Đây mùa thu tới là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu. Bài thơ miêu tả khung cảnh mùa thu bâng khuâng, rạo rực. Mùa thu trong thơ Xuân Diệu thật đẹp nhưng cũng thật buồn. Đây mùa thu tới mang đến cho người đọc những cảm xúc thật đặc biệt. Cùng cảm nhận về vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bức tranh Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu nhé.
Tặng Nhất LinhRặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình với những tác phẩm nổi bật được độc giả yêu thích hiện nay. Đây mùa thu tới là một trong những tác phẩm viết về để tài mùa thu nhưng với những cảm nhận hết sức mới mẻ, hết sức sáng tạo mang đến cho người đọc nhưng giây phút thưởng thức vô cùng thú vị. Chính vì vậy bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ mới của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh mùa thu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hình ảnh mùa thu trong thơ Xuân Diệu không phải là hình ảnh lá cây ngô đồng rụng, mà đó là hình ảnh cây liễu. Hình ảnh cây liễu trong bài thơ Đây mùa thu tới, là hình ảnh nhân hóa như một ngươi phụ nữ duyên dáng yêu kiều buồn tang tóc não nùng. Nhà thơ Xuân Diệu đã đưa vào bài thơ một nét riêng mới lạ đó chính là đem lại cho rặng liễu một dáng hình cụ thể, một tâm hồn con người, một nỗi sầu muộn rất người.
Nỗi buồn, sự lẻ loi được thể hiện qua từ láy “đìu hiu” hình ảnh gợi sự yếu đuối “tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”, sự láy âm giữa các chứ “buồn-buông-xuống” “tang-ngàn-hàng” tạo lên hiệu quả diễn đạt miêu tả cái buồn của mùa thu, đó là dấu hiệu của chia tay tang tóc cây liễu trĩu nặng như không mang nổi mình nó
“Đây mùa thu tới mùa thu tới”
Động từ “tới” được lặp đi lặp lại hai lần, báo hiệu một mùa thu vội vã, một sự giao cảm tinh tế nhạy bén. Nhịp câu thơ 4/3, sự lặp lại mùa thu tới như một tiếng reo ngỡ ngàng như chợt nhận ra mùa thu vô hình đã trở thành mùa thu hữu hình. Xuân diệu đón mùa thu bằng cả tấm lòng
“Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Xuân diệu đã vẽ nên mùa thu bằng chiếc áo mơ phai tạo cho mùa thu một dang vẻ tươi sáng thanh nhẹ quý phái, đây là màu sắc hư ảo. Động từ “dệt” cho ta cảm nhận màu vàng nhưng không tĩnh lặng, một màu xanh đậm không chịu úa tàn mà vẫn tiềm ẩn một sức mạnh của thiên nhiên. Câu thơ mất đi một chút rõ ràng nhưng được thêm rất nhiều thơ mộng. Ở khổ thơ đầu của bài thơ nhà thơ Xuân Diệu miêu tả bức tranh mùa thu buồn.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
“Hơn một” có nghĩa là vài là mấy nhưng lại không mang tính cụ thể, từ hơn một là từ ngữ được Xuân Diệu sử dụng vô cùng sáng tạo. “Hoa rụng” thay cho từ lá rụng mà các nhà thơ xưa hay dùng đã tăng thêm cảm giác chia lìa tang tóc.
“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”
Rũa là từ chỉ xung đột giữa sắc đỏ và sắc xanh. Nhà thơ dùng những gam màu đối lập gay gắt đỏ – xanh vừa gây một cảm giác mạnh, vừa biểu hiện một ý tưởng, bước đi tàn nhẫn của thời gian làm phôi phai tất cả trong đó có màu lá.
“Những luồng run rẩy rung rinh lá”
Láy 4 phụ âm “run-ray-rung-rinh” gợi cảm giác lạnh lẽo, một sự rung động khẽ khàng của cây lá. Sử dụng một loạt âm tiết có phụ âm rung láy, bốn phụ âm “r” đã làm run rẩy cả câu thơ, cái lạnh như thấm từ đầu lưỡi lan ra đến tận gan ruột con người. Sự rung động khẽ của cây lá hay cũng chính là sự sợ hãi mang tâm trạng con người. Tác giả miêu tả gợi cảm cả bên trong cảnh vật
“Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Câu thơ là nét vẽ tranh phương đông chấm phá, chỉ ra linh hồn cảu cảnh vật, sự trơ trọi gầy guộc của cành lá khi thu, nhưng là mùa thu chưa định hình nên chỉ là đôi nhánh. Với cảm quan nhạy bén, với khả năng lựa chọn từ ngữ hình ảnh đoạn thơ đã đem lại cho ta cái sống động của cảnh vật.
Đó là sự sợ hãi của những chiếc lá sắp bị lìa cành, cách cảm nhận từ ngữ tinh tế, xuân diệu đã cảm được những biến động tinh vi huyền diệu của thiên nhiên, đó là cảnh phôi pha tan nát khi trời đất chuyển thu.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Sự xuất hiện hình ảnh trăng cô lẻ, ngẩn ngơ buồn, hình ảnh non xa nhạt nhòa tạo cảm giác không gian quạnh hiu xa vắng, đặc biệt là chữ “vắng” càng giúp người đọc cảm nhận nỗi buồn vô cùng.
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió”
“Nghe” có sự chuyển đổi cảm giác từ xúc giác sang thính giác. Câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa rét mướt – luồn, gió rét đã hòa làm một, nhưng từ luồn đã tách đôi gió rét ra làm 2 vật thể riêng biệt.
Đó là một cách vật thể hóa cái lạnh, chỉ mức độ cái lạnh của mùa thu, cái vô hình đã thành cái hữu hình nhờ động từ luồn. tác giả đã mở hết các giác quan để thụ cảm cái nhạt nhòa quạnh hiu buồn. Ta thấy đát trời quạnh quẽ xa mờ hơn, vầng trăng như cùng bơ vơ, ngẩn ngơ, núi không rõ nét, tất cả như đang chia ly như rời bỏ nhau.
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
Khổ thơ thứ 4 là cái nhìn lên bầu trời “mây vẩn từng không…” nếu bầu trời trong thơ Nguyễn Khuyến là bầu trời trong nhẹ cao thì trong thơ Xuân Diệu là “mây vẩn từng không chim bay đi” là chim đi khi trời u uất, không gian rộng xa vắng tạo sự chia ly tan tác, cảnh vận động theo mạch từ cái xác định cụ thể đến cái không xác định. Cái tình đậm nét dần, những nỗi buồn, cái buồn của cái tôi cá nhân càng đi sâu càng thấy lạnh càng cô đơn, cái tôi tách khỏi cái ta (đặc trưng của thơ mới).
Hai câu thơ cuối là sự xuất hiện của ít nhiều từ ngữ không làm cho cảnh vui hơn mà trái lại càng sầu thảm hơn, đây là lối diễn đạt rất tây trong cấu trúc đảo ngữ “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”đã vẽ lên nỗi sầu buồn lẻ loi cô đơn của thiếu nữa trước không gian mênh mang, hai câu thơ nói lên nỗi buồn xa xăm thương nhớ, sự ngơ ngác của các cô gái chàng trai và cũng chính là tâm trạng nhà thơ, những con người mơ mộng và say đắm yêu thương.
Con người đã xuất hiện rong tâm trạng u buồn suy tư, tình thu đã đâm sâu vào cảnh vào lòng người .
Đây mùa thu tới của Xuân Diệu ta thấy được một tâm hồn nhạy cảm một năng lực quan sát tinh tế, một trí tưởng tượng phong phú. Nỗi buồn trong thơ xuân diệu không chỉ là nỗi buồn của những con người thời đại không tìm được hướng đi cho mình mà còn do những đặc điểm rất riêng của nhà thơ, khát khao giao cảm với đời mà đời lạnh nhạt, nỗi ám ảnh sâu sắc về thời gian một đi không trở lại. Bài thơ là không gian đẹp chứng tỏ nhà thơ có một tình yêu tha thiết với quê hương đất nước, đó là yếu tố tích cực trong thơ xuân diệu cũng như của các nhà thơ mới.