Câu thơ tài hoa được nhiều người tìm đọc nhất hôm nay 08/05/2024

Tôi tìm em,em tìm ai
Để đôi khi tiếng thở dài hòa chung
Gần nhau mà chẳng yêu cùng
Đơn phương tôi cứ thủy chung một mình
Trái tim tôi vẫn để dành
Cho em - người vốn vô tình với tôi

Đơn phương - Phạm Đức

Top 20 bài thơ có tổng lượt xem nhiều nhất hôm nay 08/05/2024

Những bài thơ tình buồn khiến bạn xúc động rơi nước mắt

Những bài thơ tình buồn sẽ khiến bạn rơi nước mắt khi đọc, đó là những cảm giác đau nhói ở tim khi phải nói lời chia xa, khi còn yêu lắm nhưng mỗi người giờ đây đã đi về mỗi ngả. Hay chỉ là khoảnh khắc yêu xa nhớ lắm, thương lắm nhưng chẳng biết làm thế nào để gần nhau hơn, vỗ về người con gái ấy. Thơ tình buồn như chính nỗi lòng của bạn trong từng vần thơ ấy, gửi gắm tâm tư không thể nói nên lời đến với người ấy.

Có lẽ đọc những bài thơ tình buồn dưới đây, sẽ mang đến cảm giác thương nhớ khuôn nguôi đến bạn, nhưng cũng là cách để bạn tập quên đi những điều đã qua, và buông bỏ một cách nhẹ lòng hơn. Cùng đọc những bài thơ tình buồn khiến bạn rơi nước mắt dưới đây để cảm nhận nhé.

Thất Tình

Tác Giả: Thanh Linh
Tình hỡi bây giờ em ở đâu
Có nghe thương nhớ mộng ban đầu
Khi xưa ai nói lời hẹn ước
Bây giờ sao nỡ phụ tình nhau.

Ngày đó đôi mình tay nắm tay
Yêu thương chia sớt chuyện tâm đầu
Bao nhiêu cay đắng đời quên hết
Tình hỡi bây giờ em ở đâu?

Buồn

Có gọi là kỉ niệm được không anh
Khi duyên nợ trôn sâu miền kí ức
Vết thương hở em nhói đau lồng ngực
Nay gió về em lại nhói từng cơn

Thất Tình

Tác Giả: Tám Điêu Khắc
Em chẳng thấy bầu trời trong xanh nữa
Chẳng nghe chim ríu rít ở sau vườn
Chẳng còn mơ còn mộng trước ánh trăng
Ôm điện thoại nhắn những điều vô nghĩa

Em chẳng thấy tiếng yêu thương của Mẹ
Nét âu lo thầm lắng của người Cha
Bởi hồn em tan nát những đau buồn
Anh ác quá! Mình chia tay em nhé!

Sao lại thế trong em nghìn câu hỏi
Và hàng nghìn những đong đếm cân đo
Với người ta nhan sắc ấy bình thường
So học thức em còn trên một bậc

Em nhiều lúc muốn hỏi anh sự thật
Nhưng ngại mình không can đảm nên thôi
Đành lao vào công việc để tìm vui
Và an ủi tại số mình như thế!

Tình Là Già

Tình là gì…Tình yêu là gì
Mấy khi êm ái…nhiều sầu bi…!?
Tình là gì…đời sao vướng lụy
Tình là gì…sống phải lâm ly

Sáu mươi năm tuổi…chưa rõ lý
Trọn kiếp đời người…hỏi chi chi…!
Còn yêu còn thương còn suy nghĩ
Còn lụy chữ tình còn hoài nghi…!

Mưa Thu

Chiếc lá rơi chiều thu mưa lạnh
Lòng chơi vơi nhặt chiếc lá rơi
Lá cô đơn như lòng ta vậy
Nhìn mưa rơi sao ta đơn côi !!!

Thất Tình

Tác Giả: Đức Hạnh
Nếu lỡ ngày mai em thất tình
Có anh nào nhớ thương em không
Đừng để cho em buồn thương lắm
Chắc rằng em sẽ phai má hồng

Nếu mà em lỡ con thuyền hoa
Chắc lòng em sẽ hết ngây thơ
Sẽ là rất buồn Trong lòng lắm
Chẳng còn mơ mộng giấc mơ hồng
Nếu mà một ngày em thấy buồn
Chắc rằng lúc đó em nhớ thương
Tâm hồn cô quạnh trong chiều vắng
Thơ thẩn trong lòng rất đáng thương

Nếu vậy anh có thương em không
Chắc rằng anh sẽ chẳng nhớ mong
Một giấc mơ hồng Ngày xưa ấy
Và anh lạnh lùng bước sang sông

Người Buồn Cảnh Cũng Buồn Theo
Thơ thơ thẩn thẩn vu vơ
Buồn buồn bèn kiếm nàng thơ cũng sầu
Nỗi buồn ta biết gởi đâu
Bâng khuâng khắc khoải đi đâu cũng buồn…!

Người buồn cảnh cũng theo buồn
Câu từ trốn hết …nỗi buồn viết mô ?
Vui buồn đều gởi nàng thơ
Nàng thơ thối thoát…thờ ơ ta rồi…!

Ngày Vắng Em

Những giờ không em trời vơi nắng
Gió thêm buồn Mây nặng ưu tư
Hoa không thơm Bướm thôi chao lượn
Sóng ngừng trôi Biển nặng cô liêu

Ngày không em ngày sao dài thế
Từng giây trôi đi chậm ngược dòng
Cả không gian như đang ngưng đọng
Đang hướng về tâm điểm nhớ em

Đêm vắng em lòng sao lạnh lẽo
Sương không rơi trăng thôi không mơ
Giữa mênh mông trái tim đơn côi
Nỗi nhớ em thiêu đốt tim tôi

Mau về đi em hãy đến đây
Đến với tôi như chính em thôi
Với đôi môi mọng chín như sim
Cho ta say quên hết ngày dài.
Bỏ Yêu Rồi
Kể từ giờ trái tim tôi đóng cửa
Không yêu ai và cũng chẳng nhớ ai
Tôi lại về với chính tôi ngày trước
Sống cô đơn vô cảm không ưu tư

Và từ đây tôi cũng không buồn nữa
Để tâm hồn hai chữ hồn nhiên
Cứ như cỏ cây vô chi vô giác
Không buồn phiền không đau rát con tim

Bao muộn phiền đã theo dòng nước mắt
Sống cuộc đời một khoảng khắc bình yên !!!

Trả Hết Đau Thương
Đêm vắng đàn buông khúc bi ai
Ôm ấp đau Thuong tiếng thở dài
Vọng cỏi hư vô bay khắp nẻo
Giọng hát ai buồn nát tiếng reo

Gửi theo đêm vắng tình thu chết
Mòn héo tim đau ấp bấy lâu
Gió ơi gió hởi dùm ta nhé! ! !
Chở niềm đau dìm cuối trời sâu

Thơ tình buồn ngắn gọn

Những câu thơ tình buồn ngắn gọn luôn mang đến cho bạn cảm giác nhớ nhung, day dứt cho mối tình đã qua, mối tình đã chia xa. Thơ tình buồn như thay lòng bạn để giãi bày tâm tư ở trong đó với bao nỗi niềm cảm xúc: hờn giận, oán trách, ghen tuông, và cả tình yêu chân thành nhất bạn đã dành cho người ấy.

Thơ tình buồn chất chứ bao nỗi đau cho một mối tình còn giang dở, cả một bầu trời thương nhớ lại ùa về. Cùng trải lòng với câu bài thơ tình buồn dưới đây nhé.

Lời cuối cho anh

Nói thế nào cũng khiến trái tim đau
Thôi cứ thế chia tay nhau lặng lẽ
Kỷ niệm xưa hãy quên đi người nhé
Yêu thương nào rồi cũng sẽ nguôi ngoai

Tình đôi mình chẳng thể có ngày mai
Mong gì nữa chuyện tương lai hạnh phúc
Nói thế nào cũng không sao thuyết phục
Tranh luận rồi lại ấm ức được thua
Cắt nghĩa thế nào cũng nhận lấy xót chua
Tổn thương nhau liệu có vừa tâm ý
Trót vấn vương đừng làm nhau khó nghĩ
Nhận được gì hay cũng chỉ đắng cay?
Chẳng còn gì thôi cứ thế chia tay
Thứ hạnh phúc đi vay thì nên trả
Kể từ đây mình thành người xa lạ
Bước ngược đường nên hóa những người dưng!

Góc nhỏ cho anh

Anh quay về với góc nhỏ nơi tim
Bới kỷ niệm đi tìm hình bóng ấy
Trong ký ức còn đâu anh được thấy
Ánh mắt ai ướt vậy tím hoàng hôn

Hàng mi cong hứng giọt lệ tủi hờn
Chưa một lần nắm tay em thật chặt
Đôi vai gầy dưới chiều mưa cong vắt
Giờ chia tay…ai quặn thắt con tim

Thơ Tình: Nói Nhỏ Với Anh

Anh yêu ơi! Ghé tai em nói nhỏ
Sẽ bên người mãi mãi chẳng đổi thay
Nguyện bên anh yêu mãi mãi suốt đời này
Sưởi nồng ấm, những đêm đông lạnh giá…

Giá

Lời thơ tình tôi tặng riêng em.
Thưở học trò hai đứa còn khờ khạo.
Những chiều hè, tiếng ve rền khắp nẻo.
Tôi cùng em ngồi vắt vẻo bên cầu.

Con sông quê hiền hòa, ơn nặng nghĩa tình sâu .
Vũ trụ mênh mang , chẳng có gì hơn thế.
Nhớ không em? Bao năm rồi ấy nhỉ?
Giờ chúng mình tóc điểm màu sương gió.

Vẫn đong đầy kỉ niệm của thưở xưa.
Nếu ngày ấy tôi đừng lần nữa.
Thì bây giờ đâu có mất em.
Giá ngày đó tôi đừng khờ dại.
Thì giờ tôi mãi mãi có em..!

Thơ Ngắn Buồn: Vắng Thơ Anh

Anh vẫn thế về đêm trường vắng lặng
Em đừng buồn nếu nỡ vắng thơ yêu
Tình thiết tha đeo sầu nhớ rất nhiều
Dù đằm thắm mà không điều hy vọng
Mang sắc cài đêm gửi mộng cùng trăng
Tay ráng viết hồn dệt chằng cô quạnh
Đừng giận dỗi để yêu tình rẽ nhánh
Biết nói gì trong khuya lạnh miên man

Thương mỏng mảnh trong đêm ngàn lẩn khuất
Thả hồn thơ rồi tất bật đến giờ
Gửi xa vời bao ước vọng và mơ
Chỉ mang lại thật thờ ơ mưa đổ

Yêu rất nhiều gợi bão tố cuồng phong
Từng cảm xúc sâu trong lòng mãi đợi
Thời gian gửi sao bần thần chới với
Vắng tình thơ em chẳng vợi âu buồn !!!

Ân Hận Cũ

Hạ ấy xưa ngày tuyệt dáng đôi
Nắng đơm nụ thoảng nhú muôn chồi
Gió mơn cánh mỏng lùa quen lối
Lá xõa tô vời nhuộm mắt môi

Chung nhau sưởi ánh mình ái vội
Nối cảm ân say tiết vạn hồi
Quên lo phận mỏng vương ngàn lỗi
Chả tiếc duyên đầy nhạt nhẽo trôi

Ký Ức Buồn

Em đứng đó như đài hoa tỏa sắc
Mà sao em đeo mãi ký ức buồn
Hoài niệm qua em vẫn nhắc đến luôn
Để trời ngâu cứ mưa buồn rả rích

Sầu mà đong thì bao giờ vơi được
Có ai không ? Đánh thức được tim em !
Nhen lửa lên cho trời thu dịu êm
Cho đôi mắt đen đỡ buồn hưu quạnh

Sưởi ấm lòng cho con tim bớt lạnh
Khơi sóng tình bừng dậy giữa bâng khuâng!

Thơ Tình Buồn Cuối Hạ

Đưa em vào cuối hạ
Cơn mưa chiều đi qua
Góc sân khu vườn cũ
Phảng phất nhài hương hoa

Đếm thời gian trôi qua
Tuổi xuân ngày phôi pha
đời người không hổ thẹn
Cuộc sống vui chan hoà

Rồi Cuối Cùng

Rồi thế là em cũng đã mất anh
Yêu thương ấy vỡ tan thành mây khói
Câu hạnh phúc chỉ còn là dấu hỏi
Xoáy vào tim buốt nhói thật vô cùng

Lúc chúng mình ta chẳng thể bước chung
Em lặng khóc trước lạnh lùng ánh mắt
Tình đã hết niềm đau còn níu chặt
Tiếng biệt ly hiu hắt cả một đời

Biết bao lần em khẽ gọi người ơi
Chỉ có gió trả lời trong đêm tối
Vì yêu quá lại thành ra có tội
Họ quay lưng đổ lỗi tại duyên tình

Ai bây giờ đang dệt giấc mơ xinh
Bỏ em lại một mình trong đau khổ…

Thơ tình buồn chia tay

Thơ tình buồn chia tay có lẽ là những bài thơ mang đến cho bạn đọc cảm giác dằn vặt và đau khổ nhất. Cứ tưởng đi hết được trăm năm ai ngờ được vài năm rồi hết, tình cảm vốn dĩ không nói trước được điều gì. Tan hợp rồi hợp tan, đó là lẽ thường tình trong tình yêu đôi lứa. Ai yêu mà không trải qua cảm giác giận hờn, nhớ nhung và có cả chia ly.
Thơ tình buồn chia tay cho ta cảm nhận được nỗi niềm day dứt ấy lớn hơn bao giờ hết, niềm tiếc nuối cho một cuộc tình đã qua cũng như giúp bạn vượt qua được chính nuối tiếc ấy để bước tiếp về sau. Cùng đọc những bài thơ tình buồn ngay dưới đây nhé!

Thơ tình ngắn 4 câu

Rồi cuối cùng anh cũng đã quên em
Quên ánh mắt làn môi mềm lắng đọng
Quên làn tóc nụ hôn đầu cháy bỏng
Quên lời yêu làm gợn sóng một thời.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 02 ***
Rồi cuối cùng vòng tay cũng buông lơi
Không còn nhớ đến những lời yêu nữa
Không lưu giữ những gì ta từng hứa
Không vấn vương làm bếp lửa lạnh lùng.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 03 ***
Cuối cùng rồi tất cả chẳng còn chung
Đã chia cắt nửa vùng trời hoài niệm
Đã thẳng thắn không còn gì giấu giếm
Đã vùi chôn lời âu yếm xuống mồ.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 04 ***
Rồi cuối cùng chỉ còn khoảng hư vô
Như ảnh ảo soi mặt hồ óng ánh
Như trăng vỡ rụng rơi thành từng mảnh
Như giọt sươg rơi trên cánh lục bình.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 05 ***
Cuối cùng rồi cũng quay gót lặng thinh
Đường tình ái bước đăng trình..hai ngả
Lời đối đáp như hai người xa lạ
Ném ánh nhìn đầy dối trá hơn thua.
*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 06 ***
Hết yêu rồi …thôi chấp nhận chia ly
Khi trong tim nhau ta không là gì cả
Mặt đối mặt mà lòng xa xôi quá
Hết yêu rồi…níu giữ để làm chi.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 07 ***
Chẳng nỗi đau nào hơn những cuộc chia ly
Đau một lần thôi…rồi xa nhau mãi mãi
Càng níu giữ sẽ càng thêm mệt mỏi
Buông tay là đã giải thoát cho nhau.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 08 ***
Hết yêu rồi…kỷ niệm hãy vùi sâu
Thời gian nhiệm mầu sẽ làm vơi đau đớn
Hãy cố quên…đừng nhớ nhung lưu luyến
Chuyện đau buồn càng nhớ lại càng đau.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 09 ***
Chẳng có ai là phải thuộc về nhau
Nếu hết yêu hãy buông tay…đừng giữ
Hạnh phúc của ta phải do ta chọn lựa
Đừng làm khổ mình nếu lòng đã hết yêu.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 10 ***
Hết yêu rồi…đừng để nước mắt rơi
Nuốt nước mắt và cố cười vui vẻ
Dù trong lòng nỗi đau đang giằng xé
Phải kìm lòng …và mạnh mẽ buông tay.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 12 ***
Rồi ngày mai hai đứa mình tan vỡ
Anh buồn không khi dang dở kiếp này
Sẽ chẳng còn những đêm trắng nồng say
Môi hôn quyện tay trong tay hạnh phúc.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 13 ***
Tình chúng mình như hoa nở trái mùa
Nên em biết rồi cũng nhanh tàn úa
Tình đẹp mấy cũng thương đau ngày cuối
Buồn không anh mọi thứ kết thúc rồi?

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 14 ***
Chuyện đã rồi đành phải cố quên đi
Hãy chấp nhận những gì nơi thực tại
Dẫu con tim đôi lúc còn ngây dại
Kí ức buồn mãi khắc khoải khôn nguôi.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 15 ***
Giờ ăn năn cũng không kịp nữa rồi
Bởi chúng ta đã thành người xa lạ
Chỉ mong rằng mình đừng thêm vội vã
Như một thời nơi quá khứ xa xôi.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 16 ***
Nếu đường về đã chẳng thể sánh đôi
Thì hãy chúc cho nhau lời hạnh phúc
Vậy nhé em…khi tình ta kết thúc
Trả nhau về cái lúc chẳng hề quen.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 17 ***
Đừng giận hờn…oán trách chi nhau
Chẳng thể bên nhau thì chia ly …xa cách
Chuyện bình thường…có gì đâu đáng trách
Cố dối lòng…đâu phải cách yêu thương.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 18 ***
Đừng cố giả vờ vẫn nhớ …vẫn thương
Hãy buông tay …nhường cho người kế tiếp
Đừng cố níu khi tình yêu đã hết
Sẽ chỉ cho nhau thêm mỏi mệt…tổn thương.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 19 ***
Hợp rồi tan …đó là chuyện bình thường
Chẳng ai muốn …nhưng đời thường vẫn thế
Chẳng có con đường nào không vài ba lối rẽ
Cứ thẳng đường …có lẽ chẳng về đâu.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 20 ***
Còn gì hơn …quên hết chuyện đã qua
Nhường ai đó cùng người ta bước tiếp
Sống thật lòng đâu có gì đáng trách
Buông bỏ cũng là một cách để yêu thương.

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 21 ***
Em cứ tưởng chia tay lòng chẳng sợ
Những lụy phiền sẽ có cớ chìm quên
Nhưng nào hay đời trùng điệp thác ghềnh
Bước một bước lại gọi tên người hỡi…

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 22 ***
Em cứ tưởng chia tay lòng thôi đợi
Khi lối về ta chẳng tới điểm chung
Nhưng thấy anh bên kẻ khác tương phùng
Tim lại trỗi những hình dung thuở nọ

*** thơ chia tay ngắn 4 câu – 23 ***
Em cứ tưởng chia tay mình buông bỏ
Bởi ân nồng tựa cơn gió vụt tan
Nhưng người ơi sao quá đỗi bẽ bàng
Bao ngày cách vẫn hoài mang vụn vỡ.

Những bài thơ tình buồn hay nhất thế giới

Những bài thơ tình buồn nhất hay nhất, bạn đã đọc qua lần nào chưa? Tình yêu là thứ tình cảm thật kỳ diệu trong thế giới này. Tình yêu mang đến cho con người chúng ta bao cung bậc cảm xúc: vui có, buồn có hay những cảm giác hờn tủi, giận dỗi người yêu,…tất cả đều có trong những vần thơ tình buồn dưới đây. Những bài thơ tình buồn như thay lời muốn nói ra để giãi bày hết tâm tư tình cảm cho một mối tình còn giang dở giữa cuộc đời. Mời độc giả cùng xem và cảm nhận nhé

Một chút tên tôi đối với nàng

Một chút tên tôi đối với nàng
Sẽ chìm như tiếng sóng buồn tan
Âm thầm mòn mỏi bên bờ vắng,
Như tiếng đêm thâu lạc giữa ngàn.

Ngày nào đó trên mặt trang kỷ niệm
Nó chỉ còn là dấu vết không hồn
Giống như hình phác trên mộ chí
Nét ngoằn ngoèo một thứ tiếng xa xăm.

Tên cũ từ lâu bị lãng quên
Chẳng còn gợi lại được cho em
Tình xưa êm ái và trong trắng
Trước mối tình ai đang dấy lên.

Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
Em thầm thì hãy gọi tên lên
Và hãy tin: còn đây một kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim.

Vô tình

Vô tình anh gặp em
Rồi vô tình thương nhớ
Đời vô tình nghiệt ngã
Nên chúng mình yêu nhau.
Vô tình nói một câu
Thế là em hờn dỗi
Vô tình anh không nói
Nên đôi mình xa nhau
Chẳng ai hiểu vì đâu
Đường đời chia hai ngả
Chẳng ai có lỗi cả
Chỉ vô tình mà thôi.
Vô tình suốt cuộc đời
Anh buồn đau mải miết
Vô tình em không biết
Hay vô tình quên đi

Ghen

Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ…
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.

Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn, dù thấy cánh hoa tươi,
Đừng ôm gối chiếc, đêm nay ngủ…
Đừng tắm chiều nay, biển lắm người.

Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,
Mà cô thường xức, chẳng bay xa,
Chẳng làm ngây ngất người qua lại,
Dẫu chỉ qua đường, khách lại qua.

Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô
Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào, trong giấc mơ.

Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ.
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên

Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả.
Cô là tất cả của riêng tôi.

TRIỆU BÔNG HỒNG

Xưa một chàng họa sĩ
Có tranh và có nhà
Bỗng đem lòng yêu quý
Một nàng rất mê hoa

Và chiều lòng người đẹp
Để lấy tiền mua hoa
Chàng đã đem bán hết
Cả tranh và cả nhà

Chàng đã mua hàng triệu bông hồng
Ngoài cửa sổ cứ nhìn ta sẽ thấy
Rằng người yêu có yêu thật hay không
Khi bán nhà để mua hoa như vậy

Sáng hôm sau thức dậy
Nàng nhìn ra lặng người
Tưởng đang mơ vì thấy
Cả một rừng hoa tươi

Nàng ngạc nhiên, đang nghĩ
Ai đây chắc rất giàu
Thì thấy chàng họa sĩ
Đang tội nghiệp, cúi đầu

Họ gặp nhau chỉ vậy
Rồi đêm nàng đi xa
Nhưng đời nàng từ đấy
Có bài hát về hoa

EM HỎI ANH NÀY

Em hỏi anh này, thích em không?
Thích sao giấu mãi ở trong lòng
Không nói ra nhanh là mất đấy
Con gái như em khối kẻ mong.
Em hỏi anh này có nhớ em?
Đêm nằm mơ mộng giấc êm đềm
Ánh mắt nụ cười len giấc ngủ
Càng gặp nhau nhiều càng nhớ thêm?
Em hỏi anh này, anh có thương?
Giây phút hai ta bước chung đường
Trái tim có đập nhanh một nhịp
Để tạm biệt rồi lại vấn vương?
Em hỏi anh này, có yêu em?
Muốn nắm tay thon, khát môi mềm?
Chung sống trọn đời anh có ước?
Nếu yêu thì nói…nói nhanh lên !

Thơ tình buồn luôn biết cách khiến con người ta cảm giác buồn đến chạnh lòng. Tình yêu vốn là kết tinh nhân duyên tình cảm giữa hai con người xa lạ lại với nhau. Có những chuyện tình đi được đên hồi kết đẹp, nhưng có những mối tình chỉ đi cùng nhau được một đoạn mà thôi.

Nhưng đừng buồn nhé các độc giả, bởi một đoạn đó thôi cũng sẽ là một phần trong cuộc đời này của chúng ta, khoảng thời gian đó ta cũng đã là chính mình, yêu hết lòng và đau cũng hết dạ, khoảng thời gian ngắn ngủi ấy cũng đủ khiến ta trân trọng, để rồi sau này mỗi người đều sẽ tìm được khoảng trời riêng và hạnh phúc. Hi vọng những dòng thơ tình buồn trên đây sẽ làm vơi bớt đi nỗi buồn của bạn và giúp bạn vượt qua mối tình đã qua. Chúc bạn đọc thơ vui vẻ!

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh hay nhất

Top 12 Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh hay nhất

Sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2 năm 1941, Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn phong thái ung dung và tinh thần lạc quan của Bác.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 1

Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nho xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”.

Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức.

Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt – Trung, đó là hang Pác Bó. Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm hỉnh: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối “sáng” – “tối”, “ra – vào” đã cho chúng ta thấy được nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động “ra bờ suối” , “vào hang” cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống của Bác qua thời gian “sáng” – “tối”, hoạt động “ra” – “vào” và địa điểm “bờ suối” – “hang”.

Qua giọng điệu thơ dí dỏm, bạn đọc phần nào hình dung được tâm thế chủ động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, dân dã: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”.

Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật “cháo bẹ” và “rau măng”. Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. “Cháo bẹ”, “rau măng” luôn được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế “sẵn sàng” của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh.

Bác không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho toàn thể nhân dân, dân tộc.

Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình “chông chênh” gợi ra.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ “sang” đã phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác.

Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai “sang” theo kiểu của Bác. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho Bác, một tinh thần “thép” giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.

Để có được những bài thơ hay mỗi người làm thơ cần có tư duy và sự sáng tạo nhất định. Đặc biệt trong thơ ca thì việc sáng tạo cùng với cảm xúc của người sáng tác rất quan trọng, chính vì vậy bạn hãy cùng tham khảo danh sách những bài thơ hay để học tập cũng như có thêm kinh nghiệm để việc sáng tác hay tự làm thơ với phong cách riêng của mình dễ dàng nhất nhé.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 2

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó
(Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị. Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn.

Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận.

Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần vần,
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.

Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường. Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần.

Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân: Cuộc đời cách mạng thật là sang! Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy.

Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 3

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị quân sự tài ba, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XX. Bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” được Bác sáng tác vào tháng 2 năm 1941, tại Pác Pó (Cao Bằng). Qua bài thơ, chúng ta thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Người trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ. Có thể nói, tác phẩm là một bức chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản.

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến đầu năm 1941, Bác trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã sống và làm việc tại hang Pác Pó (Cao Bằng) trong một điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ.

Thế nhưng, khi phải đối diện với hoàn cảnh đó, Bác Hồ vẫn vui vẻ, lạc quan, tràn đầy tinh thần làm việc cách mạng hăng say bởi Bác đang được sống và làm việc ngay trên mảnh đất quê hương, đang trực tiếp dẫn dắt cả dân tộc ta tiến lên giành lấy ngọn cờ độc lập, hòa bình của đất nước. Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về cuộc sống của Bác ở Pác Pó – một cuộc sống khó khăn, thiếu thốn:

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Chỉ hai câu thơ rất ngắn gọn, gồm có mười bốn chữ cái nhưng nhà thơ đã gợi mở ra một không gian – thời gian sống, làm việc rất cụ thể, rõ ràng: nơi ở trong hang núi, nơi làm việc thì bên bờ suối và thức ăn là cháo bẹ, rau măng. Cách ngắt nhịp 4/3 thường thấy của thể thơ tứ tuyệt, kết hợp với lời thơ cân đối ( sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang) đã cho thấy một nếp sống sinh hoạt và làm việc rất đều đặn, trở thành một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt của Bác:

“Cháo bẹ” (cháo ngô), rau măng (măng nứa, măng tre, măng rừng) thật đạm bạc, đều là những thức ăn đơn sơ có sẵn của thiên nhiên núi rừng. Nhưng Bác không hề cảm thấy khắc khổ mà ngược lại thấy rất thoải mái, ung dung: “vẫn sẵn sàng”. Từ “vẫn” đã cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là sự thiếu thốn về vật chất với một bên là tinh thần thanh thản, lạc quan trước hoàn cảnh đó.

Ta đọc ở đây một nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như Bác đang bằng lòng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy. Đó là một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, với chốn lâm tuyền của núi rừng bí ẩn. Chẳng thế mà chúng ta luôn thấy, thiên nhiên từ lâu đã trở người bạn “tri kỉ” trong thơ của Người:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày…

Hay:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…

Cảm xúc, tâm trạng đó của Bác đã làm toát lên ở Người vẻ đẹp thanh cao trong sáng của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngoài, rất gần với cách sống của những bậc hiền nhân xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tuy nhiên, nếu người xưa tìm đến thiên nhiên, đến núi non lâm tuyền là để lánh đục tìm trong, thể hiện tâm thế “an bần lạc đạo”, là cách để họ di dưỡng tinh thần mà trốn tránh sự đời thì ở Bác dù có hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên hoa lá cỏ cây, trăng gió vẫn hiện lên tư thế của một người chiến sĩ cộng sản yêu nước, thương dân đang trực tiếp tham gia cách mạng cùng với nhân dân:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

“Bàn đá chông chênh” vừa là chiếc bàn của thiên nhiên rừng núi, lại vừa là chiếc bàn của lòng người. Bác đã biến phiến đá thông thường của tự nhiên làm thành chiếc bàn kê thật giản dị, đơn sơ cạnh một công việc lớn lao cao cả: “dịch sử Đảng”. Với việc sử dụng ba thanh trắc liền kề liên tiếp ở ba tiếng cuối câu thơ thứ ba tạo nên âm hưởng chắc khỏe cho lời thơ, đồng thời thể hiện một tư thế, một tâm hồn, một bản lĩnh cứng cỏi, vững vàng, chắc chắn.

Vì thế, chiếc bàn đá chông chênh kia thực chất là hình ảnh ẩn dụ để chỉ “tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn…” (Chế Lan Viên). Câu thơ đã dựng lên hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong một tư thế uy nghi, sừng sững, thật lớn lao trong một không gian rừng núi yên tĩnh. Và Bác hiện lên như một ông tiên giáng trần đang đọc sách và thưởng ngoạn cảnh núi non lâm tuyền ở Pác Pó.

Khép lại bài thơ, lời thơ thẳng thắn, nhẹ nhàng, chất chứa một nụ cười lạc quan: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Chỉ cần nhắc tới hai tiếng “cách mạng” thôi là chúng ta đã cảm thấy sự hiểm nguy, vất vả và gian khó như thế nào. Vậy mà Bác lại cảm thấy việc làm đó “thật là sang”.

Phải chăng cái “sang” mà Bác nói tới ở đây là vì giờ đây Bác đang được sống với thiên nhiên núi rừng Pác Pó, nơi quê hương Việt Nam yêu dấu mà suốt cả cuộc đời Người muốn đấu tranh để bảo vệ nó, và cao hơn, cái “sang” của công việc làm cách mạng đó là ý nghĩa, mục đích tôn chỉ cao đẹp mà Bác làm là: cứu dân, cứu nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Bởi cả cuộc đời Bác đều dành trọn cho cách mạng vì nước, vì non. Ta đọc trong câu thơ là một tấm lòng rộng mở, một nhân cách vĩ đại, lớn lao ở Người:

Bác ơi! tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, có sự kết hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, giọng điệu dí dỏm, vui tươi, ngôn từ dễ hiểu, giản dị, hình ảnh đời thường mộc mạc… tất cả đã làm nên thành công của tác phẩm. Khép lại trang thơ, người đọc thấy được một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi, phi thường vượt lên trên gian khó và luôn mang trong mình trái tim nhân hậu, bao dung: yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc ở Hồ Chí Minh.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 4

Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ khí để chiến đâu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ ‘Tức cảnh Pác Bó’ được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:

Sáng ra bở suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống rất kham khổ: ‘Cháo bẹ rau măng’, làm việc thiếu thốn ‘bàn đá chông chênh’, bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời gian là ‘sáng’, ‘tối’, không gian là ‘bờ suối’, ‘hang’ và trên nền của thời gian, không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc.

Cái từ ngữ chỉ hành động ‘sáng ra’, ‘tối vào’ gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: ‘tối vào hang, sáng ra bờ suối’ thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là: Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng yên, theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ ‘vẫn sẵn sàng’ của Bác ở câu thơ kế tiếp: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và một bài thơ hay đã bật lên được ‘chữ thần’. Cụm từ ‘vẫn sẵn sàng’ là điểm sáng của bài thơ.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến triết lí sống của người quân tử ngày xưa, ‘quân tử ăn chẳng cần no’. Bác sẵn sàng chấp nhận cuộc sống vật chất kham khổ với thái độ vui đùa, cười cợt. Bác coi thường cái gian khổ thậm chí cả những khi thân xác bị đọa đày đau xót, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn đùa cợt, dí dỏm.

Những bài thơ ‘Pha trò ‘, ‘Ghẻ’, ‘Dây trói’… trong ‘Nhật kí trong tù’ là thái độ ung dung tự tại trước những hoàn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ. Khác với người xưa: ‘an bần lạc đạo’, Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn hành động vì một lí tưởng cao cả: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá lại ‘chông chênh’, chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm hồn lạc quan. Bài thơ kết thúc: Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Ngôn ngữ thơ bình dị mà ý thơ thì lớn lao. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là thái độ ‘vẫn sẵn sàng’ thì sức nặng của bài thơ được dồn vào câu kết, đặc biệt với cụm từ ‘thật là sang! ‘. Đây cũng là một cách nói vui, nói quá lên, chất hài hước đó ta thường gặp trong thơ và trong cuộc sống đời thường của Bác. Chất hài hước này làm cho bài thơ gợi lên niềm lạc quan cách mạng sáng ngời.

Bài thơ ‘Tức cảnh Pác Bó’ là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ thể hiện một đạo lí sống cao đẹp nhưng lời thơ tự nhiên, không một chút vẽ vời hoa mĩ. Giọng điệu thơ rất gần với cách nói hàng ngày, ta có cảm giác Bác không cố ý làm bài thơ nhưng nó cứ đọng lại mãi trong tâm trí ta, sức sống lâu bền của bài thơ chính là chỗ đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 5

Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.

(Tố Hữu)

Năm 1941, sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác viết tại đây (tháng 2/1941) theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ.

Sáng ra bờ suối tối vào hang. Câu thơ, gợi nên cuộc sống bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu, mới về nước đang nhóm lửa, phải sống ở trong hang, làm việc ở hang. Không gian và cả thời gian chật chội, quẩn quanh, đơn điệu. Còn gì gò bó cho bằng những ngày, những tối, những tháng năm mà con người vốn sống phóng khoáng tự do phải chịu cảnh nhàm chán không thể thay đổi với hang, với suối quen thuộc đến trơ mòn.

Thế mà đọc lại câu thơ sáng ra bờ suối tối vào hangy ta thấy toát lên giọng điệu thơ thật thoải mái, phơi phới. Với cách nhịp 4/3 đã tạo thành hai vế đối sóng đôi: sáng ra, tối vào rất nhịp nhàng. Cuộc sống của Bác Hồ đã trở thành nề nếp, hòa điệu với nhịp sống của núi rừng rất ung dung. Qui luật vận động ấy đã thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.

Câu thơ thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc của câu đầu, có thêm nét vui đùa: lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ đến mức dư thừa: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Ba chữ vẫn sẵn sàng có nghĩa là cháo bẹ, rau măng luôn có sẵn, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người sống trong gian khổ khó khăn nhưng vẫn lạc quan yêu đời, ý tưởng này vẫn theo suốt trong con người Bác qua từng vần thơ khác:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt chè tươi mặc sức say

(Cảnh rừng Việt Bắc – 1947)

Cách nói vẫn sẵn sàng, tha hồ dạo, mặc sức say… sao mà sang trọng, hóm hỉnh và yêu đời đến thế! Còn gì thích thú hơn khi cuộc sống cần gì có nấy! Còn gì thú vị hơn khi được sống giao hòa với thiên nhiên. Ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về hang (nhà) để nghỉ ngơi và nghe tiếng suối trong mà đã có lần ta bắt gặp trong thơ Bác: Tiếng suối trong như tiếng hát xa.

Khác với người xưa Công thành thân thoái, mai danh ẩn tích ở chốn núi rừng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lý tưởng cao đẹp: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Bàn đá, đá ở đây là đá núi, đá tự nhiên. Trên cái bàn đá thô sơ ấy Bác viết Đường cách mệnh. Phong trào và cán bộ cần, Người dịch sử Đảng. Hình ảnh bàn đá chông chênh không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hy sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.

Đặt ba điều ấy vào trong cùng một hệ thống mới thấy sự nghiệp cách mạng mà người chèo lái gian nan biết chừng nào? Hiểu như vậy mới thấy những hy sinh, từ những chuyện nhỏ nhặt trong thời gian dài của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác cũng là người cũng bình thường như tất cả chúng ta, nghĩa là biết đói, biết rét, biết thiếu thốn, ấy là chưa kể những chông gai mà người vượt qua trên con đường cách mạng.

Nhưng kỳ lạ thay, câu kết bài thơ không đi về hướng ấy: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đầy đủ, rất cao quí. Con người rơi vào hoàn cảnh cao sang, nhất là thật là sang thì hạnh phúc có thể coi là đã đến tột độ. Nhưng đối với Bác thi lại là hang tối, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh thi sao gọi là sang được?

Phải chăng niềm vui lớn nhất, niềm vui vô hạn của người chiến sĩ cách mạng sau ba mươi năm xa nước đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước (Chế Lan Viên), nay được trở về sống giữa lòng đất nước yêu dấu, trực tiếp lãnh đạo cách mạng để cứu dân cứu nước:

Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mà đến bây giờ mới tới nơi

(Tố Hữu)

Đặc biệt, lúc này Bác Hồ còn rất vui vì người tin chắc rằng thời cơ giải phóng dân tộc đang tới gần, điều mà Bác chiến đấu suốt đời để đạt tới đang trở thành hiện thực. So với niềm vui lớn lao đó thì những gian khổ trong sinh hoạt có nghĩa lý gì? Tất cả đều trở thành thật là sang vì đó là cuộc đời cách mạng, được cống hiến cho cách mạng.

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài thơ như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt nam mà Bác là người chèo lái, gợi lên trong lòng người đọc chúng ta bài học về tinh thần lạc quan, biết sống và hướng về một lý tưởng cao đẹp.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 6

Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên trung, bất khuất Bác còn là một con người hết sức lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt. Những vần thơ hóm hỉnh như:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng

Săn về thường chén thịt rừng quay

Non xanh nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say

Những vần thơ như vậy xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm của Bác. Đặc biệt trong thời gian đầu cuộc kháng chiến của dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, phải hoạt động nơi rừng núi Cao Bằng, nhưng không vì thế mà tinh thần ung dung, lạc quan bị mất đi. Nó được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Mở đầu bài thơ gợi nên không gian hoạt động bí mật của Người ở Việt Bắc: Sáng ra bờ suối tối vào hang. Câu thơ tạo thành hai vế rất cân đối với nhau, thời gian sáng tối, không gian suối – hang, hoạt động ra – vào, cho thấy nhịp sinh hoạt hết sức nề nếp, đều đặn và hết sức nhịp nhàng của người.

Đồng thời cũng cho thấy không gian hoạt động bí mật và còn hết sức khó khăn. Trong giai đoạn đầu, cách mạng còn non yếu, chưa có thế và lực nên phải hoạt động bí mật và gặp nhiều khó khăn nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại vẫn hết sức ung dung, tự tại. Quy luật vận động đó cũng khẳng định tinh thần làm chủ hoàn cảnh, chủ động, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

Không chỉ khó khăn, thiếu thốn trong không gian sống, mà sự khó khăn ấy còn hiện lên trong cả bữa ăn, nơi làm việc của Bác:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Câu thơ cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan của Bác. Núi rừng thiên nhiên Việt Bắc vẫn luôn sẵn sàng cháo bẹ, rau măng phục vụ cho người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ vừa cho thấy cái gian khổ, khắc nghiệt mà Bác phải đối mặt, nhưng đằng sau đó còn là nụ cười hóm hỉnh của một con người tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hết sức lạc quan yêu đời.

Và hàng ngày Người vẫn ngồi bên bàn đá chông chênh viết Đường cách mệnh, phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Hai chữ chông chênh gợi lên tư thế không chắc chắn, không vững vàng, cho thấy những khó khăn chất chồng của hiện thực cuộc kháng chiến. Nhưng trên nền hoàn cảnh khắc nghiệt đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ, để thực hiện nghĩa vụ, lí tưởng cao đẹp của mình, quả đáng trân trọng và khâm phục.

Dù hoạt động cách mạng gian khổ là vậy, nhưng câu kết của toàn bài lại đem đến cho người đọc sự bất ngờ, mà cao hơn chính là cảm phục: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang được hiểu là sang trọng, đầy đủ. Nhưng trong hoàn cảnh của Bác, ăn uống, nghỉ ngơi thiếu thốn trăm bề liệu có thật sang không?

Đối với Bác điều đó không phải sang, mà cái sang nhất ở đây chính là dịch sử Đảng, là được hoạt động cách mạng để thực hiện lí tưởng đẹp đẽ của mình, đem lại độc lập, tự do, cho dân tộc. Giọng điệu thơ tự nhiên, dí dỏm, mà cũng rất khẩu khí, khẳng định tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý tại ngôn ngoại, lời thơ hàm súc cô đọng, cùng với giọng điệu thơ hỏm hỉnh, vui đùa đã làm nổi bật lên chân dung người chiến sĩ cách mạng. Đó là một con người mang trong mình phong thái ung dung, lạc quan, mang trong mình lí tưởng cao đẹp, cứu nước, cứu đời.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 7

Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức..), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.

Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẩn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau.

Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (…) Sức khoẻ của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (…)

Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được…”

Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn rất đen tối.

“Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (…) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.

Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.

Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hòa hợp nhịp nhàng với điệu sống núi rừng: Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào…

Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn san sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.

Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ. Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết câu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ.

Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khỏe, sinh động:

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng. Hai chữ “chông chênh” là lừ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử Đảng” toàn vần trắc, thật khỏe, gân guốc như cân lại ba câu. Vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hòa tan trong thiên nhiên.

Và thật là thú vị, vị “khách lâm tuyền” sống hòa hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại – một hình tượng thật đẹp.

Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” – trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng… Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mất) đã kết tinh, bật sáng tinh thần toàn bài.

Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 8

Ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch, hay bên Pa-ri ; đối mặt trực tiếp với gián điệp và thực dân Pháp hay những ngày trở về nước hoạt động cách mạng ta đều nhận ra con người hóm hỉnh, bông đùa, lạc quan vượt lên trên tất cả những khó khăn của đời sống ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nét tính cách được tôi luyện trong trường đấu tranh gian khổ. Và tất cả đã đi vào thơ Bác với những nét chân thực nhất. Tức cảnh Pác Bó là một trong số những bài thơ như thế!

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Tháng 2 năm 1941, sau hơn ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Pác Bó chính là nơi Người sống và hoạt động trong những ngày đầu tiên về nước. Đó là một địa danh nằm ở vùng núi Cao Bằng, ở đây đời sống vật chất còn rất khó khăn.

Đã ngoài năm mươi tuổi rồi vậy mà Người phải sống trong một cái hang rất nhỏ, muốn ra vào phải trèo lên, chui xuống, tăm tối và ẩm ướt gọi là hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhưng những thiếu thốn về vật chất không làm tinh thần Người nao núng. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như thế.

Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian – thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Không gian ở đây là những mảng không gian của vùng sơn cước: suối và hang. Thời gian có sự luân chuyển: sáng đến tối. Không gian và thời gian đều có sự thay đổi, chuyển hóa. Nhưng thực ra không phải là sự chuyển hóa sang một không gian khác, mới hơn mà là sự lặp lại của những miền không gian đã quá quen thuộc: suối và hang.

Hành động của con người chỉ gói trọn trong hai động từ: ra và vào. Câu thơ không dư thừa thông tin. Nó chỉ vừa đủ để thông báo một ngày rất bình thường như biết bao ngày khác. Sáng thì ra bờ suối làm việc, tối lại quay về hang. Lời thơ cân đối, đều đặn: sáng – tối ; suối – hang, ra – vào. Sự đều đặn đó thể hiện một nếp sống, một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt.

Câu thơ thứ hai, Người nói đến sinh hoạt cụ thể nơi Pác Bó: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, “rau măng” là loại măng rừng được lấy làm thức ăn. Đó đều là những món ăn rất dân dã, đạm bạc của người dân vùng sơn cước. Ở thì ở trong hang, làm việc bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng,… một cuộc sống đầy những thiếu thốn nhưng ta vẫn bắt gặp một tinh thần lạc quan, một nụ cười hóm hỉnh qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”.

“Vẫn sẵn sàng” có thể hiểu theo hai nghĩa: “cháo bẹ rau măng” – những thức ăn quen thuộc của người miền núi lúc nào cũng sẵn có. Nghĩa thứ hai bộc lộ rõ tinh thần của nhà thơ: dù cuộc sống thiếu thốn nhưng tinh thần cách mạng luôn sẵn sàng. Với nghĩa này, câu thơ toát lên một niềm lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh sống. Câu thơ gợi nhớ đến vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về cuộc sống vật chất đơn sơ, giản dị của mình:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hay ta bắt gặp ở đây nghệ thuật trào lộng khi viết về những thiếu thốn vật chất trong đời sống đã có từ thơ ca truyền thống:

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà,

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.

Ao sâu nước cả, khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.

(Nguyễn Khuyến, Bạn đến chơi nhà)

Đó là nét nhân cách rất đáng trọng của những con người “an bần lạc đạo”. Nghèo khổ không hề làm họ mất đi nụ cười. Họ cười hóm hỉnh chính cái nghèo của mình. Cuộc sống bi mà không làm họ luỵ. Hồ Chí Minh vẫn giữ được những nét truyền thống trong cuộc sống của mình.

Bác vẫn vui với cái nghèo của cuộc đời cách mạng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất. Phải là một con người có tinh thần và nghị lực cách mạng phi thường mới có thể tạo cho mình một phong thái ung dung trong một hoàn cảnh như thế. Dù sống trong cảnh thiếu thốn con người đó vẫn sống và hoạt động say mê:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Đến đây ta nhận ra điều khác biệt giữa Bác Hồ và các vị hiền triết xưa kia. Nếu như biết bao người: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến về với chốn thôn dã, vui thú điền viên để lánh đời, quên đi thế sự đang xoay vần điên đảo thì Bác Hồ về với vùng sơn cước “thâm sơn cùng cốc” để hoạt động do yêu cầu cần giữ bí mật của cách mạng.

Dù có ở vùng núi nhưng vẫn là dấn thân vào xã hội, vào trường hoạt động cách mạng gian khổ. Bác Hồ đâu phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Câu thơ như muốn vượt qua những gì không ổn định để đi đến một thế vững vàng. Bàn đá chông chênh tạo nên một tư thế không vững chãi. Đó là nơi Bác ngồi làm việc. Bàn đá của thiên nhiên.

Nhưng cụm từ “dịch sử Đảng” như một lời khẳng định chắc nịch cho sự vững lòng với công việc của mình. Để đến câù thơ cuối là một lời kết thúc vui tươi, hóm hỉnh: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Bác vẫn tìm ra một nét đặc biệt đằng sau tất cả những thiếu thốn vật chất của cuộc sống đời thường – cũng chính là một phần của cuộc đời cách mạng. Người tìm ra nét “sang” trong những gì giản dị, đơn sơ nhất.

Từ “sang” vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có vừa có nghĩa diễn tả một phong thái vượt lên trên tất cả những gì tầm thường của vật chất để có một tinh thần lạc quan, tự tại. Câu thơ như một nụ cười ngạo nghễ của một con người đã chiến thắng hoàn cảnh bằng chính tinh thần lạc quan của mình.

Bài thơ như một nhật kí bằng thơ ghi lại cuộc sống của Người nơi núi rừng Pác Bó. Người đọc nhận ra và kính trọng một nhân cách cao đẹp trong một cuộc sống rất đỗi đời thường. Đó chính là phong thái đặc biệt khó quên của Hồ Chủ Tịch.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 9

Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.

Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú. Trong đó, hay nhất là bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”,được ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ.

Lúc bấy giờ Bác phải sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau; bàn làm việc là bàn đá chông chênh bên bờ suối Lê- nin cạnh hang. Bài thơ đã diễn tả được phong thái ung dung, tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác.

Trước hết ta nên hiểu ”thú lâm tuyền” là: cách chơi vui thú,tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ, lâm tuyền là rừng núi và khe suối nước chảy, thú vui của Bác là yêu thiên nhiên, yêu rừng Pắc Bó, cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng nước róc rách dưới khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người .

Mở đầu bài thơ Bác viết: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Ngay câu đầu tiên Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nề nếp sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng của mình, tuần hoàn theo thời gian nhất định, từ sáng tới tối đều gắn bó với thiên nhiên .Với nghệ thuật đối: “sáng- tối”, “ra- vào”, “bờ suối- hang”, Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sinh động tương phản thật hài hòa, hợp lí.

“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”. Nếu câu thơ thứ 1 nói về công việc nơi ở của Bác thì câu thơ thứ 2 lại nói đến cuộc sống sinh hoạt ăn uống thường nhật của Bác, ở nơi rừng núi thiếu thốn trăm bề , Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng: cháo bẹ, rau măng. Dù khó khăn là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài lòng, chấp nhận, sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở.

Tiếp theo ở câu thứ 3: “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”. Đã cho thấy vẻ đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động.

“Thú lâm tuyền” của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này. Dù hoàn cảnh thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như không thể cản được việc lớn (dịch sử Đảng) của Bác, từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác .

Câu cuối bài thơ như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Câu thơ ấy đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Tuy làm cách mạng gian khổ là vậy nhưng đối với một vị lãnh tụ lại thật là “sang”. Cái “sang” này không phải là “sang” về mặt vật chất mà là “sang” về tinh thần. Được hoạt động cách mạng để cứu nước là một niềm vui đối với Bác, niềm vui này không thể mua được. Nó là vô giá!

Có thể nói, bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,nghệ thuật đối, cùng giọng văn hóm hỉnh, bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã cho chúng ta thấy “thú lâm tuyền” của Bác thật khoáng đạt, qua đó còn cho thấy tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước sâu nặng luôn tiềm tàng trong con người đáng kính này.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 10

“Người lãnh tụ, nhà nghệ sĩ

Của mỗi người của cả trăm quê

Trái tim lớn đập hoài không nghỉ

Những buồn vui, căm giận, say mê …”

(Giang Nam)

“Buồn vui, căm giận, say mê …” của Bác xuất phát từ lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc nồng nàn. Bác hoạt động chính trị (người lãnh tụ), và làm thơ (nhà nghệ sĩ) cũng là để thể hiện lòng yêu thương cao cả ấy. Nhiều lúc cả hai công việc như hòa làm một trong con người Bác. Điều ấy đã được chứng tỏ ở những bài thơ Người sáng tác ở núi rừng Việt Bắc khi từ nước ngoài về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước mà bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một ví dụ.

Bài thơ được làm theo thể Đường luật tứ tuyệt vời đúng niêm luật của thể loại thơ này. Mở đầu là câu Khai, nhà thơ viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Câu thơ giới thiệu thời gian, nơi chốn và việc thường làm được ngắt nhịp 4/3 bằng dấu phẩy một cách rõ ràng, dứt khoát. Đọc câu thơ ta có cảm giác ngày ngày, mỗi sáng mỗi tối nhà thơ đều lặp lại hành vi “ra, vào” ấy. Tại sao?

Bác đang trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Công việc của một lãnh tụ chính trị không giống công việc của một nhà thơ, nhất là với một lãnh tụ chính trị đang hoạt động chống lại tập đoàn thống trị để giành lại độc lập, tự do cho nước cho dân.

Tất yếu là lãnh tụ phải làm nhiều công việc đúng với vai trò lãnh đạo phong trào. Nhưng thuở ban đầu cơ ngơi không có, Để tránh bị truy lùng, Bác tìm nơi hiểm trở để đặt cơ quan đầu não cho hoạt động ban đầu. Công việc của lãnh tụ phần lớn là vạch đường lối, kỷ cương, kế hoạch,… Ánh sáng để làm việc và an toàn trong hoạt động cách mạng là ý nghĩa sâu xa của “Sáng ra, tối vào” ở câu Khai.

Nếu câu Khai giới thiệu thời gian, nơi chốn để làm việc và nghỉ ngơi thì ở câu Thừa nhà thơ giới thiệu bữa ăn hàng ngày của mình: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Hai món trong một bữa: cháo ngô (bắp, bẹ), và rau măng. Nhưng không chỉ là một bữa mà là mọi bữa.

Cụm từ “vẫn sẵn sàng” gợi cho người đọc cảm nhận đó. Ấy là bữa ăn để nuôi mạng sống mà người dấn thân phải chấp nhận. Ngày trước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi khi dấy nghĩa ở Lam Sơn cũng có lúc lâm vào hoàn cảnh:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Khi khôi huyện quân không một đội

Cực khổ từ miếng cơm manh áo, nơi ăn chốn ngủ nhưng Hồ Chí Minh vẫn: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Một cách hiểu giản dị, nôm na là không có cả bàn để làm việc, dù là một việc quan trọng là dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu học tập tư tưởng cho cán bộ cách mạng thời bấy giờ. Không có bàn ư? Thì lấy đá làm bàn. Thử tưởng tượng hình ảnh Bác say sưa làm việc bên cái bàn “chông chênh” ấy để thấy rõ tính nghệ sĩ lẫn sự say mê công việc của Người! Câu chuyện của bài thơ có ý nghĩa như thế!

Dinh thự của một lãnh tụ chỉ là cái hang bên bờ suối, thức ăn mỗi bữa thuần là “cháo bẹ, rau măng, chỗ làm việc là bàn đá chông chênh ” bên suối, vậy mà Bác vẫn cho rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Câu hợp của bài thơ phảng phất phong thái của các chí sĩ thuộc thế hệ trước. Chuyện tù đày gian lao với Phan Bội Châu thì:

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Còn với Phan Chu Trinh thì:

Gian nan chỉ kể chuyện con con.

Ấy là tâm trạng lạc quan trước nguy hiểm, tù đày, gian khổ của những người chấp nhận dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là con đường đầy nước mắt, đầy máu; là cái giá phải trả để có được độc lập và tự do. Không mang tâm trạng lạc quan trước gian khổ, nguy hiểm thì ít ai thành công, thành danh được.

Trước cái chết vẫn lạc quan không run sợ thì sống với “cháo bẹ, rau măng” cũng đã sang lắm rồi! Ngày trước, sau khi thôi làm quan, Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn tìm vui với trúc, thông và với suối mát. Trong:

Nghìn mẫu xanh chen chúc

Ta đủng đỉnh ngâm dưới gốc

Hỏi ai sao chẳng sớm quay về

Nửa đời vui mãi trong lầm tục

Muôn chung chín vạc để làm gì?

Cũng là vui thú lâm tuyền nhưng cái vui của Hồ Chí Minh khác xa cái vui của Nguyễn Trãi. Khái quát về sự khác biệt ấy là: với Nguyễn Trãi, vui thú lâm tuyền sau khi đã hoàn thành sự nghiệp khởi nghĩa chống quân nhà Minh, sau đó làm quan, và rồi xa lánh đời “lầm tục”; còn với Hồ Chí Minh thì vui thú lâm tuyền lúc mới khởi nghĩa chống Pháp, đang trực tiếp lãnh đạo các lực lượng chống lại chủ nghĩa thực dân.

Tức cảnh Pác Bó, một bài thơ tứ tuyệt có ngôn ngữ giản dị; dễ hiểu và gợi những hình ảnh rõ ràng về sự khó khăn, gian khổ trong những ngày đầu cách mạng của một lãnh tụ. Âm điệu của bài thơ, nhất là những từ cuối của mỗi câu kết hợp với ngữ nghĩa của toàn bài khiến người đọc cảm nhận được sự thỏa mái, chấp nhận cảnh sống khó khăn lúc bấy giờ vì lý tưởng cao quý mà nhà thơ đang cố thực hiện. Hẳn nhiều người đọc cũng học được bài học lạc quan ở bài thơ này.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 11

Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Giây phút thiêng liêng và cảm động ấy đã được nhà thơ Tố Hữu ghi lại:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về… Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

(Theo chân Bác)

Từ đó hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ.Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước.

Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng: Sáng ra bờ suối / / tối vào hang. Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là sáng và tối; không gian là suối và hang; hoạt động là ra và vào. Một hoạt động đã trở thành nề nếp, từ sáng đến tối, từ suối đến hang, ra đến vào. Khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiều khó khăn, người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”.

Quy luật vận động ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.Câu thơ thứ hai, ba chữ vẫn sẵn sàng có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Cách hiểu thứ nhất là: Cháo bẹ rau măng nhưng sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người sống trong gian khổ khó khăn nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng giàu có hào phóng ấy, được Người nhắc lại trong bài Cảnh rừng Việt Bắc đầu xuân 1947.

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay.

Non xanh nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say..

.Vẫn sẵn sàng, tha hồ dạo, mặc sức say,… là những cách nói hóm hỉnh và yêu đời.Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hăng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần vẫn sẵn sàng, Người vẫn bền bỉ sáng niềm tin nhóm lửa:

Ai hay ngọn lửa trong hang núi

Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!.

(Theo chân Bác)

Khác với người xưa công thành, thân thoái, mai danh ẩn tích ở chốn núi rừng, Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Đất nước cần, Bác viết Đường cách mệnh. Phong trào và cán bộ cần, Người dịch sử Đảng. Hình ảnh bàn đá chông chênh không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà con biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.

Câu cuối bài thơ đọc lên nghe rất thú vị. Một câu cảm thán vang xa:Cuộc đời cách mạng thật là sang! Sang nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là sang. Chỉ có cháo bẹ rau măng, chỉ có bàn đá chông chênh mà vẫn sang.

Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh Nhật đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:

Mong manh áo vải hồn muôn trượng,

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

(Bác ơi)

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.

Bài văn phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh số 12

Trong tim mỗi con người Việt Nam ta không bao giờ có thể quên được những cống hiến, hi sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc mình. Bác không chỉ dạy chúng ta sống ở trên đời sao có ích, Bác còn để lại nền văn học Việt Nam ta những bài thơ hay đặc sắc. Tiêu biểu trong những bài thơ ấy phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Người.

Ba câu thơ đầu thể hiện được cuộc sống sinh hoạt của Hồ Chí Minh ở Pác bó. Nơi đây không có những món ngon vật lạ, không trang hoàng lộng lẫy như phủ chúa xưa mà nơi đây chỉ có những món ăn thiên nhiên luôn sẵn có:

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Buổi sáng thức giấc, Người ra bờ suối trong lành, tối Người lại trở về hang sâu. Nơi đây Người làm bạn với thiên nhiên, ăn ở với thiên nhiên hòa mình vào thiên nhiên mà sống chan hòa. Thức ăn hàng ngày của một vị lãnh tụ là cháo bẹ và rau măng. Những thứ ấy không xa xỉ nhưng luôn sẵn có.

Điều đó cho thấy được sự thanh cao đạm bạc trong cuộc sống của Người. Nơi hang tối ấy Người vẫn không ngừng làm việc để tìm những bước tiến cho cách mạng nước nhà. Chẳng có bàn lim ghế gỗ, Người ngồi trên bàn ghế đá chông chênh để dịch sử Đảng. Ở đây ta thấy được một cuộc sống thanh bình không bom đạn, giản dị nhưng thanh cao, khó khăn mà yên bình không tiếng súng.

Sống trong hoàn cảnh ấy, Người không những không chán nản mà còn cho đó là “sang”: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Đối với Người như vậy là quá sang rồi bởi vì ở ngoài kia Người biết còn có hàng trăm nghìn người không có gì để ăn, những đứa trẻ khát sữa, những người mẹ nhịn đói cho con ăn, những người bà còng lưng gồng gánh, những người lính ăn bữa này nhịn bữa kia.

Bài thơ chỉ vỏn vẹn có bốn câu thôi nhưng đã thể hiện được cuộc sống của Hồ Chí Minh nơi pác Bó. Đồng thời qua đó ta cũng cảm nhận được vẻ đẹp trong nhân cách của Người, giản dị đạm bạc và thanh cao.

Qua bài thơ, ta học tập được tinh thần lạc quan của Bác. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng phải thích nghi và yêu đời. Hi vọng bài viết hữu ích với bạn trong việc tham khảo để làm tốt bài văn của mình. Chúc các bạn học tốt.

Kén Chồng

Kén Chồng

Kén Chồng (Hàn Mặc Tử)

Gương sáng hoa thơm mảnh má đào
Giữ gìn giá ngọc quyết treo cao
Quả mai ba bảy đương vừa lứa
Bến nước mười hai vẫn cắm sào
Trướng chấu chi nên đêm tịch mịch
Bình minh cố đợi khách anh hào
Nhắn nhe chú mán anh mường biết
Thấy quế rừng xanh chớ ước ao

Mlle Bích Ngọc

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Kén Chồng” của tác giả Nguyễn Trọng Trí. Thuộc danh mục Thơ Hàn Mặc Tử trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Thuyền Và Biển

Thuyền Và Biển

Thuyền Và Biển (Xuân Quỳnh)

Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển:

“Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi

Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa… còn xa

Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ

Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)

Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu

Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau – rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió”

Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố

4-1963

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Thuyền Và Biển” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Thuộc tập Chồi Biếc (1963), danh mục Thơ Xuân Quỳnh trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Qua Nhà

Qua Nhà

Qua Nhà (Nguyễn Bính)

Cái ngày cô chưa có chồng
Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa
Lối này lắm bưởi nhiều hoa…
(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)
Một hôm thấy cô cười cười
Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng
Biết đâu, rồi chả nói chòng:
“Làng mình khối đứa phải lòng mình đây!”

Một năm đến lắm là ngày
Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm sao có một quãng đồng mà xa
Bờ rào cây bưởi không hoa
Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo.

Lợn không nuôi, đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thời mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.

1936

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Qua Nhà” của tác giả Nguyễn Trọng Bính. Thuộc tập Tâm Hồn Tôi (1940), danh mục Thơ Nguyễn Bính trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Những câu nói về tình yêu sau khi chia tay buồn tha thiết khiến ai cũng phải rơi lệ

Sau khi chia tay luôn là thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời của chúng ta với bao cảm xúc: tiếc nuối, nhớ nhung, còn yêu rất nhiều, hối hận… Để có thể cùng bạn chia sẻ những thăng trầm đó của suy nghĩ và tình cảm, hôm nay phongnguyet.info xin gửi đến các bạn bài viết Những câu nói về tình yêu sau khi chia tay buồn tha thiết khiến ai cũng phải rơi lệ. Cùng đọc và chiêm nghiệm, bán nhé!

nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-1nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-2nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-3nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-4nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-5

Những câu nói về tình yêu sau khi chia tay buồn tha thiết khiến ai cũng phải rơi lệ

nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-6nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-7nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-8nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-9nhung-cau-noi-ve-tinh-yeu-sau-khi-chia-tay-buon-tha-thiet-khien-ai-cung-phai-roi-le-10

Bạn ơi hãy luôn nhớ rằng, chia tay không phải là kết thúc của tất cả mà chia tay là cơ hội để bạn có thể nhìn lại bản thân mình, có thể hỏi xem rốt cuộc mình cần gì, muốn gì và có thể cho đi những gì, từ đó có sự chuẩn bị tốt hơn dành cho những mối quan hệ sau này trong cuộc sống. Hy vọng rằng bạn cảm thấy bài viết Những câu nói về tình yêu sau khi chia tay buồn tha thiết khiến ai cũng phải rơi lệ trên đây của phongnguyet.info thực sự có ý nghĩa đối với mình. Hãy cùng chúng tôi chia sẻ bài viết này đến với nhiều người hơn nữa nhé!

Xuân Như Ý

Xuân Như Ý

Xuân Như Ý (Hàn Mặc Tử)

Thần trí cao dâng đến chín trời
Cung cầm rất lạ nỗi chơi vơi
E khi mùi đạo là hương đức
Đớp mắt lên cho chí rụng rời
Hào quang vây riết điềm chiêm bao
Chúa hiện ra trong điệu nhạc nào
Đầy rẫy no nê nguồn sáng láng
Rất nên trăng ngọc với vàng sao
Phút giây hoan lạc ngớp vô song
Bờ bến thơ đây rộn gió lòng
Ý đã nên sang, tình phải trọng
Cho mau! Lời nguyền nóng lên không
Chúa tôi, trên hết báu thanh xuân
Rất đã, rất no, ớn bội phần
Lời đẹp cao rao muôn trượng cả:
Đây, xuân như ý, nguyện như rằm.

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Xuân Như Ý” của tác giả Nguyễn Trọng Trí. Thuộc danh mục Thơ Hàn Mặc Tử trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Không Đề 43

Không Đề 43

Không Đề 43 (Thu Bồn)

Con sông đủ rộng dài ra tới biển
Đó là cơn khát nghìn đời ta không uống để nhường sông
Nếu cứ khát mỗi lần là uống
Đến bây giờ mặt đất trắng như không

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Không Đề 43” của tác giả Hà Đức Trọng. Thuộc tập 100 Bài Thơ Tình Nhờ Em Đặt Tên (1992), danh mục Thơ Thu Bồn trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Vườn Cũ

Vườn Cũ

Vườn Cũ (Tế Hanh)

(Kỷ niệm Tường Đông)

Cánh cổng đi vào run rẩy đưa;
Lối đi cỏ rậm phủ che vừa.
Ngôi nhà mái cũ rêu in lớp
Hé bức rèm đơn đỡ nắng trưa.

Nắng nhớ rưng rưng chớp lệ mờ
Mây buồn đôi mảnh vẩn lơ thơ.
Cỏ cây im lặng như từ thuở
Đôi lứa xa nhau vẫn đợi chờ.

Cây ổi, cây xoài vẫn đứng đây;
Cây lê vẫn ngả ở bên này
Ngoài kia hàng chuối thân trơn mát
Đôi lứa hay ôm áp má đầy…

Đôi má tròn xinh của tuổi đương
Mê ăn, mê ngủ sống như thường
– Một mình trở lại bên cây chuối
áp má vào cây thấy cấn xương.

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Vườn Cũ” của tác giả Trần Tế Hanh. Thuộc tập Nghẹn Ngào (1939), danh mục Thơ Tế Hanh trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Bài thơ Hay Là hấp dẫn và ấn tượng của nhà thơ Nồng Nàn Phố

Bài thơ Hay Là được trích trong tập thơ Ngủ Thêm Đi Anh, Em Phải Dậy Lấy Chồng nổi tiếng của nhà thơ Nồng Nàn Phố. Mặc dù còn ít tuổi nhưng chị đã cho ra đời những bài thơ vô cùng ý nghĩa về tình yêu đôi lứa. Hãy cùng nhau theo dõi qua bài viết này nhé!

Đừng bỏ tay em ra khi nhung nhớ vẫn vơi đầy

Yêu khổ quá hay ta làm người dưng anh nhỉ
Chỉ đi ngang nhau để thấy bình thường
Không nhức nhối ngón tay gầy ai đó
Ngày mới bắt đầu chỉ chạm xíu đã thương

Yêu khổ quá hay ta làm người quen anh nhỉ
Uống ly cà phê chúc buổi sáng an lành
Hỏi giấc ngủ đêm qua sao mộng mị
Em dễ dàng cười: chắc chắn rồi chẳng phải tại anh

Yêu khổ quá hay ta làm bạn lâu rồi chưa gặp
Tin nhắn hỏi thăm đi- đến một cách quá nhẹ nhàng
Khi ai đó nhắc về một thời thân thiết
Chúng mình sẽ không khóc đến mức vỡ tan

Yêu khổ quá hay ta làm người tri kỉ
Người kia buồn là người còn lại mất vui
Để một bận nào đó nhớ nhau quá mà ôm nhau ngủ vùi
…Như nhân tình đụng vào thịt da mà ko hề xao xuyến

Yêu khổ quá hay ta đừng yêu nữa
Đừng thơm lên má em và nói: nữa nè
Đừng luồn tay trong ngực em và mân mê
…Bao giờ anh biết thương ngực em gầy trước mùa gió thổi?

Yêu quá nhiều mà rồi mình phạm lỗi
Làm khổ người kia!

Thôi chiều nay hai đứa nắm tay đi về
Hai ngả…
Xem mùa có trút nổi lá
Nữa ko?

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn bài thơ Hay Là của nữ thi sĩ Nồng Nàn Phố. Với những nỗi lòng tâm tư sâu sắc trong tình yêu mà bài thơ này thu hút được sự chú ý mạnh mẽ từ độc giả. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi nhé!