Tập thơ Nam trung tạp ngâm – Nguyễn Du

Tập thơ Nam trung tạp ngâm là một trong những tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Du. Tập thơ gồm 40 bài được nguyễn Du sáng tác trong thời gian ông giữ chức quan ở Phú Xuân và Quảng Bình trong khoảng thời gian từ 1804 đến 1820. Đây là tập thơ cuối đời của nhà thơ Nguyễn Du được cụ Lê Thước dịch. Hãy cùng nhau theo dõi ngay bây giờ nhé!

Nội Dung

鳳凰路上早行
征夫懷往路,
夜色尚蒙蒙。
月落猿聲外,
人行虎跡中。
力衰常畏露,
髮短不禁風。
野宿逢樵者,
相憐不在同。

Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
Chinh phu hoài vãng lộ,
Dạ sắc thượng mông mông.
Nguyệt lạc viên thanh ngoại,
Nhân hành hổ tích trung.
Lực suy thường uý lộ,
Phát đoản bất cấm phong.
Dã túc phùng tiều giả,
Tương liên bất tại đồng.

Dịch nghĩa
Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăn lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau

Phượng Hoàng: từ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng. Năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du đương làm tri phủ Thường Tín thì bị bệnh, xin từ chức. Về quê nghỉ được hơn một tháng lại có chỉ gọi vào kinh. Bài này làm trên đường tới kinh và mở đầu cho tập Nam trung tạp ngâm.

夢得採蓮其一
緊束蛺蝶裙,
採蓮棹小艇。
湖水何浺瀜,
水中有人影。

Mộng đắc thái liên kỳ 1
Khẩn thúc giáp điệp quần,
Thái liên trạo tiểu đĩnh.
Hồ thuỷ hà xung dung,
Thuỷ trung hữu nhân ảnh.

Dịch nghĩa
Buộc chặt váy cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ sao lai láng
Trong nước có bóng người

Theo Hoàng Xuân Hãn, bài này làm lúc Nguyễn Du đã được phong tước hầu, làm quan to ở Huế, để tưởng nhớ người yêu cũ là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Trong bài Ngẫu hứng, Nguyễn Du đã nhắc đến 4 chữ “Xuân, Hương, Xuân Hương”. Có người cho rằng trong thi đàn với nữ sĩ Hồ Xuân Hương lúc đó, ông Chiêu Hổ có tài văn chương ứng đố lưu loát chính là Nguyễn Du vì trong gia đình của cụ gọi cụ là cậu Chiêu Bảy.

夢得採蓮其二
採採西湖蓮,
花實俱上船。
花以贈所畏,
實以贈所憐。

Mộng đắc thái liên kỳ 2
Thái thái Tây Hồ liên,
Hoa thực câu thướng thuyền.
Hoa dĩ tặng sở uý,
Thực dĩ tặng sở liên.

Dịch nghĩa
Hái, hái sen Hồ Tây
Hoa và gương sen đều để trên thuyền
Hoa để tặng người mình trọng
Gương để tặng người mình thương

Mộng đắc thái liên kỳ 3 夢得採蓮其三 • Mộng thấy hái sen kỳ 3

夢得採蓮其三
今晨去採蓮,
乃約東鄰女。
不知來不知,
隔花聞笑語。

Mộng đắc thái liên kỳ 3
Kim thần khứ thái liên,
Nãi ước đông lân nữ.
Bất tri lai bất tri,
Cách hoa văn tiếu ngữ.

Dịch nghĩa
Sớm nay đi hái sen
Nên hẹn với cô láng giềng
Chẳng biết đến lúc nào không biết
Cách hoa nghe tiếng cười

夢得採蓮其四
共知憐蓮花,
誰者憐蓮幹。
其中有真絲,
牽連不可斷。

Mộng đắc thái liên kỳ 4
Cộng tri liên liên hoa,
Thuỳ giả liên liên cán.
Kỳ trung hữu chân ti,
Khiên liên bất khả đoạn.

Dịch nghĩa
Mọi người đều biết yêu hoa sen
Nhưng ai là kẻ yêu thân sen
Trong thân cây sen thật có tơ sen
Vương vấn không đứt được

夢得採蓮其五
蓮葉何青青,
蓮花嬌盈盈。
採之勿傷藕,
明年不復生。

Mộng đắc thái liên kỳ 5
Liên diệp hà thanh thanh,
Liên hoa kiều doanh doanh.
Thái chi vật thương ngẫu,
Minh niên bất phục sinh.

Dịch nghĩa
Lá sen sao mà xanh xanh
Hoa sen đẹp đầy đặn
Hái sen chớ làm tổn thương ngó sen
Sang năm sen không mọc lại được

秋至
香江一片月,
今古許多愁。
往事悲青塚,
新秋到白頭。
有形徒役役,
無病故拘拘。
回首藍江浦,
閒心謝白鷗。

Thu chí (I)
Hương Giang nhất phiến nguyệt,
Kim cổ hứa đa sầu.
Vãng sự bi thanh trủng,
Tân thu đáo bạch đầu.
Hữu hình đồ dịch dịch,
Vô bệnh cố câu câu.
Hồi thủ Lam Giang phố,
Nhàn tâm tạ bạch âu.

Dịch nghĩa
Một mảnh trăng trên sông Hương,
Mà xưa tới nay đã gợi không biết bao nhiêu mối sầu.
Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh,
Thu mới tới trên đầu tóc bạc.
Có hình nên phải chịu vất vả,
Không bệnh mà lưng vẫn khom khom.
Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam,
Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng.

悼犬
駿馬不老死,
烈女無善終。
凡生負奇氣,
天地非所容。
念爾屬所畜,
與人毛骨同。
貪進不知止,
隕身寒山中。
隕身勿嘆惋,
數試無全功。

Điệu khuyển
Tuấn mã bất lão tử,
Liệt nữ vô thiện chung.
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung.
Niệm nhĩ thuộc sở súc,
Dữ nhân mao cốt đồng.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển,
Sổ thí vô toàn công.

Dịch nghĩa
Ngựa hay không chết già
Người trinh liệt không chết yên lành
Phàm người sinh ra có khí phách khác thường
Trời đất không có chỗ dung túng
Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng đồng với loài người
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh
Bỏ mình chớ than tức
Bao lần thử sức không thành công

偶書公館壁
朝餐一盂飯,
暮浴一盆水。
閉門謝知交,
開窗見荊杞。
窗外荊杞蔓且長,
美人悠悠隔高牆。
杜宇一聲春去矣,
魂兮歸來悲故鄉。

Ngẫu thư công quán bích
Triêu xan nhất vu phạn,
Mộ dục nhất bồn thuỷ.
Bế môn tạ tri giao,
Khai song kiến kinh kỷ.
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường,
Mĩ nhân du du cách cao tường.
Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.

Dịch nghĩa
Sớm ăn một bát cơm
Chiều tắm một bồn nước
Đóng cửa tạ người quen
Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ
Ngoài cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan
Người đẹp vòi vọi cách tường cao
Cuốc kêu một tiếng xuân đi mất
Hồn ơi về đi thương cố hương

偶題公館壁其一
閶闔門前春色闌,
隔江遙對御屏山。
春從江上來何處,
人倚天涯滯一官。
滿地繁聲聞夜雨,
一床孤悶敵春寒。
桃花莫仗東君意,
傍有風姨性最酸。

Ngẫu đề công quán bích kỳ 1
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan,
Cách giang diêu đối Ngự Bình san.
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ,
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan.
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ,
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn.
Đào hoa mạc trượng đông quân ý,
Bàng hữu phong di tính tối toan.

Dịch nghĩa
Trước cửa rồng sắc xuân sắp tàn
Cách sông xa nhìn núi Ngự Bình
Xuân theo dòng sông đi về đâu ?
Người nương chân trời lụn trệ vì một chúc quan
Đêm nghe tiếng mưa ồn ào đầy đất
Trên một giường, nỗi buồn cô đơn chống với khí lạnh của xuân
Hoa đào chớ cậy được Chúa Xuân yêu
Bên cạnh có Dì Gió tánh rất chua chua ngoa

偶題公館壁其二
東望江頭望故交,
浮雲無定水滔滔。
風吹古塚浮榮盡,
日落平沙戰骨高。
山月江風如有得,
岩棲谷飲不辭勞。
平生已絕雲霄夢,
怕見傍人問羽毛。

Ngẫu đề công quán bích kỳ 2
Đông vọng giang đầu vọng cố giao,
Phù vân vô định thuỷ thao thao.
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận,
Nhật lạc bình sa chiến cốt cao.
Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi,
Nham thê cốc ẩm bất từ lao.
Bình sanh dĩ tuyệt vân tiêu mộng,
Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.

Dịch nghĩa
Đầu sông trông xuống đông là đất cũ
Đám mây lang thang, nước cuồn cuộn
Gió thổi nơi mồ xưa, bao nhiêu vinh hoa hư ảo tan hết
Bóng chiều trên bãi cát, xương chiến sĩ vun cao
Trăng núi gió sông như có lòng chờ đợi
Ở hang uống hố cũng không nề gian lao
Bình sinh đã dứt hẳn mộng lên mây xanh
Sợ thấy có người ở bên hỏi đến lông cánh

送人
香芹官道柳青青,
江北江南無限情。
上苑鶯嬌多妒色,
故鄉蓴老尚堪羹。
朝庭有道成君孝,
竹石多慚負爾盟。
惆悵深宵孤對影,
滿床滯雨不堪聽。

Tống nhân
Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh
Giang bắc giang nam vô hạn tình
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc
Cố hương thuần lão thượng kham canh
Triều đình hữu đạo thành quân hiếu
Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh
Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh

Dịch nghĩa
Trên đường cái quan Hương Cần liễu xanh xanh
Kẻ phía bắc sông, người phía nam sông, tình vô hạn
Những con oanh đẹp trong vườn vua ghen nhau vì sắc đẹp
Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh được
Triều đình có đạo khiến anh tròn chữ hiếu
Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi lời thề
Bồi hồi ảo não, đêm sâu một mình đối bóng
Tiếng mưa dầm đầy giường nghe không chịu nổi

偶興其一
三月春時長豆苗,
黃狐肥滿白狐驍。
主人在旅不歸去,
可惜鴻山屬晚樵。

Ngẫu hứng kỳ 1
Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu,
Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu.
Chủ nhân tại lữ bất quy khứ,
Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều.

Dịch nghĩa
Tháng ba mùa xuân đậu non mọc,
Cáo vàng béo mập, cáo trắng nhanh mạnh.
Chủ nhân đi xa không về,
Đáng tiếc buổi chiều núi Hồng Lĩnh thuộc về bác tiều phu.

偶興其二
蘆花初白菊初黃,
千里鄉心夜共長。
強起推窗望明月,
綠陰重疊不遺光。

Ngẫu hứng kỳ 2
Lô hoa sơ bạch, cúc sơ hoàng,
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt,
Lục âm trùng điệp bất di quang.

Dịch nghĩa
Hoa lau mới trắng, cúc mới vàng,
Vạn dặm lòng quê cùng chung đêm dài.
Cố dậy đẩy song cửa sổ xem trăng sáng,
Bóng xanh trùng điệp không lọt ánh sáng.

偶興其三
一帶芭蕉綠覆階,
半間煙火雜塵埃。
可憐庭草芟除盡,
他日春風何處來。

Ngẫu hứng kỳ 3
Nhất đới ba tiêu lục phúc giai,
Bán gian yên hoả tạp trần ai.
Khả liên đình thảo sam trừ tận,
Tha nhật xuân phong hà xứ lai?

Dịch nghĩa
Một dãy chuối xanh phủ kín thềm,
Nửa gian bếp lửa khói hỗn tạp bụi bặm.
Đáng thương đám cỏ trong sân đã bị cắt trụi,
Ngày sau gió xuân tới thổi chỗ nào.

偶興其四
故鄉亢旱久妨農,
十口孩兒菜色同。
譬似蒪鱸最關切,
懷歸原不待秋風。

Ngẫu hứng kỳ 4
Cố hương cang hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng.
Thí tự thuần lô tối quan thiết,
Hoài quy nguyên bất đãi thu phong.

Dịch nghĩa
Cố hương quá hạn hán từ lâu đã hại nhà nông,
Mười miệng trẻ con cùng mầu với rau.
Ví như quan thiết tới rau thuần cá lô,
Thì muốn về quê không cần chờ tới gió thu.

偶興其五
有一人焉良可哀,
破衣殘笠色如灰。
避人但覓道傍走,
知是升龍城裏來。

Ngẫu hứng kỳ 5
Hữu nhất nhân yên lương khả ai,
Phá y tàn lạp sắc như hôi.
Tị nhân đản mịch đạo bàng tẩu,
Tri thị Thăng Long thành lý lai.

Dịch nghĩa
Có một người sao rất đáng thương,
Áo rách, nón rách, sắc mặt như tro.
Tránh người khác thà tìm vào lề đường mà đi,
Biết đó là người từ thành Thăng Long lại.

偶題
白地庭墀夜色空,
深堂悄悄下簾櫳。
丁東砧杵千家月,
蕭索芭蕉一院風。
十口啼饑橫嶺北,
一身臥病帝城東。
知交怪我愁多夢,
天下何人不夢中。

Ngẫu đề
Bạch địa đình trì dạ sắc không,
Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm long.
Đinh đông châm xử thiên gia nguyệt,
Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong.
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh Đế Thành đông.
Tri giao quái ngã sầu đa mộng,
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.

Dịch nghĩa
Thềm sân trống trơn chỉ có màu đêm bàng bạc
Nhà sâu thăm thẳm, rèm buông xuống
Dưới bóng trăng của nghìn nhà, tiếng chày dập vải nghe rộn rã
Một viện gió thổi, tàu chuối khua xào xạc tiêu điều
Phía bắc Hoành Sơn, mười miệng kêu đói
Gó đông thành vua, một thân nằm bệnh
Các bạn quen biết lấy làm lạ tại sao ta sầu mộng
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng ?

水連道中早行
悲莫悲兮行道難,
草頭露宿犯衰顏。
百年古道皆成壑,
一帶平林不見山。
多病一身供道路,
五更殘夢續鄉關。
偶逢歸客向余話,
昨歲朝天乍放還。

Thuỷ Liên đạo trung tảo hành
Bi mạc bi hề hành đạo nan,
Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan.
Bách niên cổ đạo giai thành hác,
Nhất đới bình lâm bất kiến san.
Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ,
Ngũ canh tàn mộng tục hương quan.
Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại,
Tạc tuế triều thiên xạ phóng hoàn.

Dịch nghĩa
Không gì buồn hơn là đi đường khó khăn,
Gối cỏ ngủ ngoài sương phạm tới sắc mặt suy tàn.
Một trăm năm đường cũ đều thành hang vũng,
Một dải rừng bằng phẳng mênh mông, không thấy núi.
Một thân nhiều bệnh dâng cho đường lộ,
Năm canh tàn mộng tiếp tục thấy cổng làng.
Tình cờ gặp một người đang trên đường về nói cho ta biết,
Năm ngoái triều đình chợt tha cho về nhà.

新秋偶興
江城一臥閱三周,
北望家鄉天盡頭。
麗水錦山皆是客,
白雲紅樹不勝秋。
此身已作樊籠物,
何處重尋汗漫遊。
莫向天涯嘆淪落,
何南今是帝王州。

Tân thu ngẫu hứng
Giang thành nhất ngoạ duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.
Lệ Thuỷ, Cẩm Sơn giai thị khách,
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu.
Thử thân dĩ tác phàn lung vật,
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du.
Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc,
Hà Nam kim thị đế vương châu.

Dịch nghĩa
Nằm ở thành bên sông chốc đã ba năm tròn
Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời
Ở Lệ Thuỷ, Cẩm Sơn vẫn chỉ là khách
Mây trắng cây hồng bao xiết vẻ thu
Thân này đã làm vật trong lồng trong chậu
Còn tìm đâu lại cuộc chơi phóng đãng
Chớ nhìn chân trời mà than thân lưu lạc
Phía nam sông nay đã là đất của vua rồi.

夜坐
四壁蛩聲鬧夜眠,
矮床移向曲欄邊。
微風不動霜垂地,
斜月無光星滿天。
今古閒愁來醉後,
蓴鱸鄉思在秋先。
白頭所計惟衣食,
何得狂歌似少年?

Dạ toạ
Tứ bích cùng thanh náo dạ miên,
Ải sàng di hướng khúc lan biên.
Vi phong bất động sương thuỳ địa,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên.
Kim cổ nhàn sầu lai tuý hậu,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
Bạch đầu sở kế duy y thực,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!

贈人
盈盈一水對孤村,
中有高人不出門。
蕉鹿夢場心不競,
秦隋往事口能言。
春雲滿徑群麋鹿,
秋稻登場督子孫。
我欲掛冠從此逝,
與翁壽歲樂琴樽。

Tặng nhân
Doanh doanh nhất thuỷ đối cô thôn,
Trung hữu cao nhân bất xuất môn.
Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh,
Tần Tuỳ vãng sự khẩu năng ngôn.
Xuân vân mãn kính quần my lộc,
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn.
Ngã dục quải quan tòng thử thệ,
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.

Dịch nghĩa
Một dòng sông đầy ngăn một xóm hẻo lánh
Trong đó có một cao sĩ không ra khỏi cửa
Giấc mộng “lá chuối dấu hươu” lòng không tranh đua
Chuyện cũ đời tần đời Tuỳ miệng vẫn kể lại được
Mây mùa xuân phủ đầy lối đi, làm bạn cùng hươu nai
Lúa mùa thu đầy đồng, lo đôn đốc con cháu
Ta muôan treo mũ ra về theo ý nguyện
Để cùng ông gảy đàn uống rượu vui hưởng tuổi già.

再次原韻
湛原流水發山村,
日麗潮頭湧海門。
清渭濁涇同不息,
黃花綠竹兩忘言。
歲收秫米堪供客,
天假松年及抱孫。
浮世幾經桑鹵變,
床頭依舊酒盈樽。

Tái thứ nguyên vận
Trạm nguyên lưu thuỷ phát sơn thôn,
Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn.
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất túc,
Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn.
Tuế thu thuật mễ kham cung khách,
Thiên giả tùng niên cập bão tôn.
Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến,
Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn.

雜吟
白雲初起麗江城,
暑氣纔秋天氣清。
城外山山皆暮色,
江頭樹樹各秋聲。
他鄉白髮老不死,
昨歲黃花今更生。
為我鴻山謝松石,
再無面目見同盟。

Tạp ngâm (II)
Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành,
Thử khí tài thu, thiên khí thanh.
Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc,
Giang đầu thụ thụ các thu thanh.
Tha hương bạch phát lão bất tử,
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh.
Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch,
Tái vô diện mục kiến đồng minh.

Dịch nghĩa
Mây trắng mới nổi trôi trên thành sông Lệ
Hơi trắng vừa hết khí trời trong
Ngoài thành núi núi đều là sắc chiều hôm
Đầu sông cây cây đều vang tiếng gió thu
Đầu bạc ở quê người, già mà chẳng chết
Hoa cúc vàng năm ngoái nay lại sinh
Hay vì ta tạ lỗi với cây tùng và tảng đá ở non Hồng
Ta hông còn mặt mũi nào lại trông thấy bạn đồng minh nữa

江頭散步其一
散髮狂歌恣所之,
綠蘋風起多陽微。
白雲流水同無盡,
魚父浮鷗兩不疑。
無累未應招鬼責,
不才多恐速官非。
年年秋色渾如許,
人在他鄉不自知。

Giang đầu tản bộ kỳ 1
Tản phát cuồng ca tứ sở chi
Lục tần phong khởi, tịch dương vi
Bạch vân lưu thuỷ đồng vô tận
Ngư phủ phù âu lưỡng bất nghi
Vô luỵ vị ưng chiêu quỷ trách
Bất tài đa khủng tốc quan phi
Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri

江頭散步其二
促歌聲短漫聲長,
白髮蕭蕭古道旁。
細澗水聲流積雨,
平沙人影在斜陽。
涓埃莫報生何補,
兒女成群死不妨。
回首故鄉秋色遠,
橫山雲樹正蒼蒼。

Giang đầu tản bộ kỳ 2
Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường,
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng.
Tế giản thuỷ thanh lưu tích vũ,
Bình sa nhân ảnh tại tà dương.
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ,
Nhi nữ thành quần tử bất phương.
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn,
Hoành sơn vân thụ chính thương thương.

偶得
孤城日暮起陰雲,
青草漫漫到海濱。
曠野遍埋無主骨,
殊方獨托有官身。
事來徒隸皆驕我,
老去文章亦避人。
望外鴻山三百里,
相從何處問前鄰。

Ngẫu đắc
Cô thành nhật mộ khởi âm vân,
Thanh thảo man man đáo hải tần.
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt,
Thù phương độc thác hữu quan thân.
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân.
Vọng ngoại Hồng sơn tam bách lý,
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.

炮臺
南北書車慶大同,
炮臺虛設土城東。
山崩石裂城猶壯,
漢奪秦爭事已空。
昨者大虧生物德,
邇來不貴殺人功。
清平時節無爭戰,
牛犢耰耡正重農。

Pháo đài
Nam bắc xa thư khánh đại đồng,
Pháo đài hư thiết thổ thành đông.
Sơn băng thạch liệt thành do tráng,
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không.
Tạc giả đại khuy sinh vật đức,
Nhĩ lai bất quý sát nhân công.
Thanh bình thì tiết vô tranh chiến,
Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.

Pháo đài đặt ở Luỹ Thầy trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi Nguyễn Du làm cai bạ Quảng Bình thì việc phân tranh đã chấm dứt, pháo đài tuy còn, nhưng không cần đến nữa.

城下棄馬
誰家老馬棄城陰,
毛暗皮乾瘦不禁。
石壘秋寒經草短,
沙場日暮陣雲深。
饑來不作求人態,
老去終懷報國心。
耐得風霜全爾性,
莫教羈縶再相侵。

Thành hạ khí mã
Thuỳ gia lão mã khí thành âm,
Mao ám bì can sấu bất câm.
Thạch luỹ thu hàn kinh thảo đoản,
Sa trường nhật mộ trận vân thâm.
Cơ lai bất tác cầu nhân thái,
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.
Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính,
Mạc giao ky trập tái tương xâm.

Dịch nghĩa
Con ngựa già nhà ai bỏ dưới bóng thành ?
Lông nám da gô gầy không thể tả
Nơi thạch lũy thu lạnh, lối cỏ cằn cỗi
Chốn sa trường trời chiều, lớp mây dày dặc
Bụng đói, không học thói cầu cạnh người
Tuổi già, vẫn giữ lòng mong đền ơn nước
Chịu được phong sương, trọn tánh trời
Chớ để cương dàm phạm vào thân một lần nữa

望天台寺
天台山在帝城東,
隔一條江似不通。
古寺秋埋黃葉裏,
先朝僧老白雲中。
可憐白髮供驅驛,
不與青山相始終。
記得年前曾一到,
景興猶掛舊時鐘。

Vọng Thiên Thai tự
Thiên Thai sơn tại đế thành đông
Cách nhất điều giang tự bất thông
Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung.

Dịch nghĩa
Núi Thiên Thai nằm phía cuối thành đông
Cách một nhánh sông nhỏ, tưởng chừng chẳng có lối sang
Ngôi chùa cổ (ở đó) bị mùa thu vùi trong đám lá vàng
Triều vua trước vị sư già đi giữa áng mây trắng
Thương thay (cho mình) tóc đã bạc mà còn phải làm lụng vất vả
Chẳng thể cùng với non xanh giữ vẹn nghĩa thủy chung
Nhớ năm trước (ta) đã từng đến đấy
Còn trông thấy chiếc chuông cổ đúc từ thời Cảnh Hưng

Núi Thiên Thai ở phía đông thành Huế.

柬工部詹事陳其一
青山外有不歸人,
山北山南盡白雲。
七月又逢秋到眼,
天涯空帶老隨身。
百年古壘煙霞合,
一帶寒沙草樹分。
倚遍欗干無與語,
幾回驚坐憶陳遵。

Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 1
Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân,
Sơn bắc sơn nam tẫn bạch vân.
Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn,
Thiên nhai không đới lão tuỳ thân.
Bách niên cổ luỹ yên hà hợp,
Nhất đới hàn sa thảo thụ phân.
Ỷ biến lan can vô dữ ngữ,
Kỷ hồi kinh toạ ức Trần Tuân.

柬工部詹事陳其二
清風裊裊自江濱,
明月青山上海瀕。
難得相逢如此夜,
可憐同是未歸人。
陰符歲晚生仙蠹,
幽室秋寒現鬼燐。
夜讀明明招隱賦,
鴻山慚負一山雲。

Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 2
Thanh phong niểu niểu tự giang tân,
Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần.
Nan đắc tương phùng như thử dạ,
Khả liên đồng thị vị quy nhân.
“Âm phù” tuế vãn sinh tiên đố,
U thất thu hàn hiện quỷ lân.
Dạ độc minh minh “Chiêu Ẩn phú”,
Hồng sơn tàm phụ nhất sơn vân.

秋日寄興
西風纔到不歸人,
頓覺寒威已十分。
故國山河看落日,
他鄉身世托浮雲。
忽驚老境今朝是,
何處秋聲昨夜聞。
自哂白頭欠收入,
滿庭黃葉落紛紛。

Thu nhật ký hứng
Tây phong tài đáo bất quy nhân,
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc sơn hà khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn.
Tự sẩn bạch đầu khiếm thu nhập,
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.

Dịch nghĩa
Gió tây mới đến cùng người không về nhà được
Mà đã thấy khí lạnh mười phần ghê gớm
Non sông nước cũ trông bóng chiều tà
Thân thế chốn tha hương gởi cho đám mây nổi
Sáng hôm nay chợt thấy cảnh già mà kinh
Đêm qua nghe tiếng thu ở nơi nào nổi dậy
Cười mình đầu đã bạc mà thiếu tài thu xếp
Đầy sân lá vàng rụng bời bời

山中即事
疊疊層巒石作堆,
煙蘿布地密難開。
忽逢駭獸樹間出,
知有樵夫林下來。
燒野新痕青草盡,
倚山舊徑白雲催。
山靈故絕輕肥路,
遍列危岡與險涯。

Sơn trung tức sự
Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi,
Yên la bố địa mật nan khai.
Hốt phùng hãi thú thụ gian xuất,
Tri hữu tiều phu lâm hạ lai.
Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận,
Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi.
Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ,
Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai.

渡靈江
平沙盡處水天浮,
浩浩煙波古渡秋。
一望津涯通巨海,
歷朝彊界在中流。
三軍舊壁飛黃葉,
百戰殘骸臥綠蕪。
北上土民莫相避,
卅年前是我同州。

Độ Linh giang
Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,
Hạo hạo yên ba cổ độ thu.
Nhất vọng tân nhai thông cự hải,
Lịch triều cương giới tại trung lưu.
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp,
Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu.
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị,
Táp niên tiền thị ngã đông chu.

瀰江口鄉望
望望家鄉似日邊,
橫山只隔一山巔。
可憐歸路纔三日,
獨抱鄉心已四年。
鷰島秋寒青入海,
瀰江潮漲白函天。
外州今與吾州別,
看看人風不似前。

Nễ giang khẩu hương vọng
Vọng vọng gia hương tự nhật biên,
Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên.
Khả liên quy lộ tài tam nhật,
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên.
Yến đảo thu hàn thanh nhập hải,
Nễ giang triều trướng bạch hàm thiên.
Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt,
Khán khán nhân phong bất tự tiền.

Dịch nghĩa
Nhìn vọng về quê nhà như ở bên mặt trời,
Chỉ cách có một đỉnh núi Hoành Sơn thôi.
Khá thương đường về chỉ có ba ngày,
Mà một mình ôm lòng nhớ quê đã bốn năm.
Hơi thu lạnh nơi Hòn Én, sắc xanh chiếu xuống bể.
Nước triều dâng ở cửa sông Ròn khiến bọt trắng nổi lên trời.
Châu ngoài nay đã khác với châu ta rồi,
Hãy xem phong tục của người dân không giống trước nữa.

Nễ Giang: tên một con sông ở phía bắc tỉnh Quảng Bình từ đèo Ngang đi vào, tức sông Ròn.

依元韻寄青威吳四元
一夜西風到海湄,
同年交誼尚依依。
代耕有舌生常足,
去國何心老不歸。
消渴日增司馬病,
夢魂夜入少陵詩。
臨江未敢題鸚鵡,
還有中原一大兒。

Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên
Nhất dạ tây phong đáo hải mi,
Đồng niên giao nghị thượng y y.
Đại canh hữu thiệt sinh thường túc,
Khứ quốc hà tâm lão bất quy.
Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh,
Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi.
Lâm giang vị cảm đề Anh Vũ,
Hoàn hữu trung nguyên nhất đại nhi.

Thanh Oai: tên huyện ở Hà Đông (nay thuộc Hà Tây), quê của Ngô Tứ Nguyên (không rõ tên thật là gì). Trong tập này, tác giả không ghi bài nguyên xướng.

送吳汝山公出乂安
錦羅江上扣征安,
拜會非難惜別難。
八大奇文花兩國,
一車膏雨潤全驩。
人從淡泊斯為政,
天為黔黎不放閒。
北望鴻山開德曜,
天涯舉酒客鄉關。

Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất Nghệ An
Cẩm La giang thượng khấu chinh an,
Bát hội phi nan tích biệt nan.
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc,
Nhất xa cao vũ nhận toàn Hoan.
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính,
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn.
Bắc vọng Hồng sơn khai đức diệu,
Thiên nhai cử tửu khách hương quan.

Ngô Nhữ Sơn tức Ngô Nhân Tĩnh, tự Nhữ Sơn, nguyên người Trung Quốc sang ở Gia Định, thành người Việt Nam. Ông học giỏi thơ hay. Ông và Nguyễn Du từng là bạn thân thiết. Tháng giêng năm Gia Long thứ 10 (1811), ông đang làm quan tham trị Bộ Hộ ở Huế, được bổ hiệp trấn Nghệ An. Lúc đó Nguyễn Du đang làm cai bạ Quảng Bình, có thơ này tiễn ông.

代作久戍思歸其一
關外秋風送笛吹,
班超頭白未城歸。
十年許國君恩重,
千里離家旅夢遲。
夜繡榮花身外幻,
朝雲名利眼前非。
隴阡歲歲瓜田熟,
苦盡甘來尚有期。

Đại tác cửu thú tư quy kỳ 1
Quan ngoại thu phong tống địch xuy,
Ban Siêu đầu bạch vị thành quy.
Thập niên hứa quốc quân ân trọng,
Thiên lý ly gia lữ mộng trì.
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn,
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi.
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục,
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ.

Dịch nghĩa
Gió thu ngoài ải đưa tiếng địch đi xa
Ban Siêu đầu bạc vẫn chưa được về
Mười năm dâng mình cho nước, ơn vua nặng
Nghìn dặm lìa nhà, giấc mộng lữ thứ kéo dài
Vinh hoa như áo gấm đi đêm, chỉ là ảo ảnh ngoài thân
Danh lợi như bóng mây buổi sáng, đổi khác ngay trước mắt
Bên đường đất Lũng, năm này sang năm khác ruộng dưa lại chín
Hết khổ đến sướng còn có ngày về

代作久戍思歸其二
千仞橫山一帶河,
白雲回首隔天涯。
新秋氣候催寒杵,
故國關山寄夜笳。
天地一身中易孝,
風塵萬里國忘家。
月中橫笛太無賴,
半夜江城吹落花。

Đại tác cửu thú tư quy kỳ 2
Thiên nhận Hoành Sơn nhất đới hà,
Bạch vân hồi thủ cách thiên nha (nhai).
Tân thu khí hậu thôi hàn chử,
Cố quốc quan san ký dạ già.
Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu,
Phong trần vạn lý quốc vong gia.
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại,
Bán dạ giang thành xuy “Lạc hoa”.

Trên đây là toàn bộ toàn bộ 40 bài thơ của tập thơ Nam trung tạp ngâm của nhà thơ Nguyễn Du. Tập thơ được viết trong khoảng thời gian rất dài cho đến khi nhà thơ qua đời. Mời quý độc giả tiếp tục theo dõi trang thơ Nguyễn Du ở những bài viết tiếp theo nhé. Đồng hành cùng phongnguyet.info để theo dõi những bài viết đặc sắc nhất nhé! 

Viết một bình luận