Viết về tuổi thơ nơi làng quê Việt Nam thì có lẽ “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán vẫn vượt trội hơn cả về phong cách lẫn nội dung. Trong đó có đoạn trích “Lao xao” gây ấn tượng mạnh đối với người đọc về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt Nam gắn liền với những kí ức tuổi thơ không thể nào quên. Từng câu, từng chữ của Duy Khán như những nốt trầm bổng gieo vào lòng người đọc tình cảm yêu mến và trân trọng. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên làng quê trong đoạn trích “Lao xao” mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 1
Bài văn Lao xao trích từ tập hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, một trong những tác phẩm được dư luận đánh giá cao trong mảng văn học thiếu nhi từ sau năm 1975 trở lại đây. Qua những kỉ niệm thời niên thiếu của mình ở một làng quê thuộc tỉnh Bắc Ninh, tác giả đã dựng lại bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt ở nông thôn thuở trước. Tuy đơn sơ, nghèo khó nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp tươi mát và ấm áp tình người.
Bằng đôi mắt quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến quê hương, nhà văn đã vẽ nên bức tranh sinh động, phong phú về thế giới các loài chim. Sau mấy câu mở đầu miêu tả khung cảnh làng quê lúc chớm vào hè, tác giả tả và kể về một số loài chim quen thuộc. Các loài chim được chia theo hai nhóm. Nhóm chim lành gần gũi với con người như bồ các, sáo sậu, tu hú… Nhóm chim ác như diều hâu, quạ, chim cắt… Đặc biệt là chèo bẻo dám đánh lại lũ chim ác. Tác giả đã chọn ở mỗi loài chim một vài nét nổi bật về tiếng kêu, màu sắc, hình dáng, hoặc tập tính của chúng để miêu tả.
Khung cảnh làng quê lúc sang hè với bao màu sắc và hương thơm của các loài hoa quen thuộc, cùng với vẻ rộn rịp, xôn xao, tất bật của bướm ong: Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi.
Đây là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp thể hiện vốn sống, vốn hiểu biết khá phong phú của tác giả. Thiên nhiên được miêu tả qua cái nhìn trong sáng và trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ. Từng loài chim được miêu tả trong mối quan hệ với con người, theo cách đánh giá của dân gian và ít nhiều mang tính biểu tượng cho từng loại người trong xã hội: Con tu hú to nhất họ, nó kêu “tu hú” là mùa tu hú chín; không sai một tẹo nào. Cả làng có mỗi cây tu hú ở vườn ông Tấn. Tu hú đỗ ngọn cây tu hú mà kêu. Quả chín đỏ, đầy ụ như mâm xôi gấc. Tiếng tu hú hiếm hoi; quả hết, nó bay đi đâu biệt. (Quả tu hú tức là quả vải).
Bầu trời cao rộng, những cánh chim thoả sức vẫy vùng: Một đàn chim ngói sạt qua rồi vội vã kéo nhau về hướng mặt trời lặn. Nhạn tha hồ vùng vẫy tít mây xanh… Các loài chim dữ như diều hâu, quạ, chim cắt… chủ yếu được miêu tả qua đặc điểm hoạt động của chúng như diều hâu hay bắt gà con, chèo bẻo hay đánh nhau với diều hâu và chim cắt… Tác giả kể chuyện con sáo nhà bác Vui tọ toẹ học nói, chuyện về sự tích con bìm bịp và tả những cuộc giao chiến giữa các loài chim: Ấy là nhũng con chèo bẻo. Chúng lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Lông diều hâu bay vung tứ linh, miệng kêu la “chéc, chéc”, con mồi rời mỏ diều hâu rơi xuống như một quả rụng. Diều hâu biên mất. Con diều hâu được mẻ hú vía, lần sau cụ bảo cũng không dám đến. Nếu có đến lại là con khác!
Sự kết hợp khéo léo giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thân thiết nhất của tuổi thơ: Người ta nói chèo bẻo là kẻ cắp. Kẻ cắp hôm nay gặp bà già. Nhưng từ đây tôi lại quý chèo bẻo. Ngày mùa, chúng thức suốt đêm. Mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người: “Chè cheo chét”… Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.
Đó là cách nhìn trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo quan niệm phổ biến lâu đời của dân gian, đôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như con người. Qua những kỉ niệm thời niên thiếu, nhà văn Duy Khán đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ở nông thôn. Hiện thực cuộc sống đã trở thành chất liệu nghệ thuật dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn. Có thể nói Duy Khán đã gửi cả tâm hồn mình vào những trang viết mộc mạc, hồn nhiên và đầy chất thơ như thế.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 2
Lao xao là một lát cắt Bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt ở nông thôn thuở trước. Tuy đơn sơ, nghèo khó nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp tươi mát và ấm áp tình người. Bằng đôi mắt quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến quê hương, nhà văn đã vẽ nên bức tranh sinh động, phong phú về thế giới các loài chim.
Sau mấy câu mở đầu miêu tả khung cảnh làng quê lúc chớm vào hè, tác giả tả và kể về một số loài chim quen thuộc. Các loài chim được chia theo hai nhóm. Nhóm chim lành gần gũi với con người như bồ các, sáo sậu, tu hú… Nhóm chim ác như diều hâu, quạ, chim cắt… Đặc biệt là chèo bẻo dám đánh lại lũ chim ác. Tác giả đã chọn ở mỗi loài chim một vài nét nổi bật về tiếng kêu, màu sắc, hình dáng, hoặc tập tính của chúng để miêu tả.
Khung cảnh làng quê lúc sang hè với bao màu sắc và hương thơm của các loài hoa quen thuộc, cùng với vẻ rộn rịp, xôn xao, tất bật của bướm ong: Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau Đề hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi. Đây là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp thể hiện vốn sống, vốn hiểu biết khá phong phú của tác giả.
Thiên nhiên được miêu tả qua cái nhìn trong sáng và trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ. Từng loài chim được miêu tả trong mối quan hệ với con người, theo cách đánh giá của dân gian và ít nhiều mang tính biểu tượng cho từng loại người trong xã hội: Con tu hú to nhất họ, nó kêu “tu hú” là mùa tu hú chín; không sai một tẹo nào. Cả làng có mỗi cây tu hú ở vườn ông Tấn. Tu hú đỗ ngọn cây tu hú mà kêu. Quả chín đỏ, đầy ụ như mâm xôi gấc. Tiếng tu hú hiếm hoi; quả hết, nó bay đi đâu biệt.(Quả tu hú tức là quả vải).
Bầu trời cao rộng, những cánh chim thoả sức vẫy vùng: Một đàn chim ngói sạt qua rồi vội vã kéo nhau về hướng mặt trời lận. Nhạn tha hồ vùng vẫy tít mây xanh… Các loài chim dữ như diều hâu, quạ, chim cắt… chủ yếu được miêu tả qua đặc điểm hoạt động của chúng như diều hâu hay bắt gà con, chèo bẻo hay đánh nhau với diều hâu và chim cắt…
Tác giả kể chuyện con sáo nhà bác Vui tọ toẹ học nói, chuyện về sự tích con bìm bịp và tả những cuộc giao chiến giữa các loài chim: Ấy là nhũng con chèo bẻo. Chúng lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Lông diều hâu bay vung tứ linh, miệng kêu la “chéc, chéc”, con mồi rời mỏ diều hâu rơi xuống như một quả rụng. Diều hâu biên mất. Con diều hâu được mẻ hú vía, lần sau cụ bảo cũng không dám đến. Nếu có đến lại là con khác! Sự kết hợp khéo léo giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thân thiết nhất của tuổi thơ: Người ta nói chèo bẻo là kẻ cắp. Kẻ cắp hôm nay gặp bà già.
Nhưng từ đây tôi lại quý chèo bẻo. Ngày mùa, chúng thức suốt đêm. Mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người: “Chè cheo chét”… Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm. Đó là cách nhìn trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo quan niệm phổ biến lâu đời của dân gian, đôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như con người.
Qua những kỉ niệm thời niên thiếu, nhà văn Duy Khán đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ở nông thôn. Hiện thực cuộc sống đã trở thành chất liệu nghệ thuật dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn. Có thể nói Duy Khán đã gửi cả tâm hồn mình vào những trang viết mộc mạc, hồn nhiên và đầy chất thơ như thế.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 3
Đánh giá một bài văn miêu tả nói riêng, một tác phẩm văn học nói chung, có hai quan niệm khác nhau. Quan niệm thứ nhất từ cái nhìn thấy. Còn quan niệm thứ hai: từ cái cảm thấy. Đọc đoạn trích Lao xao, nhiều người cho rằng ý nghĩa của nó là miêu tả loài vật, còn chúng tôi nghĩ: đằng sau thế giới loài vật là một cái gì khác. Cái khác ấy phải chăng là không khí yên ả, thanh bình cố hữu của làng quê người Việt và những triết lí dân gian, quan điểm thẩm mĩ dân gian?
Một bức tranh về không khí yên ả thanh bình của làng quê người Việt. Làng quê người Việt vốn có một không khí yên ả thanh bình cố hữu sau luỹ tre xanh. Ở đó tồn tại một nền văn minh nông nghiệp ngàn đời. Rất ít biên động, rất ít đổi thay đến mức người ta tưởng như sinh ra đất trời vốn thế. Trình độ sản xuất đã không cao, quan hệ giữa con người với nhau lại là quan hệ truyền thống (trong họ, ngoài làng). Đời sống vật chất và tinh thần ấy đã tạo nên một không khí làng quê thuần khiết. Không khí ấy đã biến đổi dần đi trong quá trình đô thị hoá. Và chính từ quá trình ấy, những gì một đi không trở lại mới được nhớ về như một hoài niệm xa xôi. Những ngày ấy, mùa hè là ngày hội của hoa thơm, bướm lượn. Hoa thì đủ các loài: hoa lan, hoa móng rồng, hoa dẻ. Mỗi thứ hoa mỗi sắc, mỗi hương: hoa lan nở trắng, hoa dẻ từng chùm, còn hoa móng rồng thì bụ bẫm và thơm mùi mít chín. Những loài hoa hào phóng ấy đem đến cho quê làng một không gian đặc quánh mùi thơm.
Nó có sức hấp dẫn với cả muôn loài, nhưng trước hết là với ong, với bướm. Cuộc giành giật để phân chia lãnh địa giữa chúng hết sức tự nhiên và chiến thắng bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Tính cách giống loài của chúng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ: ong vàng, ong vò vẽ, ong mật, chẳng cần biết phải trái ra sao, tất cả đều xông vào đấu lực, còn các cô bướm hiền lành thấm nhuần phương châm xử thế “tránh voi chẳng xấu mặt nào” lặng lẽ bay đi. Nhưng, dù sao đó chỉ là một khúc dạo đầu. Thế giới của loài chim xuất hiện trên bầu trời bằng tiếng kêu dõng dạc của con bồ các. Mỗi loài có một tập tính riêng, cả chim hiền và chim ác.
Chim hiền thì thân thiết với nhà nông, gần gũi với con người: sáo sậu, sáo đen đậu trên lưng trâu, riêng con sáo đen nhà bác Vui tọ toẹ học tiếng nói con người, biết tự bay đi kiếm ăn nhưng chiều chiều lại trở về với chủ. Con tu hú là bạn của mùa vải như vị thiên sứ báo tin vui, nó đến và đi bất chợt. Còn chim ác như những nhân vật phản diện trong truyện cổ tích. Chúng không những có hình dáng khó coi mà còn vô cùng hiểm độc. Như con diều mũi khoằm giả vờ bay liệng trên cao như một kẻ vô tâm nhưng khi đánh hơi được con mồi, nó lao như mũi tên xuống đất. Không cao đạo kiểu cách như diều hâu, quạ, dù là quạ đen hay quạ khoang đều là những kẻ phàm ăn, tục uống. Không bắt được gà con,, không ăn trộm được trứng, chẳng một chút nề hà, nó sà ngay vào chuồng lợn, không cần kén cá chọn canh. Nhưng quạ, diều hâu không đáng sợ bằng chim cắt.
Thân nhỏ nhưng bay nhanh, trở thành một thứ hung thần, một loại quỷ đen khủng khiếp, cắt là một nỗi kinh hoàng với một thứ vũ khí lợi hại vô song: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn. Ám ảnh đối với trẻ thơ đã đành (bao nhiêu con bồ câu của nhà chú Chàng đã bị chim cắt xỉa chết), mà tất cả loài chim đều chưa ai địch nổi. Như thế là xã hội loài chim dưới con mắt tò mò, ưa khám phá, tìm tòi luôn có vấn đề đặt ra với nó. Phải có một Thạch Sanh, phải có một chàng hiệp sĩ. Nhưng bất ngờ thay, chàng hiệp sĩ ấy vóc dáng mới nhỏ bé làm sao, lại bị nghi oan là kẻ cắp. Tên tội đồ chịu tiếng xấu, nhưng trước bất công đã không thể làm ngơ.
Chính nó đã lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Chính nó đã tổ chức bủa vây làm cho quạ đổn không còn đường thoát phải “đến chết rũ xương”. Và lần này nữa, trước loài cắt dữ gian manh, những chú chèo bẻo đã dũng cảm lao vào thử sức. Việc mạo hiểm ấy vốn đã ấp ủ từ lâu nhưng chưa có cơ hội ra tay, lần này thì cơ hội kia đã đến, hơn thế lại có sự cổ vũ nhiệt tĩnh của đám khán giả vô tư. Cắt đã bị thua, có lẽ lần đầu tiên chịu thua, như những chiếc máy bay B52 “quay tròn xuống đồng Xóc” mà không biết vì sao. Còn đối với bọn trẻ trong xóm, chiến thắng của chèo bẻo hiển hách như một kì công.
Tính chất vô tư của bức tranh tả cảnh giúp ta hình dung: xã hội làng quê người Việt là một xã hội bằng phẳng, yên ả, thanh bình, cố hữu. Đã bao nhiêu đời như thế, tưởng không thể đổi thay. Không gian mà con người ưu ái dành cho các loài hoa bướm, loài chim là sự tĩnh mịch, êm dềm. Đó là nnững cảnh tượng quen thuộc đến mức cứ tưởng nhắm mắt lại là nó lập tức hiện ra: Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào tầng không… (Tố Hữu – Khi con tu hú)
Những quan điểm thẩm mĩ dân gian và triết lí dân gian. Quan điểm thẩm mĩ dân gian trước hết là cái nhìn xã hội loài vật như xã hội loài người, con vật như con người. Khác với loại truyện ngụ ngôn, các con vật ở đây hiện ra như những nhân vật cụ thể và sinh động hết sức khách quan, chứ không để minh hoạ cho một bài học luân lí hay triết lí. Mỗi loài vật có một tính cách riêng. Vì vậy, có những con vật đáng ghét, con vật đáng thương. Nhưng sự đáng ghét hay đáng thương cũng ở nhiều cấp độ. Như ở loài chim ác, loài quạ đen, quạ khoang chẳng hạn: bắt gà con, trộm trứng gà là việc bất lương, nhưng không săn bắt được lại rơi vào thế đường cùng thì cũng có một cái gì thật tội.
Còn những con chim hiền lành, nhất là dũng cảm như chèo bẻo mà mang tiếng xấu suốt đời thì ai là kẻ minh oan? Riêng cuộc kịch chiến của gà mẹ với diều hâu, người đọc không khỏi nghĩ đến một tình cảm sâu nặng của con người: tình mẫu tử. Còn triết lí dân gian: đó là bài học về sức mạnh của sự đoàn kết:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Một con chèo bẻo đơn phương độc mã làm sao trị nổi diều hâu, quạ, cắt? Ba lần lập cồng là ba lần chứng thực sức mạnh của bầy đàn (mà con người gọi là đoàn kết). Đối lập với sự đoàn kết là cái cô độc của sự lẻ loi:
Nghèo ăn bắp, họp đông vui
Còn hơn giàu có mồ côi một mình
(Tục ngữ)
Con bìm bịp là tượng trưng cho sự cô đơn, sự lảng tránh xã hội. Suốt ngày, suốt đêm phải chui rúc trong bụi cây, có lẽ đó là sự trừng phạt tinh thần thích đáng nhất, dành cho nó và đối với nó cũng là sự ân hận, giày vò nhất của lương tâm. Bài học “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” cũng thể hiện sinh động ở đây. Người “ở hiền” là đám gà con, chú bồ câu và cả chim chèo bẻo nữa. Còn cái ác, chính nó lại tự đào hố chôn mình, kẻ “gieo gió phải gặt bão”.
Ngoài quan điểm thẩm mĩ dân gian, triết lí dân gian, còn có các yếu tố của nén văn hoá dân gian. Đó là những bài hát đồng dao (Bồ các là bác chim ri,…), các thành ngữ được sử dụng đúng lúc, đúng nơi (Dây mơ rễ má, kẻ cắp gặp bà già,…), các câu chuyện cổ tích (Sự tích chim bìm bịp, sự tích chim chèo bẻo,…), v.v. Những yếu tố văn hoá dân gian này làm cho bài văn có một không khí nửa hư nửa thực, vừa mới vừa cũ rất hay và đáng được nhớ, được sẻ chia, được đồng tình và trân trọng.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 4
Viết về tuổi thơ nơi làng quê Việt Nam thì có lẽ “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán vẫn vượt trội hơn cả về phong cách lẫn nội dung. Trong đó có đoạn trích “Lao xao” gây ấn tượng mạnh đối với người đọc về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt Nam gắn liền với những kí ức tuổi thơ không thể nào quên. Từng câu, từng chữ của Duy Khán như những nốt trầm bổng gieo vào lòng người đọc tình cảm yêu mến và trân trọng
Bức tranh thiên nhiên làng quê hiện lên qua từng câu văn mượt mà, trong sáng thật bình yên và dịu êm. Đó thực sự là một cuộc sống mà nhiều người mơ ước, được hòa mình vào thiên nhiên, sống trọn từng phút giây với thiên nhiên.
Đoạn trích được mở đầu bằng một khung cảnh chớm hè sôi động và náo nhiệt. Những thanh âm của mùa hè tạo nên bản hòa ca độc đáo và mới lạ, mang đến cảm giác an lành cho mọi người. Đó la fhinhf ảnh “bướm, ong tìm đến hút mật” ở khu vườn mùa hạ. Âm thanh “lao xao” của tiếng ong đánh lộn để hút mật dường như tạo nên sự mê đắm đối với người đọc. Đó là một dư vị không phải nơi nào cũng có được, chỉ những vùng quê yên ả mới cảm nhận được những điều tinh tế như vậy.
Duy Khán đã miêu tả bức tranh mùa hè với những thanh âm của vô vàn tiếng chim ‘không biết cơ man nào là chim, tưởng như đây là khoảng trời của riêng chúng”. Chúng đủ các loài chim “từ con bồ các đến chim ri, rồi sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn. CHúng họp thành một thế giới hồn hậu….”. Những thanh âm nhộn nhịp ấy chỉ có thể tìm thấy ở những vùng quê yên bình, trong lành. Tiếng hót của các loài chim tạo thành bản hòa ca vui nhộn, làm rộn vang cả khu vườn. Có lẽ những thanh âm đó kéo người đọc trở về với tuổi thơ có biết bao hoài niệm về kí ức tuổi thơ.
Thanh âm của tiếng chim tu hú gợi nhiều kỉ niệm, đánh thức những điều tốt đẹp của tuổi thơ. Nó gợi nhắc mùa hè, gợi nhắc những mùa vải chín ngọt lành ở trên cây, lay động lòng người. Bằng cách tả tài tình, tinh tế, Duy Khán đã khiến người đọc như lạc vào một thế giới của tuổi thơ, nhiều thanh âm trong trẻo.
Người đọc còn được lắng nghe tiếng “chéc chéc” của mấy chú nhạn ở ngoài mây xanh, tung bay giữa bầu trời tự do, rồi cả tiếng “bìm bipk” của mấy con bìm bịp núp trong bụi cây. Những tiếng kêu đó có cả nỗi oan ức của một kiếp người, một kiếp người thấp cổ bé họng không thể thanh minh được cho bản thân mình.
Duy Khán thực sự rất yêu thiên nhiên của vùng quê Việt nam, dù những thanh âm không trong lành nhưng đối với ông nó lại gắn bó, tạo nên một phần tuổi thơ đáng nhớ nhất.
Đặc biệt hơn hết là bức tranh thiên nhiên làng quê còn có hình ảnh “diều hâu chỉ biết trộm gà” chỉ biết nhìn vào chuồng lợn, chuồng gà…Mặc dù chúng độc ác nhưng chúng cũng là loài chim, tạo nên sự đa dạng, đầy màu sắc của thế giới loài chim. Thật là một bức tranh sôi động, làm dậy vang cả mùa hẻ tuyệt vời.
Thật vậy, “lao xao” của Duy Khán thực sự đã khiến người đọc cảm nhận được bức tranh đồng quê xinh đẹp và bình yên nhất với những thanh âm trong lành. Bằng lối viết gần gũi, hình ảnh đẹp, tài năng quan sát Duy Khán đã vẽ nên bức tranh mê đắm lòng người.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 5
Bức tranh thiên nhiên làng quê hiện lên trong đoạn trích Lao Xao của Duy Khán thật sinh động, gần gũi với mỗi chúng ta. Đọc văn bản ta như được hòa vào thế giới của các loài chim, của các bài đồng dao thấm đẫm chất dân gian,… và càng thêm yêu hơn phong cảnh làng quê Việt Nam.
Đoạn trích bắt đầu bằng không gian chớm hè, cái náo nhiệt, sôi động của mùa hạ đã tràn ngập khắp nơi: cây cối um tùm, tươi tốt, “cả làng thơm” , đó là mùi hương của “cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng… thơm như mùi mít chín….”. Những mùi vị vô cùng thân thuộc, gần gũi, dung dị, tự nhiên mà biết bao trìu mến với mỗi người. Nhưng đâu chỉ có hương thơm, bức tranh còn trở nên sinh động hơn khi có sự góp mặt của những con ong, cái bướm. Nào ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đang đánh nhau, tranh giành nhau để hút mật, những chú bướm hiền lành lặng lẽ rủ nhau bỏ đi. Từng hình ảnh đẹp đẽ, êm đềm của một vùng quê thanh bình hiện lên khiến người đọc chẳng thể nào quên được.
Ống kính máy quay di chuyển đến những đứa bé ngây thơ, hồn nhiên, chúng tụ đang tập ở góc sân, bàn tán, nói chuyện râm ran với nhau. Và cũng chính lúc ấy thế giới của các loài chim đa dang, phong phú hiện ra. Các loài chim được chia ra làm từng lớp từ chim hiền cho đến chim dữ, với tài năng quan sát và sự am hiểu thế giới loài chim Duy Khán còn chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của chúng. Bắt đầu là những chú bồ các với tiếng kêu váng trời, và loài chim này cũng thật đáng yêu khi vừa bay vừa kêu cứ như có ai đang đuổi đánh. Qua lời chị Điệp nào chim ri, sáo sậu, sáo đen,…cũng lần lượt xuất hiện. Chúng đều là họ hàng của nhau và có cùng chung đặc điểm ấy là “hiền”, khi sáo sậu, sáo đen hót báo hiệu năm ấy được mùa; mỗi khi tu hú kêu là thông báo quả đã chín đỏ cây, quả không sai chút nào.
Len lỏi trong những âm vang vui tươi là tiếng kêu của những con bìm bịp. Để lí giải về tiếng kêu của loài chim này, Duy Khán đã kể lại ngắn gọn truyện Sự tích còn bìm bịp. Với sự đan xen hài hòa giữa truyện dân gian và mạch kể khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động hơn. Mỗi khi bìm bịp kêu là những loài chim ác, chim xấu xuất hiện. Cách tác giả chuyển từ miêu tả các loài chim hiền qua các loài chim dữ cũng thật tinh tế, thông qua tiếng bìm bịp kêu là sự xuất hiện của con diều hâu hung ác.
Con diều hâu được tác giả mô tả các chi tiết về ngoại hình, đặc điểm: bay cao tít, mũi khoằm và đánh hơi rất tinh. Thêm vào đó là hình ảnh của những con quạ đen, quạ khoang chuyên đi ăn trộm trứng,… Tiếp đến là loài chim cắt, cánh nhọn như dao chọc tiết lợn, chúng được ví như loài quỷ đen vụt đến vụt đi. Nhưng chúng cũng phải kiếp sợ trước sự đoàn kết của loài chèo bẻo. Những hình ảnh so sánh thật sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc hình dung được dáng vẻ bề ngoài, đặc điểm của các loài chim này.
Bức tranh các loài chim hiện lên thật phong phú, đa dạng về âm thanh và màu sắc. Tác giả đã rất tài hoa trong việc sử dụng các thành ngữ, đồng dao, truyện cổ tích đan xen vào tác phẩm khiến câu chuyện trở nên lí thú và hấp dẫn hơn. Ngoài ra, Duy Khán cũng khéo léo kết hợp giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận qua đó chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thân thiết nhất của tuổi thơ. Cùng với tài năng quan sát tỉ mỉ, ngôn từ giản dị, dân dã, tất cả các yếu tố đó đã hòa quyện vào nhau tạo nên sức hút cho tác phẩm.
Qua bức tranh nhiên thiên ở vùng quê, ta đã nhận thấy rõ tài năng quát sát tinh tường, sự am hiểu về thế giới các loài chim của Duy Khán. Đồng thời cũng thấy được tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 6
Đọc xong đoạn trích Lao Xao (Trích Tuổi thơ im lặng – Duy Khán), gấp sách lại, trước mặt ta vẫn hiện lên một bức tranh làng quê Việt Nam xiết bao thân thương trìu mến, nồng ấm tình người.
Qua những trang viết hồn hậu của Duy Khán, làng quê Việt Nam hiện lên thật bình dị và êm ả. Chính cuộc sống yên ả ở làng quê đã trở thành sức thu hút của loài chim tụ họp về đây, sống chan hoà thân ái với con người. Mở đầu bài văn là một không gian làng quê lúc chớm hè. Nét đặc đã quyến rũ biết bao là bướm, là ong tìm đến hút mật. Âm thanh lao xao của tiếng ong bay, tiếng ong đánh lộn tranh nhau hút mật đem lại cho người đọc một rung cảm nhè nhẹ và dư vị man mác, khó quên.
Nổi bật trên bức tranh cảnh sắc mùa hè tươi đẹp là hình ảnh của các loài chim. Không biết cơ man nào là chim, tưởng như đây là khoảng trời của riêng chúng. Đầu tiên là những loài chim quen thuộc với làng quê và cũng rất gắn bó với cuộc sống của con người: chim, lành. Chúng gồm đủ các chủng loài khác nhau: Từ con bồ các đến chim ri, rồi sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn… Chúng họp thành một thế giới hồn hậu, đáng yêu với những âm thanh rộn rã, tưng bừng.
Ta giật mình trước tiếng kêu váng tai của chú bồ các “các… các… các…” , nhưng cũng cười thú vị trước sự hốt hoảng “vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh” của nó. Ta lâng lâng trước tiếng hót vui tai của chú sáo sậu, sáo đen, và thích thú trước âm thanh “tọc, tọc” học bắt trước tiếng người của con sáo nhà bác Vui. Rồi âm thanh náo động tưng bừng, da diết của tiếng chim tu hú như gọi về, như đánh thức trong ta bao hoài niệm, khiến lòng ta bồi hồi. Tiếng chim tu hú trong bài văn gợi cho người đọc nhớ tới những mùa vải chín ngọt, gợi nhớ tới cả tiếng chim tu hú trong bài thơ của Bằng Việt.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Hoà vào những âm thanh rộn rã trên những ngọn cây, những đồng lúa, văng vẳng tiếng chao cánh của lũ chim ngói sạt qua, tiếng “chéc, chéc” của mấy chú nhạn vùng vẫy tít tận mây xanh. Rồi bỗng vang lên mấy tiếng “bìm bịp” của mấy con bìm bịp núp trong bụi cây. Những tiếng kêu thật não lòng. Có lẽ, bao nhiêu nỗi oan ức mà nhân gian gán cho nú không gột rửa được hoá thành nỗi niềm gửi vào cả mấy tiếng kêu u uất, nặng nề dó. Thật tội nghiệp cho con bìm bịp, nó cũng là một giống chim hiền mà suốt ngày đêm cứ phải âm thầm chui rúc trong mấy bụi cây, chẳng dám vui vầy cùng họ hàng nhà chim.
Gắn bó với cuộc sống của con người, những loài chim lành đã được nhà văn nhìn nhận bằng con mất đầy thiện cảm, và mối thiện cảm ấy của ông truyền rất nhanh vào người đọc, khiến họ thấy gắn bó với các loài chim, với thiên nhiên, với làng quê. Để tô thêm vào bức tranh thiên nhiên phong phú của làng quê, có hình ảnh của những con diều hâu đáng ghét chỉ biết rình trộm gà, hình ảnh của những con quạ xấu xí đáng khinh với cặp mắt “lia lia, láu láu” dòm ngó vào chuồng lợn, rồi lũ chim cắt ác độc đã xỉa chết bao nhiêu con bồ câu hiền lành.
Chúng là những loài chim ác nhưng chúng là một phần của thế giới các loài chim, một phần của sự sống. Mặc dù chúng hiện lên qua cái nhìn đầy ác cảm của nhà văn nhưng thiết nghĩ cũng không thể thiếu được chúng. Bởi thiếu chúng, làm sao có những cảnh tượng vui mắt của trận đánh của lũ Chèo Bẻo trị lại chim ác. Những cảnh tượng ấy làm cho bức tranh sinh hoạt của thế giới các loài chim thêm sống động, hấp dẫn.
Thế giới các loài chim khiến cho cuộc sống thêm hương vị, nồng ấm. “Lao Xao” là một bức tranh thiên nhiên đồng quê muôn màu sắc, một phần của cuộc sống làng quê được cảm nhận bằng một tâm hồn nhạy cảm, và được phác hoạ lại bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, tài hoa.
Phải gắn bó sâu sắc với làng quê, với thiên nhiên làng quê đến thế nào, phải yêu mến và trân trọng thiên nhiên và cuộc sống làng quê đến nhường nào, Duy Khánh mới có thể viết được những trang văn đặc sắc như thế. Lao Xao sẽ mãi xao động trong tâm hồn người đọc!
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 7
Bức tranh thiên nhiên làng quê qua “Lao xao” của Duy Khán gợi lên một nước Việt Nam thanh bình, êm dịu. Chính cuộc sống này đã hút các loài chim đến trú ngụ và sống chung với loài người.
Cảnh chớm hè vào một buổi sáng trên làng quê được tác giả mô tả đa dạng, phong phú. Từ sự quyến rũ của bướm, ong tìm mật ngọt đem đến cho người đọc cảm giác thoải mái, mê mệt. Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh còn nổi bật hơn khi có các loài chim góp phần. Đủ các loại chim từ quen thuộc, gần gũi đến lạ, hiền và ác: chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn,…. Tiếng kêu, tiếng hót của các loài chim đã tạo nên âm thanh nhộn nhịp phá vỡ nét yên tĩnh vốn có của làng quê. Đưa chúng ta về thời thơ ấu với cảnh cũ ngày xưa, bồi hồi da diết nhớ về những kỉ niệm ở miền quê thân thương.
Chim sáo: đậu trên lưng trâu hót, tọ tọe học nói rồi bay đi ăn mãi đến chiều mới về. Chim tu hú thì đứng trên ngọn cây mà gọi mùa tu hú chín. Gọi một mùa vải chín ngọt, tiếng kêu thật da diết lòng người. Những loại chim đặc trưng cho mùa hè cũng được nhắc đến kết hợp các từ lấy: các các, chéc chéc, bịp bịp,… Nghệ thuật nhân hóa cũng được dùng tới: em tu hú đã mang đến cho chúng ta một bức tranh sinh động thế giới loài chim hiền. Tác giả còn sử dụng thêm câu đồng dao quen thuộc. Tác giả còn kể thêm việc bìm bịp ghét sự dối trá, ác độc, gian giảo để nói rõ hơn đặc tính hiền lành của loài chim này.
Đâu đó có tiếng chéc chéc của những chú nhạn vùng vẫy tít tận chân mây. Ở những ngọn cây, đồng lúa thấp thoáng cánh của lũ chim ngói sạt qua. Tiếng kêu não lòng của chim bìm bịp núp trong lùm cây như chẳng dám vui vầy cùng họ nhà chim. Cái nhìn thiện cảm của ông đã được mọi người tiếp nhận nhanh chóng và thấy gần gũi hơn với thiên nhiên, làng quê và hiểu rõ hơn về các loài chim, biết được nỗi khổ cũng như công việc của chúng. Nhưng cái gì cũng có hai mặt thiện và ác, chánh và tà thì câu chuyện mới trở nên hấp dẫn, lôi cuốn người xem được, không gây nhàm chán. Chính vì thế mà tác giả đã tả thêm một số loại chim ác nữa.
Con diều hâu đáng ghét hay rình trộm gà. Tác giả tả ngoại hình của chúng để ta thấy được sự độc ác của chúng: cái mũi khoằm cứ đánh hơi là xà xuống bắt một chú gà con cho rồi vút lên không trung mà vừa bay vừa ăn được. Con quạ xấu xí, đáng khinh với cặp mắt lia lia, láu láu dòm ngó vào chuồng lợn, lén lút ăn trộm trứng, bắt gà con. Lũ chim cắt ác độc đã xỉa xói bao nhiêu con chim bồ câu hiền lành. Chim cắt: nhanh nhẹn, có cái cánh như con dao bầu chọc tiết lợn, khi giao chiến chúng thường thoắt ẩn thoắt hiện.
Chúng ta có thể thấy được từ hình dáng đến tính tình của chúng đều là những loài hung dữ, hung hăng, gây hại. Dù để lại nhiều ác cảm nhưng cuộc sống này cũng không thể thiếu chúng. Nếu không có chúng thì làm sao xuất hiện những loài chim tiêu diệt loài chim ác. Những cô nàng chèo bẻo, gan dạ chống lại những loài chim ác đó, giống như những mũi tên đen hình đuôi cá. Cheo bẻo đã lao vào đánh diều hâu túi bụi khiến diều hâu phải bỏ con mồi. Vây tứ phía đánh quạ bị rụt xương, cả đàn vây vào đánh cắt khiến cho cắt ngấp ngoái.
Tác giả miêu tả cực kì tinh tế về thế giới loài chim vào dịp hè về trên làng quê, đồng ruộng ở Việt Nam và nêu cao sự dũng cảm của chim chèo bẻo. Với sự trải nghiệm thời thơ ấu, sự nhạy cảm, tinh tế của tác giả đã đưa chúng ta về với thiên nhiên, biết hơn về các loài chim của đất nước. Thể hiện rõ bức tranh nhiều màu sắc quê hương, đậm chất dân gian. Chứng tỏ tác giả rất am hiểu về thiên nhiên làng quê Việt Nam.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 8
Thiên nhiên ở những vùng quê bình yên qua “Lao xao” của Duy Khán cho chúng ta thấy một nước Việt bình yên, êm ái. Chính cuộc sống bình yên này đã thu hút rất nhiều các loài động vật tới định cư làm tổ như cá loài chim, thú quý hiếm.
Trong cảnh thiên nhiên đầu hè vào một buổi sáng trong veo trên làng quê được tác giả diễn tả vô cùng đặc sắc, phong phú. Từ những cánh bướm xinh đẹp quyến rũ khoe những màu sắc rực rỡ từ bộ cánh lung linh của mình. Rồi nhưng chú ông thợ, những cô ong chúa lang thang đi tìm hoa, làm mật dâng hương cho đời.
Rồi bày đàn các loài chim từ chim sáo sậu, chim ri, chim nhạn, chim ngói…những con vật thiện có ác có đều tụ hợp nhau về đây làm tổ tạo ra một bức tranh thiên nhiên tại vùng quê yên bình vô cùng đặc sắc thú vị. Những miêu tả của tác giả làm cho con người cảm thấy như mình đang được hòa mình với thiên nhiên, được sống chung trong bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp đó. Bức tranh của tác giả Duy Khán làm cho nhiều người gợi nhớ về tuổi thơ của mình, những ai đã từng sinh ra từ những miền quê sẽ không bao giờ quên những ngày tháng bắn chim , thả diều, hái hoa bắt bướm….Một tuổi thơ trong veo những ước mơ và hồn nhiên như cây cỏ.
Qua những miêu tả của mình Duy Khán cho người đọc thấy những cảm nhận vô cùng tinh tế của mình với thiên nhiên. Phải vô cùng hiểu rõ về thiên nhiên, hiểu về làng quê Việt Nam thì mới có thể có những miêu tả sinh động, tinh tế tới như vậy. Những cái nhìn của ông miêu tả giữa cái thiện và cái ác, giữa chính và tà khiến cho câu chuyện trở nên bi kịch, hấp dẫn lôi cuốn người đọc người xem, không gây nhàm chán.
Những con diều hâu lúc nào cũng hay trộm gà. Duy Khán đã tả hình dạng bên ngoài của chúng rất rõ nét để người đọc thấy được sự độc ác của loài diều hâu như thế nào: Cái mũi khoằm xuống cứ đánh hơi được mùi thức ăn là xa ngay xuống cắp một chú gà rồi bay vút lên cao. Thể hiện sự nhanh nhẹn, nhưng cũng vô cùng gian xảo, độc ác của loài Diều Hâu. Những con quạ đen xấu xí, chuyên rình ăn xác thối, đáng ghê tởm với cặp mắt láu lâu dòm ngó vào chuồng lợn, rồi lén lút bắt trộm trứng gà. Những con chim cắt thì vô cùng nhanh nhẹn, loài bồ câu thì hiền lành, thủy chung.
Bọn chim cắt nhanh nhẹn ác độc lúc nào cũng bắt nạt những chú bồ câu hiền lành. Thông qua những miêu tả của mình tác giả Duy Khán cũng cho người đọc thấy bức tranh thiên nhiên về miền quê mà ông vẽ lên là một bức tranh vô cùng đẹp, nhưng cũng vô cùng chân thực. Nó chân thực như cuộc sống của con người vậy có những loài thiện và có những loài ác. Cái ác lúc nào cũng rình rập tìm cách hãm hại cái thiện.
Sự miêu tả của tác giả vô cùng tinh tế, khéo léo đi vào thế giới của loài chim trên cánh đồng Việt Nam trong những ngày hè oi ả. Thể hiện sự trải nghiệm vô cùng kỳ thú về những cảnh đẹp trên khắp non sông đất nước ta. Nó là một sự trải nghiệm quý báu. Một kỷ niệm đáng nhớ của tác giả, thông qua trải nghiệm của mình tác giả Duy Khán đã giúp cho những bạn trẻ không có dịp được trải nghiệm thiên nhiên đồng quê Việt Nam được mở rộng tầm mắt thông qua những trang viết của mình.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 9
Quê hương thanh bình cùng những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ luôn là mảnh đất màu mỡ đối với mỗi nhà văn nhà thơ, để rồi đã có thật nhiều tác phẩm độc đáo và đặc sắc. Một trong số những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả đó chính là tập hồi kí tự truyện “Tuổi thơ im lặng” của tác giả Duy Khán. Tập hồi kí đã vẽ nên khung cảnh về cuộc sống làng quê yên bình, tuy nghèo khó, cơ cực nhưng giàu sức sống, mang trong mình bản sắc độc đáo. Và có thể nói văn bản “Lao xao” trích từ tập hồi kí đã giúp chúng ta cảm nhận được rõ nét bức tranh thiên nhiên làng quê gần gũi, muôn vàn sắc màu.
Trước hết, văn bản “Lao xao” đã mang đến một bức tranh về khung cảnh làng quê Việt Nam vào một buổi sáng chớm hè. Thời khắc chuyển mùa, bắt đầu một mùa mới luôn là thời điểm mà vạn vật đều có sự đổi thay, khoác lên mình những màu áo mới. Bức tranh thiên nhiên nơi làng quê Việt vào buổi sáng những ngày đầu hè đã được tác giả Duy Khán miêu tả thật chi tiết, cụ thể, sinh động và thật ấn tượng. Dường như, cả khu vườn đang náo nức, rộn rã, hứng khởi để đón chờ một mùa đang tới thật gần với tất cả những gì nó có, từ màu sắc, âm thanh cho đến hương thơm.
Đó là gam màu xanh tươi mới của “cây cối um tùm”, màu trắng xóa đến nao lòng của những bông hoa lan, màu vàng của hoa giẻ, hoa móng rồng và của ong bướm. Đó còn là hương thơm, “cả làng thơm”, mùi thơm ngào ngạt của các loài hoa. Và không dừng lại ở đó, khu vườn còn ngập tràn âm thanh của tiếng những chú ong đang “đánh lộn nhau”, những chú bướm “bỏ chỗ lao xao” và tiếng của lũ trẻ con trò chuyện lao xao. Tất cả, tất cả những màu sắc, âm thanh và hương vị ấy đã tạo nên một khung cảnh rất riêng vào buổi sáng chớm hè. Tác giả Duy Khán bằng những câu văn ngắn, kết cấu đơn giản cùng biện pháp so sánh, nhân hóa đã đưa người đọc về với thế giới của làng quê với tất cả những gì tinh khôi, bình yên và đẹp đẽ nhất.
Không dừng lại ở việc miêu tả khung cảnh làng quê vào buổi sáng chớm hè, tác giả Duy Khán còn đưa người đọc đến với thế giới, đến với câu chuyện độc đáo và thú vị về các loài chim. Dưới cái nhìn độc đáo của tác giả, mỗi loài chim đều có một câu chuyện nhỏ, rất riêng và đầy thú vị. Trước hết đó chính là câu chuyện về nhóm chim hiền. Mở đầu đó chính là chim bồ các với tiếng kêu đặc trưng “các…các…các…”. Để rồi, chị Điệp cũng nhanh nhảu đọc bài đồng dao về các loại chim. Từ bài đồng dao thú vị ấy, tác giả có dịp giới thiệu rõ hơn về các loài. Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú – chúng đều có quan hệ họ hàng với nhau cả. Chúng đều rất hiền và không làm hại bao giờ. Và hơn thế nữa, chúng đều có ích cho con người, mang đến niềm vui trong cuộc sống của con người – sáo sậu, sáo đen “hót mừng được mùa”, tu hú kêu để báo hiệu “mùa tu hú chín”.
Không dừng lại ở giống chim hiền, tác giả còn nhắc đến những loài chim trung gian như chim ngói, chim nhạn. Để rồi, từ đó, đi sâu khám phá thế giới của loài chim ác. Viết về loài chim ác, tác giả đặc biệt chú ý tới cách bắt mồi và sự đấu tranh sinh tồn của chúng, để rồi chúng ta nhận ra, mỗi loài lại có những đặc điểm riêng. Diều hâu bay cao và nhanh, chúng có khả năng đánh hơi rất tinh. Quạ đen, quạ khoang thì “lia lia, láu láu” để bắt gà con hoặc ăn trộm trứng. Chim cắt thì đúng như tên gọi của nó, lợi hại với “cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn”, khi đánh nhau chúng xỉa bằng đôi cánh lợi hại này. Với tác giả, những loài chim này là chim ác bởi chúng hay ăn cắp, ăn trộm và giết hại đến các loài khác.
Nhưng, có một loài chim ác mà tác giả lại giành cho nó tình cảm yêu quý, đó chính là chim chèo bẻo bởi lẽ dẫu là loài chim ác song chèo bẻo đã thay đổi, chúng thường đi trừng trị loài chim ác. Dưới cái nhìn của tác giả, chèo bẻo thật dũng cảm và đoàn kết – chèo bẻo “đánh diều hâu túi bụi”, “vây tứ phía đánh quạ” và đoàn kết cùng nhau để đánh lại cắt. Có thể thấy, với cái nhìn độc đáo và tràn đầy cảm xúc, Duy Khán đã đưa đến cho người đọc một câu chuyện độc đáo, thú vị và phong phú về thế giới của những loài chim.
Tóm lại, bằng những kí ức tuổi thơ và tình yêu, sự gắn bó với quê hương, tác giả Duy Khán qua văn bản “Lao xao” dã đưa đến cho người đọc những kí ức đẹp đẽ về khung cảnh làng quê Việt và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới các loài chim vốn phong phú, đa dạng và ngập tràn sắc màu.
Bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích “Lao xao” số 10
Bức tranh thiên nhiên làng quê hiện lên trong đoạn trích Lao Xao của Duy Khán thật sinh động, gần gũi với mỗi chúng ta. Đọc văn bản ta như được hòa vào thế giới của các loài chim, của các bài đồng dao thấm đẫm chất dân gian,… và càng thêm yêu hơn phong cảnh làng quê Việt Nam.
Đoạn trích bắt đầu bằng không gian chớm hè, cái náo nhiệt, sôi động của mùa hạ đã tràn ngập khắp nơi: cây cối um tùm, tươi tốt, “cả làng thơm” , đó là mùi hương của “cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng… thơm như mùi mít chín….”. Những mùi vị vô cùng thân thuộc, gần gũi, dung dị, tự nhiên mà biết bao trìu mến với mỗi người. Nhưng đâu chỉ có hương thơm, bức tranh còn trở nên sinh động hơn khi có sự góp mặt của những con ong, cái bướm. Nào ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đang đánh nhau, tranh giành nhau để hút mật, những chú bướm hiền lành lặng lẽ rủ nhau bỏ đi. Từng hình ảnh đẹp đẽ, êm đềm của một vùng quê thanh bình hiện lên khiến người đọc chẳng thể nào quên được.
Ống kính máy quay di chuyển đến những đứa bé ngây thơ, hồn nhiên, chúng tụ đang tập ở góc sân, bàn tán, nói chuyện râm ran với nhau. Và cũng chính lúc ấy thế giới của các loài chim đa dạng, phong phú hiện ra. Các loài chim được chia ra làm từng lớp từ chim hiền cho đến chim dữ, với tài năng quan sát và sự am hiểu thế giới loài chim Duy Khán còn chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của chúng. Bắt đầu là những chú bồ các với tiếng kêu vang trời, và loài chim này cũng thật đáng yêu khi vừa bay vừa kêu cứ như có ai đang đuổi đánh. Qua lời chị Điệp nào chim ri, sáo sậu, sáo đen,…cũng lần lượt xuất hiện. Chúng đều là họ hàng của nhau và có cùng chung đặc điểm ấy là “hiền”, khi sáo sậu, sáo đen hót báo hiệu năm ấy được mùa; mỗi khi tu hú kêu là thông báo quả đã chín đỏ cây, quả không sai chút nào.
Len lỏi trong những âm vang vui tươi là tiếng kêu của những con bìm bịp. Để lý giải về tiếng kêu của loài chim này, Duy Khán đã kể lại ngắn gọn truyện Sự tích con bìm bịp. Với sự đan xen hài hòa giữa truyện dân gian và mạch kể khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động hơn. Mỗi khi bìm bịp kêu là những loài chim ác, chim xấu xuất hiện. Cách tác giả chuyển từ miêu tả các loài chim hiền qua các loài chim dữ cũng thật tinh tế, thông qua tiếng bìm bịp kêu là sự xuất hiện của con diều hâu hung ác.
Con diều hâu được tác giả mô tả các chi tiết về ngoại hình, đặc điểm: bay cao tít, mũi khoằm và đánh hơi rất tinh. Thêm vào đó là hình ảnh của những con quạ đen, quạ khoang chuyên đi ăn trộm trứng,… Tiếp đến là loài chim cắt, cánh nhọn như dao chọc tiết lợn, chúng được ví như loài quỷ đen vụt đến vụt đi. Nhưng chúng cũng phải kiếp sợ trước sự đoàn kết của loài chèo bẻo. Những hình ảnh so sánh thật sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc hình dung được dáng vẻ bề ngoài, đặc điểm của các loài chim này.
Bức tranh các loài chim hiện lên thật phong phú, đa dạng về âm thanh và màu sắc. Tác giả đã rất tài hoa trong việc sử dụng các thành ngữ, đồng dao, truyện cổ tích đan xen vào tác phẩm khiến câu chuyện trở nên lý thú và hấp dẫn hơn. Ngoài ra, Duy Khán cũng khéo léo kết hợp giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận qua đó chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thân thiết nhất của tuổi thơ. Cùng với tài năng quan sát tỉ mỉ, ngôn từ giản dị, dân dã, tất cả các yếu tố đó đã hòa quyện vào nhau tạo nên sức hút cho tác phẩm.
Qua bức tranh thiên thiên ở vùng quê, ta đã nhận thấy rõ tài năng quát sát tinh tường, sự am hiểu về thế giới các loài chim của Duy Khán. Đồng thời cũng thấy được tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả.
Thật vậy, “lao xao” của Duy Khán thực sự đã khiến người đọc cảm nhận được bức tranh đồng quê xinh đẹp và bình yên nhất với những thanh âm trong lành. Bằng lối viết gần gũi, hình ảnh đẹp, tài năng quan sát Duy Khán đã vẽ nên bức tranh mê đắm lòng người.