Giữa hai hình ảnh tương phản súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cái đẹp yên lành ấy.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, của người chiến sĩ. Cao hơn nữa, hình ảnh ấy là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 4

Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thờ kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trắng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.

Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy. Giữa rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.

Giữa đếm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.

Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đảm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.

Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và ‘súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.

Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.

Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.

Bởi vậy mới có thể thấy rằng ‘đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất. Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 5

Sau tác phẩm Ngày về, Chính Hữu tiếp tục sở trường viết về người lính trong kháng chiến, đó cũng là đề tài rất mới mẻ của văn học Cách mạng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Bài thơ, tác giả không dùng nhiều nghệ thuật, ngôn ngữ giản dị như những người dân mặc áo lính nhưng những hình ảnh thơ đẹp là điều bất cứ một người đọc nào cũng nhận thấy trong bài thơ của ông. Đặc biệt là hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”.

Cả bài thơ được sáng tác với bút pháp hiện thực, hình ảnh những anh lính cụ Hồ thực, những gian khổ trong chiến tranh thực, tình cảm đồng chí đồng đội thực và những đêm phục kích chờ giặc tới cũng là thực:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Những người lính được giới thiệu trong bài thơ là những người gắn bó với ruộng nương, với “ gian nhà không”, nhưng họ “mặc kệ” như một lẽ quyết tâm sẵn sang rời bỏ tất cả để đi dẹp giặc. Người lính khi ra trận, họ hiểu nhau đến từng khúc ruột, họ chia sẻ tất cả những khó khăn “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Họ chiến đấu bên cạnh nhau với tình cảm thiết tha mặn nồng nhất, cái “nắm tay” đến đúng lúc đủ để họ xóa đi hết những gian khổ:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày.

Tất cả những lý do đó đủ để Chính Hữu kết thúc bài thơ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa biểu tượng của người lính. Họ phục kích trong những đêm “sương muối” độc và lạnh, nó độc và lạnh hơn khi “áo rách”, “chân không giày”, nhưng hơi ấm từ tình đồng đội đã sưởi ấm chính bản thân người lính. Tâm thế sẵn sang “chờ giặc tới” là do “đứng cạnh bên nhau”, gắn bó khăng khít, chia sẻ những cực nhọc trong chiến trường. Những câu thơ không cho thấy khói bụi chiến tranh nhưng lại cho ta thấy sự khốc liệt do cảnh khắc nghiệt mà hoàn cảnh đem lại.

Sau những câu thơ dài như tự sự ấy, câu kết bài thơ “Đầu súng trăng treo” chỉ có bốn tiếng làm cho nhịp thơ đang dàn trải bỗng thay đổi đột ngột, dồn nén, chắc gọn, gây được sự chú ý cao nơi người đọc. Từ “ treo” tạo nên quan hệ bất ngờ nối liền mặt đất với không gian bát ngát. Đó có lẽ là chất thơ bay bổng nhất trong bài thơ. Có người đã liên tưởng “trăng” tượng trưng cho sự yên bình, chất nghệ sĩ, thi sĩ. “súng” tượng trung cho sự chiến đấu, khốc liệt và hiện thực chiến tranh, bởi vậy biểu tượng của người lính là chiến đấu cho cuộc sống hòa bình. Nhưng Chính Hữu có lần tâm sự: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích trong đêm, trước mắt tôi có ba nhận vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật ấy hòa quyện với nhau tạo ra hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.

Như vậy chúng ta cần hiểu biểu tượng mà Chính Hữu xây dựng được vút lên từ chất thơ bay bổng trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt. Suốt đêm vầng trăng từ trên trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo ngay trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích như vậy trăng với người lính giống như bạn hữu. Vậy, biểu tượng của người lính trong bài thơ chưa hẳn là sự chiến đấu mà chính là tình cảm của những người đồng tình, đồng lý tưởng…

“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, xứng đáng để khép lại một tác phẩm thơ thành công của Chính Hữu.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 6

Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, văn học cũng có những bước chuyển mình và phát triển song song cùng với dòng chảy của lịch sử ấy. Văn học qua từng thời kì đều có những khuynh hướng phát triển riêng, nhưng về cơ bản có hai khuynh hướng chính chi phối nền văn học Việt Nam thời kì trung đại và cận hiện đại, đó chính là khuynh hướng yêu nước và khuynh hướng nhân đạo. Hai khuynh hướng này luôn có sự song song phát triển và tồn tại nhưng mỗi khi đất nước có chiến tranh thì khuynh hướng yêu nước lại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nội dung chủ yếu của khuynh hướng này chính là tình yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam. Vào cuộc kháng chiến chống pháp cứu nước đã có rất nhiều các tác phẩm thơ văn nói về tình yêu nước, tinh thần chiến đấu và một nội dung mới đó chính là tình đồng đội, đồng chí. Bài thơ tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến, đó chính là bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.

Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu sáng tác vào tháng hai năm 1948, đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn dữ dội và ác liệt. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn nhằm tấn công và tiêu diệt chiến khu Việt Bắc, cơ quan đầu não cách mạng và buộc quân ta đầu hàng, hoàn thành công cuộc chiếm đóng ở Việt Nam. Khi ấy quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng dữ dội, dù có những đau thương mất mát nhưng người Việt Nam kiên quyết bảo vệ từng tấc đất, đấu tranh đánh bại âm mưu tham độc của kẻ thù. Đồng chí được Chính Hữu sáng tác trong một cuộc hành quân ở khu vực rừng núi phía Bắc.

Bài thơ nói về tình đồng đội đồng chí gắn bó, sẻ chia với nhau từng miếng sắn, mảnh chăn, chia sẻ với nhau cả những tâm nguyện đầy chân thành, cảm động. Và bài thơ đặc biệt nhất ở chi tiết cuối bài thơ, câu thơ “Đầu súng trăng treo” mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, độc đáo. Và cũng chính câu thơ góp phần làm nên những giá trị của bài thơ “Đồng chí”. Trước hết, để hiểu được ý nghĩa của câu thơ cuối bài thì ta cần hiểu hơn về nội dung của bài thơ cũng như nội dung chủ đạo của bài thơ là tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Có như vậy thì ta mới có thể hiểu trọn vẹn được ý nghĩa đẹp mà câu thơ cuối mang lại.

Nói về tình đồng đội, đồng chí, ngay phần mở đầu của bài thơ, nhà thơ Chính Hữu đã trực tiếp gợi mở những ấn tượng đầu tiên về bức tranh của tình đồng chí. Đó là bức tranh được vẽ lên bởi những nét tương đồng trong lí tưởng cao đẹp của họ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Như vậy, trong ấn tượng đầu tiên thì những người lính vốn không hề quen biết, cũng không hề có một mối liên hệ đặc biệt nào, họ đến từ những vùng quê khác nháu của tổ quốc, và nét tương đồng trong hoàn cảnh sống, đó là quê hương họ đều nghèo khó “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”, từ hoàn cảnh sống có phần khó khăn, họ có cùng một lí tưởng đó là cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước, làng bản, bảo vệ chính cuộc sống của mình. Vì vậy mà họ từ những người vốn chẳng quen biết mà gặp nhau và trở thành những người đồng đội. Khi đó, lí tưởng chiến đấu khiến họ trở thành những người đồng đội, nhưng quá trình cùng chia sẻ những điều kiện sinh hoạt, chiến đấu đầy khó khăn, ác liệt khiến mối quan hệ đồng đội thắt chặt trở thành tình đồng chí:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

Xác định vào chiến trường là những người lính xác định dâng hiến hết mình cho nền độc lập, hòa bình của tổ quốc, thậm chí họ đánh đổi cả mạng sống của mình cho nền tự do, độc lập ấy. Họ luôn mang trong mình lí tưởng cao đẹp: sống, chiến đấu, hi sinh:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Vậy là những người lính một khi ra đi là họ quyết dâng hiến tất cả cho Tổ quốc thân yêu, họ mang trong mình tinh thần của những bậc chinh phu nghĩa sĩ xưa, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Những từ ngữ như “gửi”, “mặc kệ” nghe qua dường như là sự vô tư, bất cần, tinh thần xả thân vô tư của những người lính. Nhưng thực sự liệu có phải chỉ có như vậy không? Những người lính họ yêu đất nước nhưng họ cũng yêu gia đình, làng quê, xứ sở của mình. Đối với nơi mình yêu thương, gắn bó đâu có phải nói đi là không có chút lưu luyến gì.

Nhưng họ càng yêu quê hương, càng gắn bó với nó thì họ lại càng quyết tâm chiến đấu. Những lời tâm sự của những người lính với nhau là những lời dặn dò, là những trách nhiệm họ muốn những người đồng đội thực hiện thay mình, vì họ lường hết được cái ác liệt của chiến tranh, sự sống trong không gian mưa bom bão đạn ấy cũng hết sức mỏng manh.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Những câu thơ cuối thật đẹp, đẹp bởi hình ảnh hiên ngang, bất khuất của những người lính trong không gian đầy khắc nghiệt của núi rừng. Hoàn cảnh chiến đấu nơi thâm sơn cùng cốc vốn đầy khắc nghiệt, hiểm nguy, trong không gian đêm khuya, sương muối dày đặc lạnh cắt da cắt thịt nhưng những người lính vẫn đứng bên nhau. Họ thức làm nhiệm vụ, họ chờ giặc tới, để giành được thắng lợi cuối cùng thì không có một phút giây nào được lơ là mất cảnh giác, kể cả đêm khuya, thời tiết khắc nghiệt cũng không làm bước chân của họ lùi bước, không làm cho ý chí của họ bị lay chuyển, ảnh hưởng.

Hình ảnh cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo” được coi là hình ảnh đẹp, ý nghĩa nhất của bài thơ. Câu thơ tuy chỉ có bốn chữ nhưng lại gợi cho chúng ta rất nhiều những liên tưởng độc đáo. Trước tiên, ta có thể hiểu là súng là những thứ vũ khí mà những người lính luôn mang theo bên người. Vì vậy mà khi người lính đứng gác đêm thì ngọn súng cũng trở thành những người bạn đồng hành trong cuộc chiến đấu ấy. Và dưới ánh trăng thì hình ảnh ngọn súng dường như đón nhận mọi ánh sáng của mặt trăng, nhìn từ xa thì mặt trăng như treo ở trên ngọn súng. Tuy nhiên đó chỉ là cách cảm nhận trực tiếp, theo tôi còn có một cách hiểu mang nhiều ý nghĩa hơn.

Ngọn súng là vũ khí của những người lính nhưng nó cũng là biểu tượng của chiến tranh, của sự hủy diệt bạo tàn. Còn ánh trăng lại thuộc về tự nhiên, nó biểu tượng cho cái đẹp, cho nền hòa bình mà người Việt Nam vẫn ngày đêm đấu tranh bảo vệ. Sự giao thoa giữa ngọn súng và vầng trăng như thể hiện được khát vọng hòa bình, khát vọng về một cuộc sống bình yên, không tiếng súng, không chiến tranh, không có sự hủy diệt. Đó là một đời sống lí tưởng mà những người lính hướng tới.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 7

Trong thời kỳ kháng chiến của Việt Nam xuất hiện biết bao nhà thơ kháng chiến. Có lẽ chính họ đang sống trong cái thời kỳ chiến tranh kịch liệt, đứng giữa sự sống và cái chết. Chứng kiến những cuộc sống gian khổ, tâm hồn thi sĩ của họ đã thốt lên thành những câu thơ, bài hát. Và điển hình trong những nhà thơ cách mạng đó chính là Chính Hữu.

Nói đến ông là người ta sẽ nhớ đến ngay bài thơ “Đồng Chí”. Một bài thơ tạo bởi những nét bút chân thực, dữ dội nhưng trong đó là những sự lãng mạn. Hình ảnh người lính đã được khắc họa vô cùng đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu. Một câu thơ phải nói là hay nhất và ẩn chứa trong đó nhiều điều nhất.

Cả bài thơ Đồng Chí khi chúng ta đọc lên, chúng ta sẽ thấy được hình ảnh những người lính cụ Hồ vượt qua gian khó, hiên ngang, bất khuất. Họ đã phải hứng chịu mọi gian khổ sống trong rừng hoang, lạnh tê người bởi những làn sương muối lạnh. Nhưng trong cái gian khổ đó, họ ủ ấm tình yêu thương đoàn kết bên nhau. Đứng cạnh bên nhau canh gác chờ đợi kẻ thù đến.

Và trong cái khung cảnh “rừng hoang sương muối lạnh đó” họ dường như vẫn thức tỉnh được tâm hồn lãng mạn của mình. Trong cái ánh “trăng treo” ngay ở phía trên đầu họ tưởng như treo trên “đầu súng”.

Một hình ảnh tuyệt đẹp, tạo nên một nét chấm phá trong một không gian hoang sơ và lạnh lẽo. Nếu như hai câu thơ trên thể hiện sự khắc nghiệt của thời tiết. Và người lính vẫn bất chấp những khắc nghiệt bủa vây quanh mình. Vẫn hiên ngang không hề sợ hãi “chờ giặc tới” với tâm thế luôn sẵn sàng khiến người đọc phải thực sự ngưỡng mộ. Thì câu cuối của khổ thơ “đầu súng trăng treo” khiến chúng ta phải ngưỡng mộ họ hơn. Khi mà trong cái hoàn cảnh khó khăn đó vẫn toát lên được một vẻ đẹp tâm hồn của họ, đó là sự yêu đời, sự lạc quan.

“Súng” và “trăng” hai hình ảnh này thực sự là khác nhau. “Súng” đại điện cho đấu tranh, và tượng trưng cho điều gì đó mạnh mẽ. “Trăng” là đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên, sự mềm mại của cuộc sống, với những khát vọng. Phải chăng nhà thơ đang muốn hòa quyện hai hình ảnh này. Ông muốn nói đến việc những người lính đã phải đang dùng đến sức mạnh của “súng” để có thể có được những khát vọng hòa bình dưới “ánh trăng”.

Cái lãng mạn trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt đã thực sự quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa núi rừng hoang sương muối lạnh. Một chất liệu lãng mạn trong sự khắc nghiệt đã làm nổi bật lên cho toàn bài thơ. Những người lính Việt Nam dù tuổi đời còn trẻ, nhưng họ luôn sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Cho dù họ có thể phải hi sinh thân mình. Nhưng họ hiểu “không có tự do” thì “không có gì cả”. Không có “đất nước” thì coi như họ “đã chết”. Chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ và trách nhiệm của họ.

Hình ảnh người lính thức đêm canh gác biên cươngThế nên dù có khó khăn gian khổ thế nào tâm thế của họ vẫn thể hiện hiên ngang, vẫn lạc quan, vẫn có sự lãng mạn bay bổng. Ngắm lên trời cao trong một tiết trời giá lạnh, rừng hoang âm u. Thấy được ánh trăng đẹp có khác gì trăng đang treo trên “đầu súng” với mũi súng hướng lên trời cao.

Một bức tranh đối lập nhưng đã được nhà thơ Chính Hữu thể hiện một cách tinh tế tạo nên một sự hài hòa đặc sắc. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” như là một sự lan tỏa dịu nhẹ cho toàn bài thơ. Nó cũng như một sự an ủi cho tâm hồn của những người lính trẻ. Những người đọc cũng cảm thấy có một thứ gì đó thật trong sáng. Thật lãng mạn trong tâm hồn người lính, cảm thấy được tình yêu đời của họ, những khát khao của họ về một cuộc sống yên bình.

Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong một câu thơ đã để lại bao nhiêu cảm xúc trong lòng người đọc. Một câu thơ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ những người lính Việt Nam kiên cường bất khuất.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 8

Đồng chí của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua hơn năm mươi năm, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều lớp người cầm súng chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ và tuyệt vời thi vị:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá dường như không còn gây được ấn tượng đe dọa đối với con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng.

Đêm khuya chờ giặc, trăng đã ngang đầu súng. Và lạ lùng thay, người chiến sĩ như có một khám phá bất chợt, thú vị: đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.

Anh bộ đội hướng mũi súng về phía giặc, tình cờ phía ấy là hướng trăng lặn. Đêm khuya về sáng, trăng đang xuống thấp dần và ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Cảnh ấy có thể có thật song có thể chỉ là sự liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. (Mũi súng chờ giặc – chất hiện thực quyết liệt; trăng – chất thơ bay bồng). Giữa hai hình ảnh tương phản súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cái đẹp yên lành ấy.

Hình ảnh Đầu súng trăng treo là biểu tượng cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Nó thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, của người chiến sĩ. Cao hơn nữa, hình ảnh ấy là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 9

Nhà thơ Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến. Ông thường viết về những cuộc chiến tranh đầy nét chân thực, dữ dội mà không kém phần lãng mạn trong những vần thơ. “Đồng Chí” là một trong những bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ được miêu tả một cách tiêu qua qua những hình ảnh người lính được khắc hoạ đậm nét và đầy ấn tượng và sự khốc liệt của chiến tranh nhưng thơ ông vẫn giữ được sự mềm mại và trữ tình.

Bài thơ “Đồng Chí” được bao trùm lên bởi hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn thế nhưng vẫn không thể đánh gục ý chí và tinh thần của những con người vì nước vì dân như vậy. Giữ rừng hoang vu sương muối bao quanh lấy. Hình ảnh “đầu súng trăng treo”như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba duy nhất chỉ có ánh trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này. Giữa đêm đông lạnh giá, sương muối bao chùm vây quanh khiến cho người lính rét run người. Dù có khắc nghiệt, khó khăn vây quanh mình nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn”đứng bên nhau” để chờ”giặc tới” tư thế và tâm thế của họ luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta càng khâm phục và ngưỡng mộ.

Không phải vô tình mà ba câu thơ này lại được sáng tác thành một khổ riêng mà đó có lẽ là dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và cảnh chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.

Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “súng” và “trăng”tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn chữ tình cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ chính hữu nó lại trở nên mềm mại. Súng biểu tượng cho người chiến sĩ, trăng biểu tượng cho người thi sĩ. Trăng và súng không đối lập với nhau mà hoà quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữ rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.

Ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng xa quê hương xa những người thân để đi chiến đấu chính vì vậy những nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua ánh trăng, những hình ảnh đó đã tạo nên sự gần gũi, hình ảnh quen thuộc trong mọi cách nghĩ và hình dung ra những hình ảnh mang ý nghĩa đặc biệt hơn. Hàng loạt các chi tiết đã mang lại ký ức đẹp và nó trở nên quen thuộc và gần gũi với con người hơn.

Ánh trăng đã trở nên quen thuộc và gắn bó trong từng kỉ niệm và các khoảnh khắc của tác giả, nó đã mang trong chúng ta những điều gần gũi khi hình ảnh “đầu súng trăng treo” luôn trở thành một đề tài nổi bật của tác giả. Những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến con người, đã cho người chiến sĩ những kỉ niệm sâu sắc vô cùng.

Những người lính họ có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng luôn ấm ủ trong mình những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay là bóng dáng một người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nhiệt nhưng không để nó làm trái tim của những người lính bị chai lì mới thực sự là điều đáng quý. Bởi vậy, có thể thấy rằng hình ảnh “đầu súng trăng treo” dường như lan toả thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng lan vào lòng những người lính mát dịu và trong lành nhất.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng luôn hướng lên trời mà tưởng chừng có thể chạm đến trăng. Một nét điểm xuyết tạo nên một bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hoà và tinh tế. Nhà thơ chính hữu đã thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo” đi sâu vào tâm trí người đọc.

Bài văn phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” số 10

Chính Hữu là một nhà thơ cách mạng, ông trưởng thành trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Những tác phẩm của ông đều để lại sự mộc mạc giản dị, nhưng không kém phần lãng mạn, tinh tế.

Bài thơ “Đồng chí” được tác giả Chính Hữu viết trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ xâm lược. Thể hiện sự bi tráng, anh hùng của người lính, của chiến sĩ bộ đội cụ Hồ dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, nhưng không kém phần lãng mạn, thi vị trong cuộc sống, trong hoài bão lý tưởng.

Đề tài người lính không phải đề tài mới mẻ nhưng với tác giả Chính Hữu hình ảnh người lính được khắc họa khá chân thực, ấn tượng thể hiện sự tà khốc của chiến tranh, của đạn bom. Nhưng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” lại là một hình ảnh vô cùng lãng mạn, thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng hình tượng thơ.

Bao trùm lên toàn bài thơ là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, kiên trung, hiên ngang bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử thách vẫn một lòng bền gan quyết chí hướng tới miền Nam ruột thịt, thống nhất nước nhà. Cuộc sống dù có nhọc nhằn, gian khổ thiếu thốn vẫn không đánh bại được ý chí sự kiên trì của những con người vì dân vì nước mà hy sinh quên mình.

Người lính ra trận phải đối diện với nhiều khó khăn, hình ảnh rừng hoang sương muối, thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Thể hiện sự khổ ải trên con đường cứu nước.

Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như ở câu thơ đầu tiên thể hiện sự nghiệt ngã của thiên nhiên, của địa hình Trường Sơn thì trong hai câu tiếp theo lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Hình ảnh người lính hiên ngang canh gác, chờ quân giặc tới để chiến đấu không hề run sợ lo lắng, thể hiện sự chủ động của người lính.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thể hiện sự đối lập giữa súng và trăng giữa thực tại và tâm hồn người lính là hoàn toàn trái ngược nhau. Dù cuộc sống thực tại có khó khăn khắc nghiệt thì tâm hồn người lính vẫn thi vị đượm chất trữ tình, lãng mạn. Chính Hữu đã thể hiện chất liệu thơ vô cùng lãng mạn, đây là hình ảnh độc đáo thể hiện dụng ý nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Tạo nên một nét chấm phá độc đáo làm nên hình tượng cho bài thơ nhiều sáng tạo. Nó thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của những người lính trẻ đang độ xuân xanh yêu đời, lòng tràn ngập ước mơ hoài bão lý tưởng sống lớn lao.

Tác giả Chính Hữu đã vô cùng đặc sắc khi xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” tạo nhiều ám ảnh trong tâm trí người đọc, nó là hình tượng thành công nhất tạo nên nét riêng của bài thơ.

Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” như là một sự lan tỏa dịu nhẹ cho toàn bài thơ. Nó cũng như một sự an ủi cho tâm hồn của những người lính trẻ. Những người đọc cũng cảm thấy có một thứ gì đó thật trong sáng. Thật lãng mạn trong tâm hồn người lính, cảm thấy được tình yêu đời của họ, những khát khao của họ về một cuộc sống yên bình.

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Chính Hữu

Chính Hữu tên thật Trần Đình Đắc, sinh năm 1926 tại Vinh, là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm. Từ lúc viết bài thơ đầu cho đến nay Chính Hữu vẫn phục vụ trong quân đội. Đề tài thơ hầu hết là đề tài đánh giặc, nhân vật trung tâm là anh bộ đội. Tình cảm quán xuyến trong toàn bộ thơ Chính Hữu là tình cảm người lính, trong đó lòng yêu Tổ quốc và tình đồng chí là hai chủ đề hay được đề cập. Thơ Chính Hữu thể hiện một cá tính trầm lặng nhưng cả nghĩ và dào dạt yêu thương, trong lòng luôn luôn có sự khắc khoải về trách nhiệm trước những nỗi gian lao của đồng bào, đồng chí. Ông hay nghiêng về những hy sinh xót xa, với sự chân thành cảm phục biết ơn và rất nhiều tự vấn về trách nhiệm mình. Các tác phẩm; Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966), Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997), Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998). phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Đồng chí

Đồng chí

Tác giả: Chính Hữu

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

2-1948

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính Cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Bài thơ đã được nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc thành bài hát Tình đồng chí.

Nguồn:
1. Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972
2. Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, 2009

Bài thơ: Ngày về

Ngày về

Tác giả: Chính Hữu

Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu
Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội
Bao giờ trở lại?
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại
Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về, trở về, chiếm lại quê hương
Nguy nga sao cái buổi lên đường
Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc
A ha! nhà xiêu mái sập
Xác oan cừu ngập lối chân đi
Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly
Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp
Mịt mù khói ngợp
Cờ máu huy hoàng
Phất nắng
Ôi bài chiến thắng reo vang.

1947

Bài thơ: Ngọn đèn đứng gác

Ngọn đèn đứng gác

Tác giả: Chính Hữu

Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta lên Bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được,
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức…
Soi cho ta đi
Đánh trận trường kỳ
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi.
Đi nhanh đi nhanh
Chiến trừõng đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía truớc.

1965

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc.

Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009

Bài thơ: Đường ra mặt trận

Đường ra mặt trận

Tác giả: Chính Hữu

Những buổi vui sao, cả nước lên đường,
Xao xuyến bờ tre, từng hồi trống giục

Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm, ríu rít theo nhau
Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở, đầy sông đầy cầu

Bộ đội dân quân, trùng trùng điệp điệp
Chào nhau không kịp nhớ mặt
Dô hò nón vẫy theo,
Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát

Chào những ngôi trường ngói đỏ bình yên
Lấp lánh cánh đồng đang gặt đang hái
Xuôi ngược công trường những bánh xe reo
Ngọn khói con tàu như tay vẫy gọi

Đất nước mình đây,
Hai mươi năm
mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: tôi là đồng đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay.

Yểm hộ miền Nam
Thình thình đại bác
Nhịp những bước chân
Cả nước
lên đường

1965

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc.

Nguồn: Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Bài thơ: Trang giấy học trò

Trang giấy học trò

Tác giả: Chính Hữu

Em đến trường
Tay cầm cuốn vở
Gió thổi đời em
Lật từng trang mở
Trường mới
như tâm hồn em
Lợp toàn ngói đỏ

Tóc xanh mát bóng cây
Thơm mùi trang giấy mới
Vui với em phơi phới
Tổ quốc lớn từng ngày

Chúng mang bom nghìn cân
Giội lên trang giấy
Mỏng như một ánh trăng ngần
Hiền như lá mọc mùa xuân

Ôi từng trang giấy
Trong lòng anh, đập khẽ, đêm nay
như bàn tay vẫy
như một bàn tay ròng ròng máu chảy!

Nếu em sống lại
Anh đi một nghìn đêm
Để giành lấy cho em
Một ngày không sợ hãi

Trận địa thức bên em
Bóng quân thù hung ác
Không che được ánh đèn
Soi cho em ngồi học

Ôi ánh đèn thúc giục
Như mệnh lệnh hành quân

1966

Nguồn: Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Bài thơ: Giá từng thước đất

Giá từng thước đất

Tác giả: Chính Hữu

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.

Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta ?

Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
Chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng thước đất,
Các anh ở đây
Trận địa là đây,
Trận địa sẽ không lùi nửa thước,
Không bao giờ, không bao giờ để mất
Mảnh đất
Các anh nằm.

1954-1961

Nguồn: Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Bài thơ: Bắc cầu

Bắc cầu

Tác giả: Chính Hữu

Bom nó bằng gang
Tay ta bằng sắt
Hỡi con sông sâu
Cầu ta lại bắc

Hỡi những con đường
Đừng đau chia cắt
Nối nhịp thuỷ chung
Đinh ta đóng chặt

Ta đứng đêm ngày
Bốn bên khói lửa
Hai tay ta đỡ
Bạt ngàn quân đi

Góp vào tiếng súng
Một tiếng dô ta
Mỗi chuyến xe qua
Chở cả lòng ta
Theo ra mặt trận

Sông vỗ trùng trùng
Nhịp cầu điệp điệp
Đưa cả đất nước
Đi về phía nam

1966

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Quốc Anh phổ nhạc.

Nguồn: Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Bài thơ: Lá ngụy trang

Lá ngụy trang

Tác giả: Chính Hữu

Mười năm đi mải miết
Mang quê mình xanh biếc trên lưng.
Khi ta hành quân đã khuất,
Lá nguỵ trang còn đọng tiếng chim rừng
Tha thiết

Cây mọc trăm miền gửi lá theo ta
Gian khổ đêm ngày chiến dịch,
Vẫn nghe rì rào thôn xóm ta qua
Nghe núi nghe sông trong cành lá hát.

(1961)

Bài thơ: Ngọn gió

Ngọn gió

Tác giả: Chính Hữu

Em có bao giờ nửa đêm thức dậy
Nghe ngọn gió phương này thổi sang phương ấy
Đấy là hồn anh đang thở đêm đêm
Đi giữa đất trời đến hát ru em…

Nguồn: Tuyển tập thơ Tình bạn tình yêu xuất bản năm 1987

Bài thơ: Thư nhà

Thư nhà

Tác giả: Chính Hữu

Một lá thư nhà
hôm nay ta đọc
Trong chiến hào chuẩn bị tiến công,
Ta mới hiểu thêm
từng chữ, từng dòng
Chưa bao giờ hiểu hết,
Ta mới biết
Chiều cao ngọn núi, chiều rộng con sông,
Hai tiếng quê hương bỗng sao thắm thiết.

Thư người hậu phương gánh gạo đưa chồng,
Hai vai khó nhọc,
Viết gửi cho ta ngổn ngang từng nét
Như gồng như gánh dân công,
Ánh mực lập loè đường xa lửa đuốc.
Lặn lội đi theo cả nước
Lên đây đánh giặc cùng ta
Đêm nay ở đâu?
lưng đèo?
cuối dốc?
Một lá thư nhà
Chia đôi nhiệm vụ
Hai người đoàn tụ
Hai đầu chiến công.

(1954-1961)

Nguồn: Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Nhà văn Vũ Quần Phương đã nhận xét về thơ Chính Hữu “Có thể nói mỗi bài thơ Chính Hữu đều có một tìm tòi mới. Anh giữ bản sắc dân tộc một cách sáng tạo. Anh học ca dao trong hình ảnh ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt, trong công việc của người vợ gánh gạo đưa chồng hai vai khó nhọc. Người xưa nói chia ly nơi đầu cuối một dòng sông, anh nói đoàn tụ ở hai đầu chiến trường. Câu thơ núi biên giới Núi, lại núi, lại núi phải chăng cũng phát triển từ câu thơ: Một đèo, một đèo, lại một đèo… Khi học tập một cách nói tự bên ngoài, Chính Hữu cũng không sa vào lai căng, lộ liễu, do anh biết bám chắc vào chất sống Việt Nam, tâm hồn Việt Nam.”