Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 P5

Ở bài viết này chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả yêu thơ Nguyễn Du phần 4 tập thơ Bắc hành tạp lục – Tập thơ chữ hán nổi tiếng của Nguyễn Du. Hầu hết các bài thơ trong tập thơ Bắc hành thi tập là thơ luật, gồm 76 bài thất ngôn bát cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn tứ tuyệt; chỉ có 8 bài thất ngôn cổ phong, ngũ ngôn cổ phong và 18 bài trường thiên (thất ngôn, ngũ ngôn hoặc trường đoản cú) theo thể ca và hành.

Nội Dung

豫讓橋匕首行
晉陽城外滔滔水,
智伯漆頭為溺器。
無人報仇誠可悲,
其臣豫讓身當之。
漆身為癩剔鬚眉,
當道乞食妻不知。
身挾匕首伏橋下,
怒視仇腹甘如飴。
殺氣凜凜不可近,
白日無光霜雪飛。
再擭再舍心不移,
臨死猶能三擊衣。
凌凌奇氣千霄上,
自此橋名更豫讓。
君臣大義最分明,
國士眾人各易尙。
愧剎人臣懷二心,
千古聞之色惆悵。
不是荊軻聶政徒,
甘人豢養輕其軀。
血氣之勇不足道,
君獨錚錚鐵丈夫。
路經三晉皆丘土,
注目橋邊如有睹。
西風凄凄寒逼人,
征馬頻頻驚失路。
匕首當時七寸長,
獨有萬丈光茫亙今古。

Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành
Tấn Dương thành ngoại thao thao thuỷ,
Trí Bá tất đầu vi niệu khí.
Vô nhân báo cừu thành khả bi,
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi.
Tất thân vi lại dịch tu mi,
Đương đạo khất thực thê bất tri.
Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ,
Nộ thị cừu phúc cam như di.
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận,
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi.
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh,
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Quý sát nhân thần hoài nhị tâm,
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
Bất thị Kinh Kha Nhiếp Chính đồ,
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu.
Huyết khí chi dũng bất túc đạo,
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu.
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ,
Chú mục kiều biên như hữu đổ.
Tây phong thê thê hàn bức nhân,
Chinh mã tần tần kinh thất lộ.
Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường,
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ.

Dịch nghĩa
Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.

Dự Nhượng theo Sử ký Tư Mã Thiên, người nước Tấn, là bầy tôi Trí Bá 智伯, được Trí Bá rất kính yêu. Trí Bá đánh thua Triệu Tương Tử 趙襄子, bị Tương Tử cho sơn xương sọ dùng làm tô đựng rượu (có thuyết nói dùng đựng nước tiểu). Dự Nhượng hết lòng rửa nhục cho Trí Bá. Có lần giả làm tù nhân vào cung sửa nhà xí, dắt sẵn cây chuỷ thủ, định giết Tương Tử, không thành công. Tương Tử tha cho, coi Dự Nhượng là người hiền trong thiên hạ. Ít lâu sau, Dự Nhượng bôi sơn vào mình, làm như người hủi, nuốt than cho mất tiếng. Ăn mày ở chợ, mà vợ không nhận ra. Có người bạn nhận ra, khóc nói: “Có tài như anh, kiếm cách mua chuộc về thờ Tương Tử, tất được thân yêu. Bấy giờ thực hành ý muốn, há chẳng dễ ư?” Dự Nhượng đáp: “Đã đem thân về thờ người ta, mà lại chực giết, như thế là nhị tâm.Tôi làm như vậy là để cho thiên hạ đời sau kẻ nào làm tôi mà thờ chủ không một dạ coi đấy mà xấu hổ”. Dự Nhượng nấp dưới một cây cầu, chờ giết Tương Tử. Lại thất bại, trước khi kề gươm vào cổ tự vẫn, Dự Nhượng xin đâm ba lần vào áo Tương Tử để bầy tỏ ý chí báo thù. Được tin, các chí sĩ nước Triệu đều sa lệ. (Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Saigon, Việt nam, 1972, trang 520-524)

豫讓橋
豫讓匿身刺襄子,
此地因名豫讓橋。
豫讓既殺趙亦滅,
橋邊秋草空蕭蕭。
君臣正論堪千古,
天地全經盡一朝。
凜烈寒風冬日薄,
奸雄過此尚魂消。

Dự Nhượng kiều
Dự Nhượng nặc thân thích Tương Tử,
Thử địa nhân danh Dự Nhượng kiều.
Dự Nhượng kí sát Triệu diệc diệt,
Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu.
Quân thần chính luận kham thiên cổ,
Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu.
Lẫm liệt hàn phong đông nhật bạc,
Gian hùng quá thử thượng hồn tiêu.

Dịch nghĩa
Dự Nhượng dấu mình đâm Tương Tử
Chỗ này do đó tên là cầu Dự Nhượng
Dự Nhượng giết rồi, nước Triệu cũng diệt vong
Bên cầu cỏ thu xơ xác
Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng làm gương muôn thuở
Làm trọn đạo trời đất trong một sớm
Gió lạnh căm căm, trời đông nhạt
Kẻ gian hùng tới đây còn mất hồn vía

Dự Nhượng: Xem chú thích trong bài Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành.

荊軻故里
白虹貫日天漫漫,
風蕭蕭兮易水寒。
歌聲慷慨金聲烈,
荊軻從此入秦關。
入秦關兮持匕首,
六國深仇一引手。
殿上卒然一震驚,
左右手搏王環柱。
階下舞陽如死人,
神勇毅然惟獨君。
縱然不殺秦皇帝,
也算古今無比倫。
怪底行蹤原市隱,
曾與燕丹無夙分。
殺身只為受人知,
徒得田光輕一刎。
可憐無辜樊於期,
以頭借人無還時。
一朝枉殺三烈士,
咸陽天子終巍巍。
燕郊一望皆塵土,
秋日秋風滿官路。
市上歌聲不復聞,
易水波流自今古。
故里枳棘縱復橫,
只有殘碑猶未傾。
莫道匕首更無濟,
楬竿斬木為先聲。

Kinh Kha cố lý
Bạch hồng quán nhật thiên man man,
Phong tiêu tiêu hề Dịch Thuỷ hàn.
Ca thanh khảng khái kim thanh liệt,
Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan.
Nhập Tần quan hề trì chuỷ thủ,
Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ.
Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh,
Tả hữu thủ bác vương hoàn trụ.
Giai hạ Vũ Dương như tử nhân,
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân.
Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế,
Dã toán cổ kim vô bỉ luân.
Quái để hành tung nguyên thị ẩn,
Tằng dữ Yên Đan vô túc phận.
Sát thân chỉ vi thụ nhân tri,
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
Yến giao nhất vọng giai trần thổ,
Thu nhật thu phong mãn quan lộ.
Thị thượng ca thanh bất phục văn,
Dịch Thuỷ ba lưu tự kim cổ.
Cố lí chỉ cức tung phục hoành,
Chỉ hữu tàn bi do vị khuynh.
Mạc đạo chuỷ thủ canh vô tế,
Yết can trảm mộc vi tiên thanh.

Dịch nghĩa
Cầu vồng trắng vắt ngang mặt trời, bầu trời mênh mang
Gió thổi hắt hiu, chừ, sông Dịch lạnh
Tiếng ca khảng khái, tiếng thép rít
Kinh Kha vào ải Tần ở chỗ này
Vào ải Tần, chừ, cầm chuỷ thủ
Thù sâu sáu nước gửi vào một tay
Trên cung điện bỗng nhiên kinh động
Quan tả hữu tay không bắt, vua chạy vòng quanh cột
Dưới thềm, Vũ Dương như người đã chết
Thần dũng hiên ngang chỉ có mình ông
Dù chẳng giết được Tần hoàng đế
Tính xưa nay không có người sánh bằng
Lạ thay, vốn dấu kín hành tung giữa chợ
Không từng có duyên nợ gì với Yên Đan
Liều thân chỉ vì được người biết đến mình
Luống được Điền Quang nhẹ đâm cổ chết
Khá thương Phàn Ô Kỳ chẳng tội tình gì
Cho mượn đầu không hẹn kỳ trả lại
Một sớm ba liệt sĩ chết oan
Mà ngôi thiên tử ở Hàm Dương cuối cùng vẫn cao ngất ngưởng
Đất Yên nhìn toàn đất bụi
Nắng thu gió thu đầy quan lộ
Trong chợ không còn nghe tiếng ca nữa
Sông Dịch chảy mãi xưa nay
Làng cũ cây chỉ, cây gai mọc ngang dọc
Chỉ có cái bia tàn chưa đổ
Chớ nói rằng cây chuỷ thủ chẳng ích gì
Nó dẫn đầu cho việc trương sào, chặt cây (làm cờ, làm giáo khởi nghĩa)

Kinh Kha người nước Vệ, được Thái tử Đan nước Yên tin dùng, sang Tần uy hiếp Tần vương Chính 秦王政 (tức Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇).

帝堯廟
太虛一點大觀之,
天地無功萬物資。
在日茅茨猶不剪,
後身香火更何為。
一中心法開群帝,
千古崇祠對九疑。
曾向許由讓天下,
聖人名實有誰知。

Đế Nghiêu miếu
Thái hư nhất điểm đại quan chi,
Thiên địa vô công vạn vật ti (tư).
Tại nhật mao tì do bất tiễn,
Hậu thân hương hoả cánh hà vi.
Nhất trung tâm pháp khai quần đế,
Thiên cổ sùng từ đối Cửu Nghi.
Tằng hướng Hứa Do nhượng thiên hạ,
Thánh nhân danh thực hữu thuỳ tri.

Dịch nghĩa
Một điểm trong thái hư xem ra rất lớn
Trời đất vô công, muôn vật được nhờ
Lúc sống, ở nhà lợp cỏ tranh còn không cắt
Chết rồi hương khói để làm chi ?
Tâm pháp “giữ đạo trung” mở lối cho các vua chúa đời sau
Ngôi đền cao nghìn thuở đối mặt núi Cửu Nghi
Từng muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do
Danh và Thực của bậc thánh nhân có ai biết

Lưu Linh mộ 劉伶墓 • Mộ Lưu Linh

劉伶墓
劉伶之子不成才,
荷插揚言死便埋。
醉裡已能齊萬物,
死時何必念遺骸。
天年古墓長荊棘,
萬里官道多風埃。
何似清醒看世事,
浮萍擾擾更堪哀。

Lưu Linh mộ
Lưu Linh chi tử bất thành tài,
Hạ sáp dương ngôn tử tiện mai.
Tuý lý dĩ năng tề vạn vật,
Tử thì hà tất niệm di hài.
Thiên niên cổ mộ trường kinh cức,
Vạn lý quan đạo đa phong ai.
Hà tự thanh tinh khan thế sự,
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.

Dịch nghĩa
Gã họ Lưu không nên tài cán chi
Vác cuốc rêu rao “chết đâu chôn đó”
Trong cơn say đã có thể coi muôn vật ngang nhau
Đến lúc chết hà tất phải nghĩ tới hình hài
Mộ cổ nghìn năm gai góc mọc đầy
Đường quan muôn dặm nhiều gió bụi
Sao lại lấy trong sạch, tỉnh táo mà nhìn việc đời
Để như cánh bèo trôi giạt đáng thương thay

Lưu Linh tự Bá Luân 伯倫, người đất Bái đời Tấn (nay thuộc Từ Châu, Giang Tô), là một trong Trúc Lâm thất hiền gồm: Kê Khang 嵇康, Nguyễn Tịch 阮籍, Sơn Đào 山濤, Hướng Tú 向秀, Lưu Linh 劉伶, Nguyễn Hàm 阮咸, Vương Nhung 王戎.

騏麟墓
河北道中五尺豐碑當大路,
中有楷字大書騏麟墓。
道傍故老為余言,
永樂四年貢麟道死喪此土。
官命立碑用存故,
此事迄今已經古。
但見官道蕩蕩無丘陵,
其旁不封亦不樹。
片石傾欺苔蘚蔓,
淒風朝吹暮苦雨。
吁嗟麟兮何由睹,
吁嗟麟兮天上祥。
骨肉委之虫蛾蠹,
麟兮麟兮爾何苦。
何況燕棣何如人,
奪姪自立非仁君。
暴怒一逞夷十族,
大棒巨鑊烹忠臣。
五年所殺百餘萬,
白骨成山地血殷。
麟兮果為此人出,
大是妖物何足珍。
或是爾生不忍見殺戮,
先就此地捐其身。
吁嗟仁獸兮騏麟。
於世不見以為祥,
見之不過同犬羊。
若道能為聖人出,
當世何不南遊翔。

Kỳ lân mộ
Hà Bắc đạo trung ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ.
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn,
Vĩnh Lạc tứ niên cống lân đạo tử táng thử thổ.
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố,
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng,
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Phiến thạch khuynh khi đài tiển man,
Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ.
Hu ta lân hề hà do đổ,
Hu ta lân hề thiên thượng tường.
Cốt nhục uỷ chi trùng nghĩ đố,
Lân hề lân hề nhĩ hà khổ.
Hà huống Yên Đệ hà như nhân,
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân.
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần.
Ngũ niên sở sát bách dư vạn,
Bạch cốt thành sơn địa huyết an.
Lân hề quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật hà túc trân.
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Hu ta nhân thú hề kỳ lân.
Ư thế bất kiến dĩ vi tường,
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương.
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất nam du tường.

Dịch nghĩa
Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái.
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ chân: “Mộ Kỳ Lân”
Ông lão ở bên đường bảo ta rằng:
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giũa đường, chôn tại đây.
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ.”
Việc ấy đến nay đã lâu rồi,
Nay chỉ còn thấy con đường cái quan bằng phẳng không gò đống
Cạnh bia chẳng đắp mộ cũng không trồng cây.
Phiến đá xiêu vẹo, rêu phủ mờ,
Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề tuôn,
Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra?
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời!
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.
Ôi kỳ lân! Ôi kỳ lân! Sao mày khổ thế!
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?
Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân.
Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu.
Ôi kỳ lân! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý?
Hoặc là mày sống ở đời không nỡ nhìn cảnh chém giết,
Nên đến chỗ này mày chết trước.
Than ôi! kỳ lân là loài thú có đức nhân!
Trên trời chẳng thấy nên cho là điềm lành.
Thấy thì chẳng qua cũng như loài chó dê.
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra.
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?

Theo sách cổ, kỳ lân là linh thú, báo hiệu điềm lành, đời thịnh trị, kỳ lân ra đời là có thánh nhân xuất hiện.

郾城岳武穆班處
當時曾駐岳家軍,
此地經今有戰塵。
大將空懷邦國恥,
君王已絕父兄親。
金牌十二有遺恨,
鐵騎三千空暮蕓。
血戰十年成底事,
風波亭下謝金人。

Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ
Đương thì tằng trú Nhạc gia quân,
Thử địa kinh kim hữu chiến trần.
Đại tương không hoài bang quốc sỉ,
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân.
Kim bài thập nhị hữu di hận,
Thiết kị tam thiên không mộ vân.
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba đình hạ tạ Kim nhân.

Dịch nghĩa
Thời đó quân của Nhạc tướng quân từng đóng ở đây
Đất này xưa nay đã trải qua cát bụi chiến tranh
Đại tướng luống chịu mang cái nhục nước
Nhà vua đã dứt bỏ tình cha anh
Mười hai thẻ kim bài để lại mối hận
Ba ngàn quân kỵ chỉ còn lại đám mây chiều
Mười năm huyết chiến để thành ra cái việc
Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ lỗi với người Kim

Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam 河南, phía nam thành Hứa Xương 許昌. Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi 岳飛, tướng tài thời Nam Tống 南宋. Sau bị Tần Cối 秦檜 hại giết. Đến đời Hiếu Tông 孝宗, được phục chức và đặt tên thuỵ là Vũ Mục.

東路
泰山山色滿青徐,
千里山東縱目初。
何處聖賢松柏下,
別城絃誦曫鄒餘。
他鄉顏狀頻開鏡,
客路塵埃半讀書。
行色匆匆歲雲暮,
不禁憑式歎歸與。

Đông lộ
Thái Sơn sơn sắc mãn Thanh, Từ,
Thiên lý Sơn Ðông tống mục sơ.
Hà xứ thánh hiền tùng bách hạ,
Biệt thành huyền tụng Lỗ, Trâu dư.
Tha hương nhan trạng tần khai kính,
Khách lộ trần ai bán độc thư.
Hành sắc thông thông tuế vân mộ,
Bất câm bằng thức thán “qui dư”.

管仲三歸臺
舊臺湮沒草離離,
曾以桓公霸一時。
郡縣城中空九合,
莓苔石上記三歸。
在朝巧與君心合,
沒世終憐相業卑。
喜值聖朝公覆燾,
往來臺下雜華夷。

Quản Trọng Tam Quy đài
Cựu đài nhân một thảo li li,
Tằng dĩ Hoàn Công bá nhất thì.
Quận huyện thành trung không cửu hợp,
Môi đài thạch thượng kí Tam Quy.
Tại Triều xảo dữ quân tâm hợp,
Một thế chung liên tướng nghiệp ti.
Hỉ trị thánh triêu công phúc đảo,
Vãng lai đài hạ tạp Hoa, Di.

Dịch nghĩa
Đài cũ chìm lấp, cỏ mọc tua tủa
Từng giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá một thời
Trong thành đã chín lần hợp các quận huyện
Trên đá rêu phủ còn ghi chữ “Tam Quy”
Ở triều đình khéo hợp lòng vua
Rốt cuộc chết, bị chê là tể tướng công nghiệp nhỏ mọn
Mừng gặp thánh triều che chở khắp
Dưới đài qua lại lẫn lộn người Hoa, người Di

Quản Trọng: tên là Di Ngô 夷吾, người đất Dĩnh Thượng 潁上 nước Tề 齊 (vùng Sơn Đông). Công nghiệp của Tề Hoàn Công 齊桓公 đều nhờ Quản Trọng giúp đỡ mà thành.
Tam Quy đài: đài cao ba tầng, ngụ ý rằng ba hạng người quy phục mình: dân quy phục, chư hầu quy phục, các rợ quy phục. Quản Trọng đã xa xỉ lại kiêu: chỉ bậc thiên tử mới đáng lập đài đó. Vì vậy Khổng Tử chê Quản Trọng là khí tượng nhỏ mọn, không biết điều lễ (Luận ngữ – chương Bát dật). Mạnh Tử chê “sự nghiệp tầm thường”. (Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Sài gòn, Việt nam, 1972, trang 339).

嵇康琴臺
琴臺古跡記嵇康,
人死琴亡臺亦荒。
文武七絃終寂寂,
東西兩晉亦茫茫。
至今不朽惟童性,
此後何人到醉鄉。
嘆息廣陵絃絕後,
琵琶新譜半胡姜。

Kê Khang cầm đài
Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn vũ thất huyền chung tịch tịch,
Đông tây lưỡng Tấn diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo tuý hương.
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương.

Dịch nghĩa
Sách xưa ghi “Cầm đài” là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.

Kê Khang (233-262) tự Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Ðàn xong nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”. Truyện Kiều có câu: “Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành Vân”. Cầm đài là chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều có câu: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”.

東阿山路行
東阿路出亂山中,
萬樹松杉一逕通。
澗霧自生宜隱豹,
溪雲無事懶從龍。
丘陵處處留前代,
桑柘家家近古風。
笑我白頭忙不了,
嚴寒一路過山東。

Đông A sơn lộ hành
Đông A lộ xuất loạn sơn trung,
Vạn thụ tùng sam nhất kính thông.
Giản vụ tự sinh nghi ẩn báo,
Khê vân vô sự lại tòng long.
Khâu lăng xứ xứ lưu tiền đại,
Tang chá gia gia cận cổ phong.
Tiếu ngã bạch đầu mang bất liễu,
Nghiêm hàn nhất lộ quá Sơn Đông.

Dịch nghĩa
Đường Đông A đi ra từ trong núi ngổn ngang
Một con đường hẹp chạy qua muôn gốc tùng sam
Sương móc bốc lên hợp cho con báo ẩn nấp
Mây ở khe suối nhàn nhã biếng bay theo rồng
Nơi nơi gò đống lưu dấu triều đại trước
Nhà nhà trồng các loại dâu gần với lề lối xưa
Cười ta đầu bạc chộn rộn chưa xong việc
Trời lạnh dữ còn trên đường qua Sơn Đông

Đông A là tên một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.

楚霸王墓其一
拔山扛鼎奈天何,
夙恨悠悠寄淺沙。
霸上已成天子氣,
帳中空聽美人歌。
眼前片石英雄在,
事後群儒口舌多。
欲覓長陵一坏土,
赤眉亂後遍蓬麻。

Sở Bá Vương mộ kỳ 1
Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà,
Túc hận du du ký thiển sa.
Bá Thượng dĩ thành thiên tử khí,
Trướng trung không thính mỹ nhân ca.
Nhãn tiền phiến thạch anh hùng tại,
Sự hậu quần nho khẩu thiệt đa.
Dục mịch Trường Lăng nhất phôi thổ,
Xích my loạn hậu biến bồng ma.

Dịch nghĩa
Có sức dời núi nhấc vạc nhưng làm gì được mệnh trời
Mối hận cũ dằng dặc gửi dưới cát mỏng
Đất Bá Thượng đã hiện ra khí thiên tử
Trong màn luống nghe tiếng hát của người đẹp
Trước mắt, phiến đá còn để dấu anh hùng
Sau việc, đám nhà nho miệng lưỡi lắm điều
Muốn tìm một mảnh đất ở Trường Lăng
Nhưng sau loạn Xích mi, gai góc mọc đầy

Sở Bá Vương tức Hạng Tịch 項籍 (232-202) tự Vũ 羽 người đất Hạ Tương 下相 (nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇). Xuất thân từ gia đình quí tộc, đời đời làm tướng nước Sở. Theo chú là Hạng Lương 項梁 khởi binh ở Ngô Trung 吳中, đánh phía bắc đến vùng sông Hoài, sông Hoàng Hà, đại phá quân Tần. Tự lập làm Tây Sở Bá Vương 西楚霸王 cùng Lưu Bang 劉邦 tranh đoạt thiên hạ. Cuối cùng bị thua ở Cai Hạ 垓下, chạy đến Ô Giang 烏江 và tự vẫn ở đây.

楚霸王墓其二
路旁片石獨崢嶸,
不是烏江是魯城。
及識敗亡非戰罪,
空勞智力與天爭。
古今無那英雄淚,
風雨猶聞叱吒聲。
寂寂二時無埽祭,
春來虞草自叢生。

Sở Bá Vương mộ kỳ 2
Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh,
Bất thị Ô Giang thị Lỗ Thành.
Cập thức bại vong phi chiến tội,
Không lao trí lực dữ thiên tranh.
Cổ kim vô nả anh hùng lệ,
Phong vũ do văn sất trá thanh.
Tịch tịch nhị thì vô tảo tế,
Xuân lai Ngu thảo tự tùng sanh.

Dịch nghĩa
Bên đường tấm đá đứng một mình cao ngất
Không phải ở Ô Giang (nơi Hạng Vũ tự đâm cổ) mà ở thành nước Lỗ (nơi dân chúng trung thành với Hạng Vương tới cùng, đã tống táng Hạng Vương theo nghi lễ)
Mới hay đánh thua không phải vì dùng binh vụng
Đem trí lực đọ với mệnh trời chỉ uổng công
Xưa nay bao anh hùng đã rớt nước mắt
Trong mưa gió còn nghe tiếng thét gào
Vắng lặng hai mùa không người quét dọn cúng tế
Mùa xuân đến, cỏ Ngu mỹ nhân lại mọc rậm rạp xanh tươi

Sở Bá Vương: xem chú thích trong kỳ 1.
Chú theo Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, Việt nam, 1972, trang 199-203).

柳下惠墓
吳店橋通泗水波,
士師名蹟未消磨。
事人直道寧三黜,
作聖全功在一和。
相對尼山長有魯,
可憐盜跖已無家。
碑殘字沒埋荒草,
天古聞風一下車。

Liễu Hạ Huệ mộ
Ngô Điếm kiều thông Tứ thuỷ ba,
Sĩ Sư danh tích vị tiêu ma.
Sự nhân trực đạo ninh tam truất,
Tác thánh toàn công tại nhất hoà.
Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ,
Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia.
Bi tàn tự một mai hoang thảo,
Thiên cổ văn phong nhất há xa.

Dịch nghĩa
Dưới cầu Ngô Điếm sông Tứ chảy
Tiếng tăm của bậc Sĩ sư vẫn chưa mất
Lấy đạo ngay thẳng thờ người, ba lần chịu mất chức
Nên công bậc thánh ở chữ “Hoà”
Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi mãi
Thương cho Đạo Chích kẻ không nhà
Bia tàn chữ mất chôn vùi nơi cỏ hoang
Nghìn năm còn nghe tiếng, tôi xuống xe

Liễu Hạ Huệ: tức Triển Cầm 展禽, tên Hoạch 獲, tự là Quý 季, người đất Liễu Hạ 柳下, nước Lỗ 魯, thời Xuân Thu 春秋. Làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Có người hỏi, ông trả lời: “Lấy đạo ngay mà thờ người thì đi đâu mà không bị ba lần truất. Nếu lấy đạo cong thì hà tất phải bỏ nước của cha mẹ”. Sau khi chết, được đặt tên thuỵ là Huệ 惠. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hoà (Thánh chi hoà 聖之和).

徐州道中
桑乾南下白雲多,
水遠山長瞥眼過。
萬里利名驅白髮,
一天風雪渡黃河。
每憐故態惟狂在,
欲覓新歡奈老何。
攘盡苦寒三閱月,
嶺頭落得看梅花。

Từ Châu đạo trung
Tang Can nam hạ bạch vân đa,
Thuỷ viễn sơn trường miết nhãn qua.
Vạn lý lợi danh khu bạch phát,
Nhất thiên phong tuyết độ Hoàng Hà.
Mỗi liên cố thái duy cuồng tại,
Dục mịch tân hoan nại lão hà.
Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt,
Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.

Dịch nghĩa
Sông Tang Can về nam nhiều mây trắng
Sông xa núi dài, vút mắt nhìn qua
Vì lợi danh mà tóc trắng vẫn còn rong ruổi ngoài vạn dặm
Một trời gió tuyết qua sông Hoàng Hà
Thương thay cho tánh cũ vẫn còn ngông cuồng
Muốn tìm vui mới nhưng già rồi biết làm sao
Cố chịu khổ lạnh suốt ba tháng nữa
Sẽ được ngắm hoa mai trên đỉnh núi

Từ Châu là một trong chín châu 九州 nhà Hạ, nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyễn Du trên đường về nước năm Quí Dậu (1813), qua sông Hoàng Hà 黄河, đã ghé Từ Châu.

二疏故里
浮世滔滔死殉名,
回頭誰肯念吾生。
官從一致身能保,
事隔千年石未傾。
春社空留親故會,
薄田無復子孫耕。
可憐垂老蕭賢傅,
徒得人間歎不平。

Nhị Sơ cố lý
Phù thế thao thao tử tuẫn danh,
Hồi đầu thuỳ khẳng niệm ngô sinh.
Quan tòng nhất trí thân năng bảo,
Sự cách thiên niên thạch vị khuynh.
Xuân xã không lưu thân cố hội,
Bạc điền vô phục tử tôn canh.
Khả liên thuỳ lão Tiêu Hiền Phó,
Đồ đắc nhân gian thán bất bình.

Dịch nghĩa
Cuộc đời trôi nổi, bao người chết vì danh
Mấy ai chịu quay đầu suy ngẫm đời mình
Đồng lòng từ quan, giữ lấy được thân
Việc cách đây nghìn năm mà bia đá chưa đổ
Ngày hội xuân còn không người cũ họp mặt
Ruộng (vua cho) coi thường không để con cháu cày cấy
Đáng thương Tiêu Hiền Phó (làm quan) đến già (bị hạ ngục phải tự tử)
Để được người đời than cho nỗi bất bình

Nhị Sơ: đời Hán Tuyên Đế 漢宣帝 có hai người họ Sơ, chú là Sơ Quảng làm Thái Phó và cháu là Sơ Thụ làm Thiếu Phó, cùng cáo quan một lúc. Người đời khen tấm lòng cao thượng, không ham danh vị. Khi ra về, vua ban nhiều của cải ruộng đất, hai ông chia cho bạn bè, không để lại cho con cháu.

徐州堤上望
一河南北古爭衡,
河上徐州舊有名。
戲馬舊臺秋草遍,
斷蛇大澤暮雲平。
一城人物窩中蟻,
四路舟車水上萍。
悵望紅塵渺無際,
不知日日此中行。

Từ Châu đê thượng vọng
Nhất hà nam bắc cổ tranh hành,
Hà thượng Từ Châu cựu hữu danh.
Hí mã cựu đài thu thảo biến,
Đoạn xà đại trạch mộ vân bình.
Nhất thành nhân vật oa trung nghĩ,
Tứ lộ chu xa thuỷ thượng bình.
Trướng vọng hồng trần diểu vô tế,
Bất tri nhật nhật thử trung hành.

Dịch nghĩa
Một sông chia nam bắc, xưa tranh giành
Phía trên sông là đất Từ Châu nổi tiếng thời trước
Đài đua ngựa cũ, cỏ thu mọc tràn
Đầm lớn “chém rắn” ngập mây chiều
Người vật trong thành như kiến trong tổ
Thuyền xe bốn ngả như bèo nổi trên nước
Buồn trông bụi hồng bay mù không bờ bến
Không biết rằng ngày ngày đi lại trong đó

Từ Châu: Từ Châu là một trong chín châu 九州 nhà Hạ, nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇.

安徽道中
啼鴉啞啞亂凌晨,
徐北徐南曉色分。
一帶雪田青者麥,
四山松樹白為雲。
悠悠鄉國八千里,
碌碌功名一片塵。
共指梅花報消息,
春何曾到異鄉人。

An Huy đạo trung
Đề nha á á loạn lăng thần,
Từ bắc Từ nam hiểu sắc phân.
Nhất đới tuyết điền thanh giả mạch,
Tứ sơn tùng thụ bạch vi vân.
Du du hương quốc bát thiên lý,
Lục lục công danh nhất phiến trần.
Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức,
Xuân hà tằng đáo dị hương nhân.

Dịch nghĩa
Tiếng quạ kêu quác quác làm xáo trộn buổi hừng đông,
Ánh sáng ban mai phân biệt hai vùng nam bắc Từ Châu,
Một dải ruộng tuyết phủ, xanh là lúa mạch,
Bốn phía núi tùng đầy, trắng là mây,
Quê hương mờ mịt, cách xa tám nghìn dặm
Lặn lội theo đuổi công danh, thân một áng bụi đời,
Cùng trỏ hoa mai báo tin tức,
Nhưng xuân có đến bao giờ với kẻ tha hương.

亞父墓
眼看霸上五雲浮,
汲汲方圖一擊謀。
但得此心無負楚,
不知天命已歸劉。
伯圖泯滅千年後,
古墓荒涼三尺秋。
多少一心忠所事,
每為天下笑其愚。

Á Phụ mộ
Nhãn khan Bá Thượng ngũ vân phù,
Cấp cấp phương đồ nhất kích mưu.
Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở,
Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu.
Bá đồ mẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoang lương tam xích thu.
Đa thiểu nhất tâm trung sở sự,
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.

Dịch nghĩa
Mắt đã trông thấy mây năm sắc nổi trên đất Bá Thượng
Mà còn nhất định gấp rút lo mưu chước đánh kẻ thù
Lòng này chỉ mong khỏi phụ nước Sở
Chẳng cần biết mệnh trời đã về họ Lưu
Sau nghìn năm nghiệp bá đã tan tành
Ngôi mộ cổ ba thước lạnh lẽo trong khí thu hoang lạnh
Bao kẻ một lòng trung với người mình phụng sự
Thường làm cho thiên hạ cười rằng ngu

Á Phụ: dưới cha một bậc, cũng như chú, tiếng tôn xưng Phạm Tăng 范增. Phạm Tăng giúp Hạng Vũ 項羽 dựng nghiệp bá. Hạng Vũ kính trọng như cha chú, thường gọi là Á Phụ. Trong bữa yến tại Hồng Môn, Phạm Tăng khuyên Hạng Vũ giết Lưu Bang 劉邦 để trừ hậu hoạ. Hạng Vũ không nghe, sau lại nghe bọn phản gián, đem lòng nghi kỵ, tước bỏ hết quyền hành của Phạm Tăng. Phạm Tăng giận bỏ về, đến Bành Thành bị ưng thư nơi hậu bối, không chữa khỏi phải chết.

Xem tiếp: Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Phần Cuối

Viết một bình luận