Top 10 Bài thơ hay của nhà bác học Lê Quí Đôn

Lê Quý Đôn (1726–1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ, và được mệnh danh là “nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến”. Ở thế kỷ 18, các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa, Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người “tập đại hành” mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 của nước ta đều được bao quát vào trong các tác phẩm của ông. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó. Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Rắn đầu rắn cổ

Rắn đầu rắn cổ

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học quyết không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

Lời bình:

Tương truyền, một viên quan thượng thư tới nhà ông Lê Trọng Thứ, gặp Lê Quý Đôn ở dọc đường, Lê Quý Đôn trót thất lễ. Khi tới nhà, Lê Trọng Thứ gọi con ra trách mắng và đánh đòn. Quan thượng thư thấy ông thông minh nên đã xin tha cho ông với điều kiện phải ứng khẩu một bài thơ tạ tội. Cậu xin quan ra đầu đề. Quan nói: phụ thân cậu đã bảo cậu “rắn đầu rắn cổ”, cậu cứ lấy đó làm đề bài. Cậu ngẫm nghĩ một chốc rồi đọc bài thơ trên.

Đề bài là do quan đặt ra, ý nói cậu bé cứng đầu, lười học. Vậy mà Lê Quý Đôn đã tài tình sử dụng từ “rắn” để ghép vào trong nội dung các câu thơ của mình; rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ trâu, rắn hổ mang và ví mình như Khổng Tử – Mạnh Tử (từ nay Trâu Lỗ xin siêng học). Quan hết sức thán phục.

Bài thơ: Mẹ ơi con muốn lấy chồng

Mẹ ơi con muốn lấy chồng

(Hạn vần: Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao)

Bài thơ: Cổ Lộng thành (Thành Cổ Lộng)

Cổ Lộng thành

Vạn vật suy di tứ bách thu
Qua đằng đậu mạn phóng xuân nhu
Bích ba dĩ tẩy Trần vương hận
Thanh thảo nan già Mộc Thạnh tu
Hoàng độc vũ dư canh cổ kiếm
Hàn cầm nguyệt hạ táo tàn lâu
Phong cương hà sự cân khai thác?
Nghiêu Thuấn đương niên chỉ cửu châu!

Thành Cổ Lộng do Mộc Thạnh, tướng nhà Minh xây ở Ninh Bình.

Bài thơ: Đề Từ Thức động

Đề Từ Thức động

Văn đạo thần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu thái hoang lương.
Càn khôn nhất hạt cùng Từ Thức,
Vân thuỷ song nga lão Giáng Hương.
Thạch động hữu thanh khao hiểu nguyệt,
Diêm điền vô vị nát thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thuỳ thức Thiên Thai diệc hí trường.

Dịch nghĩa

Nghe nói chuyện thần tiên là mơ mộng
Cửa động Bích Đào nay thật hoang lương
Từ Thức chỉ mặc áo vải thô đi tìm tiên khắp trời đất
Ở cảnh mây nước, hai mắt Giáng Hương mong (Từ Thức) đến già
Trăng gần sáng, nghe trong động đá, như có tiếng gõ kêu
Giọt sương thu thấm bãi muối, muối thành nhạt
Nhiều người cho rằng Từ Thức gặp tiên cũng như chuyện (Lưu Nguyễn) vào Thiên Thai
Nhưng ai ngờ Thiên Thai chỉ là một câu chuyện đùa

Lời bình:

Động Từ Thức còn gọi là động Bích Đào, thuộc địa phận xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, Thanh Hoá, là một cảnh đẹp nổi tiếng của nước ta, có liên quan đến câu chuyện Từ Thức gặp tiên chép trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Hiện nay còn thấy hai bài thơ chữ Hán khắc trên vách động, một bài của Lê Quý Đôn được người sau cho khắc trên phiến đá dựng trong cửa động vào năm 1905, và một của chúa Trịnh Sâm đề năm 1771.

Bài thơ: Gia Cát Lượng

Gia Cát Lượng

Bài thơ: Dũng Liệt giang thượng

Dũng Liệt giang thượng

Qun đạo tuỳ giang chuyển phục oanh
Khinh phong phất lãng bích văn sinh
Dao dao Tam Đảo ngang thiên tập
Phủ thị quần sơn tự tống nghinh

Dịch nghĩa

Đường cái quan theo sông uốn khúc quanh co
Gió nhẹ phảy sóng lên, nảy sinh những vệt xanh biếc
Xa xa núi Tam Đảo đứng chọc trời
Cúi nhìn các hòn núi khác như tiễn đưa đón rước

Bài thơ: Độ Lương Phúc tiểu giang

Độ Lương Phúc tiểu giang

Tiểu giang hoành nhập Nguyệt giang lưu
Nhất loát mao am cổ độ đầu
Thiên khoát vân bình thu sắc động
Đường đường Tam Đảo nhãn tiền thu

Dịch nghĩa

Con sông nhỏ chảy ngang vào dòng sông Nguyệt
Một túp am tranh ở đầu bến đò xưa
Trời rộng, mây yên, sắc thu rung động
Núi Tam Đảo đồ sộ như thu gọn ở trước mắt

Sông Lương Phúc: Con sông nhỏ thuộc huyện Thiên Phúc, TP Bắc Ninh.
Nguồn: Thơ Lê Quý Đôn (Tuyển một số bài trong Quế Đường thi tập), Ty Thông tin văn hoá Thái Bình, 1976

Bài thơ: Gia Cát Lượng

Gia Cát Lượng

Long cương nằm khểnh hát nghêu ngao,
Vì cảm ơn sâu biết tính sao!
Hai biểu ra quân lòng đã tỏ,
Tám đồ bày trận giá càng cao.
Tam phân gặp buổi đương tranh vạc,
Ngũ trượng ngờ đâu bỗng tối sao.
Miếu cũ ngày nay qua tới đó,
Tấc lòng khởi kính biết là bao!

Nguồn: Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004

Bài thơ: Du Bích Đào động

Du Bích Đào động

Bài thơ: Trú Hoà Lạc

Trú Hoà Lạc

Dao dao chỉ viễn thôn
Xuất hiểm đắc bình nguyên
Dịch đạo đa mao ốc
Nhân gia bán trúc phiên
Sơ lâm hoàn quyện điểu
Tiễu bích há hàn viên
Bưu đệ niên niên khổ
Dân tình bất nhẫn ngôn

Dịch nghĩa

Xa xa trỏ vào thôn xóm phía đằng xa
Ra khỏi nơi hiểm trở đến được nơi đồng bằng
Trên đường trạm có nhiều nhà lợp tranh
Nhà người ta phần nửa là dậu trúc
Con chim mệt mỏi bay về khu rừng thưa
Con vượn lạnh lùng từ vách đá cheo leo bước xuống
Hằng năm khổ vì chuyển đệ bưu tín
Tình dân thật chẳng nỡ nói ra

Nguồn: Thơ Lê Quý Đôn (Tuyển một số bài trong Quế Đường thi tập), Ty Thông tin văn hoá Thái Bình, 1976

Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: “Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần… đại để không ngoài ba điểm ấy”.