Top 9 Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lớp 9 hay nhất

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Duy dung dị, hồn nhiên, trong sáng. Ngôn ngữ, hình tượng thơ rất sáng tạo, gợi cảm, mang vẻ đẹp thôn quê. Sau này cảm xúc trữ tình của ông ít nhiều mang màu sắc triết lí, khá thâm trầm, ấn tượng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất thể hiện rõ phong cách thơ của Nguyễn Duy là bài thơ “Ánh trăng”. Từ một câu chuyện riêng, bài thơ nhắc nhở về thái độ tình cảm thủy chung, ân nghĩa đối với quá khứ bình dị, hiền hậu. Tư tưởng đó được trình bày rõ nét trong khổ thơ cuối bài thơ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” hay nhất mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 1

Trong thi ca xưa, hình ảnh vầng trăng thường gắn liền với những mộng mơ, qua đó thể hiện được sự tinh tế và nhạy cảm trong tâm hồn của người nghệ sĩ. Viết về ánh trăng – mảng đề tài tưởng như quá quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Duy không những không bị chìm khuất trong những cái bóng quá lớn của tác phẩm thành công trước đó mà lại thể hiện được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo rất Nguyễn Duy. Không chỉ thể hiện được những cái mộng mơ thường thấy mà thông qua hình ảnh của ánh trăng nhà thơ đã gửi gắm được những tâm sự, cảm xúc thầm kín, bởi ánh trăng trong thơ ông đã trở thành biểu tượng của những kí ức đã qua, của những kỉ niệm khó quên trong cuộc đời. Tư tưởng, nội dung này được thể hiện chi tiết thông qua khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.

Hình ảnh vầng trăng là hình ảnh xuyên suốt bài thơ, tuy dung lượng bài thơ tương đối ngắn nhưng qua đó người đọc vẫn cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ Nguyễn Duy với chính những kí ức đã qua của mình.

Bằng sự liên tưởng đầy độc đáo, Nguyễn Duy đã nói về những kí ức của một thời gian khổ nhưng đầy hào hùng thông qua hình ảnh ánh trăng, đặc biệt qua khổ thơ cuối thì tác giả đã thể hiện được trọn vẹn những tình cảm, sự day dứt đau đớn vì trong một lúc nào đó đã chót quên đi những tình nghĩa của một thời đã xa:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trong dòng tâm sự của tác giả Nguyễn Duy ta có thể thấy được, vầng trăng ở đây không đơn thuần chỉ là một hiện tượng của tự nhiên mà nó trở thành một sinh thể có sự sống, có cảm xúc, đó là biểu tượng cho những tình nghĩa, cho những dòng chảy của quá khứ.

Vầng trăng đã trở thành một người bạn thân thiết, một người tri kỉ vì nó gắn bó với những kí ức của tuổi thơ, cùng nhà thơ vào chiến trường. Những kí ức, tình nghĩa đó quá sâu lặng mà nhà thơ ngỡ không thể nào quên. Nhưng khi đất nước đã được giải phóng, trở về với cuộc sống mới, chìm đắm vào guồng quay bất tận của cuộc sống mà nhà thơ đã quên đi những kí ức, quên đi người bạn tri kỉ ấy.

Ta có thể thấy, khổ cuối của bài thơ đã dồn nén biết bao nhiêu nỗi niềm, tâm sự. Hình ảnh vầng trăng im phăng phắc thể hiện được sự tình nghĩa, thủy chung của ánh trăng, ánh trăng vẫn trong trẻo vô ngần như thế chỉ có con người là đổi khác. Nhà thơ đã thể hiện được sự tự trách nghiêm khắc với bản thân vì sự vô tình, đổi khác của mình.

Ánh trăng không đổi khác, không cất lời trách móc nhưng vẫn khiến cho thi nhân phải giật mình. Đây không phải sự giật mình trong trạng thái khi chịu một sự tác động từ bên ngoài vào cơ thể một cách bất ngờ mà là sự giật mình trong tâm thức của nhà thơ, chính sự im lặng của vầng trăng đã làm cho bao kỉ niệm kí ức sống dậy mạnh mẽ, và nhận ra rằng mình đã từng lãng quên nên “giật mình” ở đây là sự hốt hoảng, sự tự trách trong chính tâm hồn của nhà thơ.

Cái giật mình của nhà thơ Nguyễn Duy thật đáng trân trọng, đó là cái giật mình của ý thức, của trách nhiệm khiến cho chúng ta cảm động. Tự hỏi trong chúng ta hôm nay có ai dám chắc rằng mình chưa bao giờ lãng quên những điều mà chúng ta cho là trân quý nhất, và khi nhận thức được sự lãng quên ấy thay vì chấp nhận cho qua, tự an ủi rằng “À, thì ra mình đã quên” mà có mấy ai ý thức được sâu sắc sự vô tình của mình được như Nguyễn Duy.

Nếu đọc thơ Nguyễn Duy ta có thể được một hồn thơ chân chất gần gũi mà mộc mạc, lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó ở vùng đất Thanh Hóa, tác giả luôn có những day dứt, băn khoăn về cuộc sống lam lũ, nghèo khổ của con người quê mình, do vậy mà có thể nói Nguyễn Duy rất trân trọng những tình nghĩa, những kí ức gian khó của một thời đã qua.

Khổ thơ cuối của bài thơ không chỉ khép lại bài thơ mà nó còn mang ý nghĩa triết lí sâu sắc: Trong chúng ta ai cũng sẽ có những lúc lãng quên đi những kí ức tốt đẹp của quá khứ. Do vậy, nếu như không nhận ra kịp thời, không có những cái giật mình thức tỉnh thì biết đâu đấy chúng ta cũng sẽ đánh mất chính mình.

Cả bài thơ như thấm đượm hình ảnh ánh trăng trong trẻo, thủy chung. Cũng mượn ánh trăng để nói lên tâm trạng của mình, nhà thơ Lí Bạch cũng từng viết:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương”

Nếu hình ảnh vầng trăng mang đến những ấm áp để sưởi ấp tâm hồn của người lữ khách xa quê thì ánh trăng trong thơ của Nguyễn Duy lại là ánh trăng của kí ức, của tình nghĩa. Ánh trăng ấy không chỉ là một người tri kỉ vẫn luôn dõi theo nhà thơ mà đó còn là ánh trăng thức tỉnh con người tình nghĩa sâu nặng bên trong nhà thơ.

Bài thơ Ánh trăng không chỉ là tâm sự riêng của nhà thơ Nguyễn Duy, mà đây còn là bài thơ giúp cho người đọc tự soi chiếu được chính mình. Cuộc sống của con người luôn chảy trôi vô tình, đừng vì quá đắm mình trong cuộc sống thực tại mà lãng quên đi những kí ức đã qua, đó là những kí ức mà chúng ta đã từng trải qua, nó góp phần làm nên con người của thực tại, vì vậy hãy trân trọng để nó luôn sống động trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 2

Với một giọng thơ đầy tươi trẻ, đầy suy ngẫm mang hương vị ca dao đằm thắm, mượt mà, Nguyễn Du trở thành gương mặt tiêu biểu và quen thuộc của phong trào thơ chống Mĩ. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng như “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Đò lèn”… “Ánh trăng” cũng là thi phẩm được nhiều người nhắc đến. Ra đời năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bài thơ ghi lại chân thực một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp vầng trăng ân tình. Trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mà vô tình quên đi những ân tình, những kỉ niệm của quá khứ. Nhưng vầng trăng vẫn vậy, tình nghĩa, thủy chung một lòng, không có chút thay đổi. Ý vị xót xa của bài thơ được thể hiện rất rõ trong toàn bài thơ, đặc biệt là trong khổ thơ cuối của bài.

Trong bài thơ “Ánh trăng”, hình ảnh vầng trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng cho những kí ức, biểu tượng cho quá khứ và vẻ đẹp đời sống bình dị, vĩnh hằng. Nhắc đến trăng là Nguyễn Duy muốn nhắc đến lối sống ân tình thủy chung. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Nguyễn Duy đã gợi mở ra khoảnh khắc khu phố mất điện, để rồi giật mình nhìn thấy vầng trăng, bao nhiêu kỉ niệm, hình ảnh quá khứ gắn bó với trăng cũng như dòng thác lũ ào ào mà đổ về. Hình ảnh quá khứ càng tươi đẹp bao nhiêu, càng gắn bó bao nhiêu thì nhà thơ càng tự trách mình bấy nhiêu, trách mình sao lỡ vô tình mà quên đi, để bây giờ nhớ lại thì trong lòng lại dâng đầy tư vị của niềm xót xa. Nói về sự thủy chung của ánh trăng, cũng là lời nhắc nhở, kiểm điểm chính mình, khổ thơ cuối chứa những triết lí ý nghĩa khiến cho độc giả phải suy ngẫm:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trăng, một nhân chứng cho những kỉ niệm, những hồi ức khi xưa. Trăng gắn liền với cả một thời tuổi trẻ, cùng nhà thơ lớn lên, khi trưởng thành thì vầng trăng theo sát từng chặng hành quân, chiến đấu gian khổ. Có thể nói, với Nguyễn Du, vầng trăng không chỉ là một hiện tượng của tự nhiên, vũ trụ, không phải là một vật vô tri vô giác mà là một người bạn, một người tri kỉ, là “vầng trăng tình nghĩa” của nhà thơ. Ở đây, vầng trăng đã trở thành biểu tượng của quá khứ, biểu tượng của một thời gian khó nhưng không bao giờ có thể lãng quên, là những phần kí ức sẽ luôn đi theo nhà thơ đến suốt cuộc đời.

“Trăng cứ tròn vành vạnh”

“Tròn vành vạnh” tả vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng, viên mãn. Về cái nhìn thị giác, tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, là cái đẹp không bao giờ gây nhàm chán, thất vọng với con người. Ngoài nghĩa tả thực, hình ảnh vầng trăng tròn , lặng lẽ còn biểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức. Những hồi ức ấy vẫn mãi “sáng”, vẫn mãi tròn trịa, viên mãn như vậy, không hề có chút đổi thay, dù thời gian có trôi qua đi nữa, thì tình nghĩa của quá khứ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Nhưng, sự cảm thán về vầng trăng chỉ là cách gợi mở để nhà thơ tự trách mình, trách mình lỡ vô tình, quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy:

“Kể chi người vô tình”

“Người vô tình” ở đây ta có thể hiểu là sự trách móc mà nhà thơ dành cho chính bản thân mình. Trách mình sao có thể quên đi những tháng ngày của quá khứ, quên đi những kỉ niệm của tuổi trẻ. Để bây giờ nhận ra bỗng cảm thấy xót xa, thấy mình sao thật vô tình. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho độc giả cảm nhận một tâm hồn thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nhân cách. Nhà thơ vốn là người trọng tình nghĩa, song vì nhịp sống mới quá hối hả xô bồ mà nhà văn vô tình quên đi. Nhưng đó chỉ là sự lãng quên trong khoảnh khắc, bởi những kỉ niệm đẹp vẫn nằm trong sâu thẳm trái tim của nhà thơ, vì vậy khi được ánh trăng soi chiếu, nhà thơ mới xúc động, mới dạt dào tình cảm đến vậy.

“Ánh trăng im phăng phắc”

Trăng là biểu tượng của thiên nhiên thanh lành, tươi mát, biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của tình nghĩa thủy chung, trọn vẹn không đòi hỏi sự đáp đền. Đó chính là phẩm chất cao cả của ánh trăng mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ khác đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc: “ánh trăng im phăng phắc” là tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng mãi thủy chung, dù cho cuộc sống có bao biến động, bao đổi thay thì vầng trăng vẫn thế, không hề có sự đổi thay. Kí ức, những kỉ niệm không hề vô tri, vô giác, nó như một sinh thể có linh hồn, có sự sống. Mà ở đây nhà thơ Nguyễn Duy đã kí thác qua hình ảnh ánh trăng. Con người có thể đổi thay, có thể quên lãng nhưng những kí ức thì vẫn còn đó, nó sống cùng thời gian, năm tháng. Để đến một lúc nào đó, nó sẽ gợi nhắc con người bằng những gì thân thương, gần gũi nhất. Con người chỉ chấn động khi chợt nhận ra, nghe lời nhắc nhủ, răn dạy trong sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng:

“Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Bao dung mà nghiêm khắc, nghiêm khắc nhưng không lạnh lùng, người bạn tình nghĩa vầng trăng, ánh trắng khiến con người giật mình và thức tỉnh. “Giật mình” là cảm giác, là phản xạ tâm lí của người biết suy nghĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của chính mình. “Giật mình” vì ăn năn, tự vấn; “Giật mình” vì lãng quên năm tháng xưa, bạn bè gian khổ, đói nghèo mà ân tình, ân nghĩa. Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái “giật mình” như vậy mới đáng quý làm sao. Nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp; bảo vệ con người trước những cám dỗ; níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trong lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối cất lên như một lời tự thú, một lời tự trách, một lời tự nhắc của nhà thơ.

Nhà thơ tự trách mình đã quá vô tình, vô tình vì quên lãng, vô tình vì đã có những phút quên đi những ngày tháng, những kỉ niệm, những kí ức ấy. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Trong cuộc sống con người rất dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, tấp nập của cuộc sống mà vô tình quên đi những thứ bình dị nhưng đã đi sâu vào trong tiềm thức, đã xây kết thành những kỉ niệm vững chắc mà ta không bao giờ quên. Sự lãng quên ấy không đáng trách nhưng quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm thì đó là những hành động thật đáng trách, thật đáng lên án.

Tóm lại, “ánh trăng” là bài thơ hay với thể năm chữ được vận dụng sáng tạo, giọng điệu tâm tình tự nhiên. Từ một câu chuyện riêng, được kể theo trình tự thời gian, phản ánh rất sinh động quy luật tâm lí của con người, lời thơ là lời nhắc nhở thấm thía: không nên vô tình, vị kỉ, phải thủy chung cùng bạn bè, nhân dân, đồng chí. Thái độ, tình cảm với quá khứ chưa xa nhiều hi sinh, mất mát, với những người đã ngã xuống hôm qua khiến “ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn, gợi lên đạo lí tình nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 3

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy – bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp một câu chuyện ngụ ngôn ít lời mà giàu hàm nghĩa. Vầng trăng thật sự như một tấm gương soi để người ta thấy được những gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta đôi khi để mất.

Đặc biệt là khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lý:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thuỷ chung: “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối.

“Ánh trăng” hay chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối. Chỉ với một “vầng trăng” – “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan toà lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.

Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái “giật mình” của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lấy quá khứ để soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mỗi con người. Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm của nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức ám ảnh thật lớn đối với người đọc.

Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vô tình với mọi người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ chung, nghĩa tình với quá khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh phúc ở tương lai.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 4

Vầng trăng đi vào hồn thơ của biết bao thi nhân thế giới, và ở văn học Việt Nam, trăng cũng đã chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác. Đó là ánh trăng chiến đấu nơi rừng xa trong thơ Chính Hữu, là ánh trăng rằm ngời sáng dịu dàng trong thơ Tản Đà, là ánh trăng đẹp tri âm tri kỉ trong các thi phẩm của Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy cũng mang đến cho thơ ca hiện đại Việt Nam một vầng trăng nghĩa tình, thủy chung qua bài “Ánh trăng”. Kể về ân tình thủy chung của vầng trăng và sự vô tình của lòng người, khổ cuối bài thơ được coi là khổ thơ chứa đựng nhiều suy tư, chiêm nghiệm nhất bài thơ.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chỉ người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Trăng là món quà tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho con người, vẻ đẹp ấy không chỉ đến từ ánh sáng dịu dàng, vẻ đẹp tròn đầy của vầng trăng mà nó còn là tượng trưng cho những gì viên mãn nhất. Từ láy “vành vạnh” càng gợi cho ta cảm giác đủ đầy, không thiếu thốn cũng chẳng dư thừa, trăng lúc này đây chất chứa những yêu thương của quá khứ vẹn nguyên, những lòng bao dung của hiện tại và sự bất diệt của tương lai. Dấu ấn quá khứ với những kí ức tuổi thơ, những ngày đi lính cùng trăng đồng hành nếu ai đó đã vô tình quên thì trăng vẫn ở đó, vẫn lưu giữ đầy những yêu thương của kỉ niệm. Trăng không một lời trách móc “im phăng phắc”, không một ánh mắt hờn giận, vẫn cứ thế toả sáng dịu dàng, toả sáng những ân tình cao đẹp. Trăng im lặng, dùng ánh sáng của mình mà thức tỉnh con người, thức tỉnh sự lặng im của những tâm hồn đang “dửng dưng” với quá khứ.

Vầng trăng vẫn tĩnh lặng, bao dung, tình nghĩa như vậy, thế nhưng lòng người đâu thể đứng yên như ánh trăng trên trời xa kia chứ, cái “giật mình” đáng sợ cũng chính là lúc mà người ta đang cảm thấy ăn năn, hối hận với quá khứ, với vầng trăng và với cả chính mình. Vòng xoáy của cuộc sống với những đổi thay, những tiện nghi hiện đại cuốn con người theo, họ chới với trong thực tại mà quên mất đi những kí ức đẹp đẽ, quên mất đi những “bạn đồng hành” cùng ta trước đây. Ánh trăng kia chẳng nói một lời mà lòng người vẫn thổn thức, xót xa và dằn vặt bởi sự vô tình của chính mình.

Có người thấy sự im lặng của vầng trăng chính là sự bao dung mà nghiêm khắc của trăng đối với con người, thế nhưng tôi lại thấy ẩn sâu trong sự tĩnh lặng ấy là tình nghĩa vẹn nguyên, là lòng bao dung, yêu thương chẳng hề vơi cạn của vầng trăng, dẫu con người vô tình mà lãng quên đi những kỉ niệm thì vầng trăng vẫn ở đó, bao dung, vị tha cho mọi lỗi lầm. Đêm về khi bóng tối tràn tới, trăng vẫn sáng soi, toả rạng khắp mọi chốn, từ rừng già tới biển bạc, từ chốn làng quê yên bình đến nơi phố thị phồn hoa. Dù con người có cần, có chờ, có đợi hay không thì trăng vẫn ở đó, giúp đời, làm đẹp cho đời.

Lối thơ 5 chữ cùng giọng điệu suy ngẫm, triết lí, đoạn thơ cuối bài như một thông điệp gửi đến cho chúng ta. Trong cuộc sống này, dù cho có bộn bề với những lắng lo của thực tại hay có ấm êm, vui sướng, đủ đầy thì cũng đừng quên quá khứ, bởi đó chính là những đôi cánh đưa chúng ta đến tương lai. Lòng thủy chung, nghĩa tình sẽ bồi đắp cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn, giàu có hơn.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 5

Ánh trăng đã đi vào thơ với muôn ngàn ca từ mĩ lệ, đã chiếm trọn lòng yêu thương của biết bao thi sĩ. Đến với đề tài quen thuộc – ánh trăng, nhưng Nguyễn Duy đã thể hiện được tính triết lí và chiều sâu suy ngẫm quan bài thơ của mình, đặc biệt ở khổ thơ cuối bài:

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình

Từ những ngày thơ bé sống giữa đồng quê, trăng đã người bạn tâm tình với nhà thơ. Ánh sáng ấy theo chân người chiến sĩ trong cả những trận chiến đấu gian khổ. Giữa rừng hoang nước lạnh, ánh trăng chiếu rọi làm ấm lòng người ra trận, vầng trăng gắn bó với biết bao nghĩa tình. Vậy mà khi cuộc sống đủ đầy, nơi thành thị ngập tràn màu sắc của những ánh sáng điện lưới, vánh trăng bỗng trở nên nhạt nhòa trong tâm trí người xưa. Để rồi khi ánh điện vụt tắt. ta mới ngước nhìn lại cố nhân, vẫn âm thầm tỏa ánh sáng chan hòa trên bầu trời cao rộng. Cuộc hội ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ như thế, đã khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi, xúc động để rồi tự vấn lòng mình.

Thế nhưng vầng trăng vẫn “cứ tròn vành vạnh”, “im phăng phắc”. Tác giả đã ử dụng hai từ láy để diễn tả tâm trạng của “cố nhân”. Trăng vẫn tròn đầy, trọn vẹn nghĩa tình thủy chung, nhân hậu, bao dung của thiên nhiên. Dù thời gian có trôi qua, tình cảm đó chẳng chút hư hao. Ánh trăng đang trách móc hay giữ sự tĩnh lặng để người đứng đó tự vấn lương tâm?

Để rồi, người đứng nhìn phải “giật mình”, đó là phản xạ của người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo. Sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” ở đây thật chân thành có sức cảm hóa lòng người. Hai tiếng “giật mình” cuối cùng bài thơ như một tiếng chuông rất khẽ nhưng ngân vang rất xa và đọng lại rất lâu.

Cái giật mình của Nguyễn Duy thật đáng trân trọng, đó là cái giật mình khi tác giả tự ý thức về sự vô tâm của chính mình. Tự hỏi trong chúng ta, ai dám chắc rằng minh chưa bao giờ lãng quên những điều mà chúng ta cho là trân quý nhất và khi nhận ra sự lãng quên đó, có ai dám nhận lỗi với chính mình. Câu thơ của nhà thơ ngắn ngủi mà có sức lay động lòng người, nhắc nhở mỗi người phải sống có nghĩa tình với quá khứ, uống nước phải nhớ nguồn.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 6

Nguyễn Duy là một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ giai đoạn sau với phong cách thơ mang màu sắc triết lí mà thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca. Bài thơ “Ánh trăng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, 3 ngày sau khi đất nước được giải phóng. Khổ thơ cuối bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc vì mang một triết lí sâu xa, gợi nhắc con người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung.

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Tính từ “tròn” kết hợp với từ láy “vành vạnh” cực tả, tuyệt đối hoá vẻ đẹp của trăng: sáng trong, viên mãn, ổn định, tròn đầy. Hình ảnh thơ không chỉ dừng lại ở đó mà còn có ý nghĩa khái quát: Sự tròn đầy, bất diệt của vầng trăng biểu tượng cho quá khứ vẹn nguyên, nghĩa tình, thủy chung, nhân hậu ngày nào. Đây chính là hình ảnh biểu tượng của trăng. Từ “cứ” khiến cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết, vừa vút cao, rắn rỏi trong sự khẳng định về lòng thủy chung của vầng trăng. Hai câu thơ đầu có kết cấu đối lập trong lời thơ, ý thơ làm nổi bật ý thơ. Vầng trăng trước sau vẫn vậy, mộc mạc, giản dị và thủy chung mặc cho con người hờ hững, vô tình.

Hai câu thơ sau, ý thơ đã có sự thay đổi, hình ảnh “vầng trăng” chuyển thành “ánh trăng”. Bởi vì chỉ có ánh trăng, thứ ánh sáng huyền ảo đó mới có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn con người sau bao nhiêu ngày tháng vô cảm. Chỉ có ánh trăng mới đủ ánh sáng để soi rọi vào quá khứ, những ngày tháng sống gắn bó với vầng trăng, từ đó đánh thức lương tâm con người. Từ ánh trăng đất trời vào thơ Nguyễn Duy đã trở thành ánh sáng tươi đẹp để xua đi nỗi tối tăm trong tâm hồn nhân thế. Nhưng không phải trăng nhắc nhở bằng lời nói mà bằng sự im lặng.

“Trăng im phăng phắc” trước hết là hình ảnh tả thực. Trăng không như sao, sao có lúc mọc lúc sa, trăng không như mây, lúc tan lúc tụ, trăng không như mưa lúc tạnh lúc rơi, trăng không như gió khi ngừng khi thổi. Trăng im lặng mà sáng soi. Sự im lặng của ánh trăng biểu tượng cho sự nghiêm khắc của quá khứ. Sự im lặng đó khiến cho người ta giật mình. Giật mình vì trăng nghĩa tình, bao dung mà lại có lúc vô tình, lạnh nhạt, dửng dưng trước trăng, trước quá khứ.

Nguyễn Duy, con người của gốc lúa, bờ tre hiền hậu, của những nắng nỏ trời xanh và những lời hát ru trọn kiếp người, không chỉ tha thiết gắn bó với những điều bình dị trong đời sống, say sưa với văn học dân gian mà còn là con người luôn trăn trở về lẽ sống. Chính vì vậy cái giật mình ở đây là một sự ăn năn, sám hối. Cái giật mình ấy đầy tính nhân văn. Kết cấu đối lập ở hai câu thơ cuối mang ý nghĩa nhắc nhở nghiêm khắc: Hãy đừng quên quá khứ, hãy sống thủy chung với quá khứ. Mượn hình ảnh ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm một cuộc tự vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Ra đi từ những trải nghiệm cá nhân nên bài thơ có sức ngấm rất sâu trong lòng độc giả.

Bài thơ ngắn gọn, đơn sơ như dáng dấp của một câu chuyện mang nhiều ý nghĩa triết lí. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung qua việc xây dựng thanhf công hình ảnh quen thuộc “ánh trăng” mang ý nghĩa biểu tượng, đã gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người luôn ghi tạc một điều: người nào bắn súng lục vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn anh ta bằng đại bác.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 7

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông dung dị, hồn nhiên mà thiết tha, sâu lắng, ít nhiều mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của ông. Đến với khổ thơ cuối bài thơ là những suy nghĩ của nhà thơ về vầng trăng.

“Ánh trăng” được Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh – ba năm sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, không phải ai cũng còn nhớ những kỉ niệm nghĩa tình, những gian khổ trong quá khứ. Bài thơ được viết ra như một lời tự nhắc, một lần giật mình trước sự vô tình, lãng quên dễ có ấy, nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Nếu như những khổ thơ đầu của bài thơ là quá khứ về vầng trăng,là cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa con người và vầng trăng xưa thì khổ thơ kết là những suy ngẫm của tác giả về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.

Kết cấu “cứ… kể chi” cho thấy sự đối lập giữa người với trăng. Trăng vẫn “tròn vành vạnh” – một vẻ đẹp vẹn nguyên chẳng thể phai mờ tượng trưng cho vẻ đẹp nghĩa tình của quá khứ đầy đặn, thủy chung, nhân hậu, bao dung. Trăng vẫn như xưa chỉ có con người đã thay đổi. Trăng vẫn vẹn trọn nghĩa tình, chỉ có con người đã thành kẻ vô tình.

Trước sự thay đổi của con người, trăng chỉ “im phăng phắc” không nói một lời nào. Thái độ ấy là sự nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im khiến con người phải “giật mình”. Giật mình là hành động thức tỉnh để nhìn nhận lại chính mình, là sự ăn năn, hối hận vì sự vô tình, bội bạc không nên có ở mình. Giật mình để thay đổi thái độ sống – sống ân nghĩa thủy chung. Cái giật mình ấy vô cùng cần thiết, giật mình để tìm lại chính mình.

Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái giật mình như vậy đáng quý biết bao. Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trước những lo toan, bộn bề hằng ngày. Nó bảo vệ con người trước những cám dỗ tầm thường của cuộc sống và trên hết, nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Trong cái “ta giật mình” có cái tôi của nhà thơ và cái tôi của tất cả mọi người. Phải chăng Nguyễn Du muốn lay động tất cả những ai còn đang ngủ quên trong cuộc sống đầy đủ, ấm no mà lãng quên quá khứ thì hãy thức tỉnh giật mình để nhận ra chính mình.

Đoạn thơ rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ năm chữ, giọng điệu tâm tình, nhỏ nhẹ mà sâu lắng. Hình ảnh thơ quen thuộc mà giàu sức gợi. Đoạn thơ nêu lên những suy ngẫm về vầng trăng và ý nghĩa biểu tượng của vầng trăng, góp phần thể hiện tư tưởng toàn bài: nhắc nhở mỗi người về lẽ sống ân tình, thủy chung, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc. “Ánh trăng” không chỉ là câu chuyện của một người, của nhà thơ mà là câu chuyện của cả thế hệ – thế hệ đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, từng sống gắn bó với thiên nhiên, nhân dân nghĩa tình giờ sống trong hòa bình. Bài thơ có ý nghĩa với mọi thời đại, là tấm gương trăng để soi lòng.

Đoạn thơ nói riêng và “Ánh trăng” nói chung hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện thấm thía những lẽ sống đối nhân xửa thế ở đời. “Ánh trăng” đã bật tung cửa sổ lương tâm của mỗi người, soi rọi vào những góc tối trong tâm hồn mỗi người để có những cái “giật mình” đáng quý.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 8

Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về quá khứ.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”.

Những khổ thơ đầu nhà thơ diễn tả về những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Trăng là trời là bể, là đồng là ruộng. Những năm tháng dài đằng đẵng đó đủ để vun đắp nên một tình bạn đẹp khắc sâu vào tâm trí của mỗi người. Thế nhưng sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”.

Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thưở nào. Đó cũng là đại diện cho quá khứ vẫn tròn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lòng. Ánh trăng dù cho ngàn năm nữa thì vẫn không bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vô tình với nó.

Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ thẹn không thôi. Ông tự nhận mình là một kẻ vô tình. Một kẻ vô tình với quá khứ với người bạn tri kỉ của mình. Vô tình ở đây không phải là cố tình quên đi những kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.

Không hề có trách móc hay dỗi hờn ánh trăng im phăng phắc một sự lặng lẽ đáng sợ. Thế nhưng chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng con người vào sự bộn bề trăm mối. Ánh trăng lúc này không phải đơn cử là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà nó chính là tòa án lương tâm của mỗi người. Sự giật mình của người lính chính là một sự thức tỉnh của lương tri đột ngột. Vầng trăng tuy chỉ yên lặng thôi nhưng sức mạnh của nó đủ khiến lay động một con người sau một cơn mê dài.

Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà tưởng chừng như không thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người còn có suy nghĩ còn biết nhận ra sai lầm thì không bao giờ là muộn cả.

Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc. Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những thứ đã gắn bó với mình từ thưở hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người còn có lương tâm thì không cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.

Bài văn phân tích khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” số 9

Nghệ thuật chân chính phải có sứ mệnh như một thiên thần hộ mệnh giúp nâng đỡ con người, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có sức mạnh như thế. Bài thơ như một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Đặc biệt là khổ cuối của bài đã gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng, suy ngẫm, đưa ta tới những chiều sâu của suy tưởng, triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Vầng trăng chính là hình tượng theo ta xuyên suốt cả bài. Ở những khổ trước, nhà thơ đã mở ra hoàn cảnh khu phố mất điện để cho con người đối diện trực tiếp với vầng trăng, để những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ như lớp lớp sóng mạnh mẽ ùa về. Kết thúc bài thơ, hình ảnh ấy hiện về càng tươi đẹp, càng gắn bó bao nhiêu thì nhân vật trữ tình lại càng trăn trở, càng tự trách mình bấy nhiêu. Vầng trăng tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, cũng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung.

Trăng vẫn sáng, vẫn đẹp, quá khứ vẫn vẹn nguyên tình yêu thương dù cho con người có vô tâm, hờ hững, lãng quên đi vầng trăng, lãng quên đi quá khứ tươi đẹp. Nhưng đằng sau sự vô tình ấy, ta nhận ra một tâm hồn thật đẹp. Nhân vật trữ tình không hẳn là người vô tâm, chỉ là đôi khi đã bị cuộc sống bộn bề, nỗi lo cơm áo gạo tiền cuốn theo vòng xoáy của nó. Sự lãng quên chỉ là trong khoảnh khắc, để rồi khi được vầng trăng soi chiếu, nó lại sống dậy mạnh mẽ như xưa. Vầng trăng tươi đẹp chỉ là sự gợi mở để nhà thơ tự vấn chính mình:

“Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

“Im phăng phắc” là sự lặng yên tuyệt đối, không mảy may lay động. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng trở thành một người bạn gần gũi, gắn bó. Trăng chẳng hề lên tiếng trách cứ con người một lời. Sự im lặng vì thế càng trở nên đáng sợ. Trăng bao dung, độ lượng nhưng vẫn không kém phần nghiêm khắc. Trăng đã trở thành tòa án lương tâm, trở thành tấm gương phản chiếu để từ đó con người nhận ra những giá trị bị quên lãng, nhận ra phần vô tâm, hờ hững trong chính mình. Cái giật mình ở đây thật đáng quý, cái giật mình của một con người biết suy nghĩ, có nhân cách. Giật mình vì ân hận, xót xa. Giật mình vì quên đi bao tình cảm ân nghĩa, tốt đẹp khi xưa.

Cái giật mình đã giúp nhân vật trữ tính đứng vững trước những cám dỗ trong cuộc sống. Cái giật mình ấy rất cần có trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi chúng ta mải theo đuổi những giá trị vật chất, tiền tài danh vọng mà hờ hững, vô tâm với những giá trị bình dị nhưng vĩnh hằng, sâu sắc. Cả bài thơ là vô nhân xưng, nhưng đến đây là nhà thơ xưng là “ta”. Ta là nhà thơ, ta cũng có thể là tất cả mọi người.

Năm xưa, trong cảnh đất nước có chiến tranh, người lính gắn bó với bè bạn thân yêu, sống trong vòng tay yêu thương che chở của nhân dân lao động thì nay, khi đất nước đã hòa bình, nhà thơ lên tiếng nhắc nhở, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ của ông không được phép lãng quên quá khứ và những tình cảm cao đẹp khi xưa. Không có quá khứ sẽ không có chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, mỗi người hãy biết trân trọng quá khứ, lấy quá khứ là điểm tựa, là sức mạnh để vươn tới cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.

Với thể thơ năm chữ, những chữ đầu dòng không viết hoa trừ chữ đầu tiên ở mỗi khổ, Nguyễn Duy đã rất thành công khi mượn hình tượng ánh trăng để nói lên bài học nhân sinh sâu sắc: mỗi chúng ta hãy có những giây phút lắng lòng để nhìn lại quá khứ, đừng bao giờ quên đi quá khứ để rồi phải ân hận, xót xa.

Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, để lại những vang âm còn mãi trong lòng người đọc. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi là lời nhắc nhở theo chúng ta trên từng chặng đường đời, để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.

Hi vọng bài viết giúp bạn làm tốt bài văn phân tích của mình. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên phongnguyet.info

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Duy

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7/12/1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, rồi sau này là mặt trận phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại tuần báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Trưởng đại diện của báo này tại phía Nam.

Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ Trên sân trường viết từ đầu những năm 60, khi còn là một học sinh phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá. Nhưng phải mãi đến năm 1973, ông mới thực sự nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Và cũng bắt đầu từ đấy, chúng ta có Nguyễn Duy, một thi sĩ đặc sắc cuối những năm chiến tranh và lại rực rỡ trong hoà bình. Ông được tặng Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Tre Việt Nam

Tre Việt Nam

Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con

Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh

1970-1972

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…

Thơ Nguyễn Duy

Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò… sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…

Saigon, mùa thu 1986

Nguồn: Nguyễn Duy, Mẹ và Em, Nxb Thanh Hoá, 1987

Bài thơ: Ánh trăng

Ánh trăng

Thơ Nguyễn Duy

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

TP. Hồ Chí Minh, 1978

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, NXB Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Đò Lèn

Đò Lèn

Thơ Nguyễn Duy

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

9-1983

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Ngữ văn 12 từ 2007.

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Đánh thức tiềm lực

Đánh thức tiềm lực

Thơ Nguyễn Duy

Tiễn đưa anh S.D. đi làm kinh tế

Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn – đẹp, và giàu, và sung sướng hơn

Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?

***

Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi lớn lên bên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bảy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…

***

Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng
một bên là Trường-Sơn-cây-xanh
bên còn lại Trường-Sơn-cát-trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi!

Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời

***

Tôi về quê em – châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi

Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn nào phèn
má sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em

Đã qua đi những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa ma không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!

Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán nhậu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm

***

Này, đất nước của ba miền cày ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì
và trả lại được gì cho cuộc sống?

Em có nghĩ tôi là con chích choè ăn và gại mỏ?

Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?

Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy
múa võ bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc

Em có nghĩ…
mà thôi!

***

Xin em nhìn kia – người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!

Xin em nhìn – người gánh phân, gánh thóc
(tôi cũng từng mòn vai gánh phân, gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!

Những cái đẹp thế kia… em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xưa ngày xửa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!

Em có chạnh lòng chăng
giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù cái xe hơi chạy than
vệt than rơi toé lửa mặt đường

Em có chạnh lòng chăng
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm

Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày

Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm!…
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

***

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bô-xít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ…
dù sau này có như thế… như thế… đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
rằng
đừng quên đất nước mình nghèo!

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành

Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ ru nhau
ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt

***

Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng

Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn

Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thuỷ tinh thể

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ

Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác

Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi

***

Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường

Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười là lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng rát hơn lá mía
hôn má bên này bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về

Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình

Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng, nghề ngổi lê, nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…

Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê

***

Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…

Tp. Hồ Chí Minh 1980-1982

Đoạn đầu bài thơ này được sử dụng trong đề thi tốt nghiệp THPT quốc gia môn Ngữ văn năm 2018.

Nguồn: Nguyễn Duy, Mẹ và Em, NXB Thanh Hoá, 1987

Bài thơ: Hơi ấm ổ rơm

Hơi ấm ổ rơm

Thơ Nguyễn Duy

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người

Bình Lục – một đêm lỡ đường

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Tiếng hát mùa gặt

Tiếng hát mùa gặt

Lúa chín
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời

Gặt lúa
Tay nhè nhẹ chút người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng
Dễ rơi là hạt đầu bông
Công một nén, của một đồng là đây

Tuốt lúa
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Rơm vò từng búi rối tinh
Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi

Phơi khô
Nắng non mầm mục mất thôi
Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn
Nắng già hạt gạo thêm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho

Quạt sạch
Cám ơn cơn gió vô tư
Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi
Hạt nào lép cứ bay thôi
Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

Đông Vệ – vụ chiêm 1971

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973

Bài thơ: Vườn cây của ba

Vườn cây của ba

Thơ Nguyễn Duy

Má trồng toàn những cây dễ thương
Nào là hoa, là rau, là lúa
Còn ba trồng toàn cây dễ sợ
Cây xù xì, cây lại có gai

Cái gai bưởi đụng vào thì chảy máu
Trái sầu riêng rớt xuống thì đầu u
Nhựa hột điều dính vào là rách áo
Cây dừa cao eo ơi, cao là cao

Cây ba trồng sống lâu thiệt là lâu
Mưa chẳng dập gió lay chẳng đổ
Thân xù xì cứ đứng trơ trơ
Cành gai góc đâm ngang tua tủa

Bưởi, sầu riêng, dừa, điều nhiều nhiều nữa
Cho em bốn mùa vị ngọt hương thơm
Vườn của ba cây trồng thì dễ sợ
Mà trái nào cũng thiệt dễ thương.

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Nhân phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Bài thơ: Đà Lạt một lần trăng

Đà Lạt một lần trăng

Thơ Nguyễn Duy

Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng
ngọn gió nhà ai thấp thoáng ở bên đồi
tiếng móng ngựa gõ ròn trên dốc vắng
nghe mơ hồ một chiếc lá thông rơi

Em nhóm bếp bằng củi ngo chẻ nhỏ
ngọn lửa lấp đi khoảng vắng giữa hai người
tôi lơ đãng nhìn em nhìn lơ đãng
siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi

Em biết chứ, chả ai lơ đãng cả
hòn than kia đang đỏ đến hết lòng
mà ngọn lửa cứ giả vờ le lói
mùi nhựa thông theo sợi khói đi vòng…

Đà Lạt, 1984

Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984

Bài thơ: Được yêu như thể ca dao

Được yêu như thể ca dao

Thơ Nguyễn Duy

Bao giờ cho tới ngày xưa
yêu như các cụ cho vừa lòng ta
cái thời chưa nhiễm SIDA
yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa

Ðược yêu như các cụ xưa
cũng trăng gió cũng mây mưa ào ào
được yêu như thể ca dao
đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời

Tây Tàu cũng thế thì thôi
y chang cay đắng ngọt bùi khổ đau
không trầu mà cũng chẳng cau
làm sao cho thắm môi nhau thì làm

(22-12-1993)

Nguồn: Nguyễn Duy, Về, NXB Hội nhà văn, 1994

Trịnh Công Sơn đã có nhận xét về Nguyễn Duy: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó…”.