Trong chương trình Ngữ Văn 10, với bài học Thơ Hai-cư của Ba-sô, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.
Bài soạn tham khảo số 1
Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Bài thơ 1:
Nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là To-ky-o ngày nay):
– Mười mùa sương xa quên, mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E- đô
– Mười mùa sương gợi sự thương nhớ của người xa quê
– Tình yêu quê hương đất nước hòa quyện với nhau
Bài thơ 2:
Kyoto nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666- 1672), ông chuyển đến Ê-đô
– Hai mươi năm sau trở lại Kyoto nghe tiếng chim đỗ quyền hót cho Ba-sô cảm hứng sáng tác bài thơ
– Bài thơ gợi sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, chim báo mùa, gợi lên kỉ niệm tuổi trẻ
– Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về thời xa xăm
→ Thơ của Ba-sô mang lại những ấn tượng đầy lãng mạn, gợi lên nỗi nhớ, hoài cảm
Câu 2 (Trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Bài thơ 3:
Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay Ba- sô rưng rưng dòng lệ chảy
+ Lòng thương cảm, xót xa, trống trải khi mẹ không còn
+ Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục
→ Tình mẫu tử khiến người đọc cảm động
Bài thơ 4:
Bài thơ trong hoàn cảnh đặc biệt: Ba sô kể chuyện từng đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú, tiếng kêu ấy gợi lên tiếng khóc của em bé bỏ rơi trong rừng
– Bài thơ gợi nhắc lại những năm tháng đau thương của nước Nhật: những năm mất mùa, đói kém, có những nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng
– Âm thanh tiếng vượn gợi nhớ tới những tiếng khóc, nỗi buồn đau của con người.
– Gió mùa thu cũng gợi lên nhiều nỗi đau thương, sự mơ hồ, mờ ảo của bài thơ, điều đó gợi ra sự đồng cảm của người đọc
Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi đi du hành ngang qua rừng thấy kỉ nhỏ run lên trong cơn mưa mùa đông
– Nhà thơ mong muốn có chủ khỉ thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.
– Hình ảnh chú khỉ đơn độc gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh
→ Bài thơ là tình yêu thương, yêu thương sâu sắc nhà thơ đối với kiếp người nghèo khổ.
Câu 4 ( trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
– Bài thơ miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở.
Tác giả liên tưởng cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng
– Hình ảnh đẹp đẽ chứa đựng triết lí sâu sắc : sự tương giao mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới tác động qua lại lẫn nhau, không thể tồn tại độc lập
Về bài 7:
– Sự im lặng huyền diệu, trong cảnh u tịch có tiếng ve ngâm như thấm sâu vào đá
– Một liên tưởng độc đáo, không hề thậm xưng bởi cảnh u huyền đó là có thực và con người chìm vào thế giới suy tưởng của bản thân.
Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Khát vọng sống, khát vọng được lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8
– Trước cái chết, Ba- sô không hề bi lụy
+ Cuộc đời Ba-sô đã lang thang, phiêu bạt mọi nơi
+ Khi sắp từ giã cõi đời ông vẫn là người mang tâm hồn lãng du
+ Gợi tâm hồn Ba-sô lang thang trên những cánh đồng hoang vu.
→ Bài thơ giống như tâm nguyện của tác giả muốn được phiêu du
Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Quý ngữ và cảm thức thẩm mĩ về cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền
– Qúy ngữ chính là “cánh hoa đào” gợi lên:
+ Mùa xuân tươi đẹp
+ Cảm thức thẩm mĩ đơn sơ của bài thơ hai- cư này chính là triết lí sâu sắc rút ra được bức tranh mùa xuân tươi đẹp
– Bài thơ 7 quý ngữ “tiếng ve ngâm”: âm thanh vang vọng mùa hè, cảm thức thẩm mĩ nằm trong sự u huyền, tịch mịch nhưng cũng gợi sự thẩm thấu vào kẽ lá
– Quý ngữ bài 8: “những cái đồng hoang vu”, những cánh đồng hiện lên giấc mơ tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như gợi lên mùa thu hiu quạnh, cảm thức ẩn sâu trong sự vắng lặng đó.
Bài soạn tham khảo số 2
Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Bài 1: Ê-đô là đất khách. Vậy mà, trong giây phút chia xa, Ê-đô trở nên thân thiết, gần gũi, sâu nặng như chính quê hương mình.
Bài 2: Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng kêu của chim đỗ quyên. Tiếng kêu nghe khắc khoải gợi lại kỉ niệm một thời trẻ tuổi. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm
Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Bài 3: Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ: là giọt lệ như sương, hay mái tóc bạc của mẹ như sương, hay cuộc đời như giọt sương: ngắn ngủi, vô thường.
=>Tình mẫu tử xúc động, thiêng liêng.
Bài 4 :
– Nghe tiếng Vượn hú, Ba – sô liên tưởng đến tiếng khóc của trẻ bị bỏ rơi trong rừng.
– Tiếng Vượn là thật hay tiếng trẻ em khóc là thật.
– Trong gió mùa thu, hay tiếng gió mùa thu đang than khóc cho nỗi đau buồn của con người=> Hình ảnh trong thơ thật mơ hồ, mờ ảo.
Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Bài thơ thể hiện lòng từ bi, nhân ái với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp cũng là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ của tác giả.
Câu 4 (trang 157sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Cảnh tượng: Cánh hoa đào làm mặt hồ gợn sóng -> đẹp giản dị mà nên thơ.
– Triết lí sâu sắc: Sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ (trời, hoa, nước) =>Triết lí của Thiền Tông.
Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Khát vọng sống ngay lúc đang bệnh, sống để tiếp tục cuộc du hành lang thang, phiêu bồng, lãng du => tinh thần lạc quan.
Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
– Quý ngữ trong các bài thơ:
+ Bài 6: Hoa đào (chỉ mùa xuân)
+ Bài 7: Tiếng ve (chỉ mùa hè)
+ Bài 8: Cánh đồng hoang vu (chỉ mùa đông).
– Cảm thức thẩm mĩ:
+ Hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé, bình dị, tầm thường.
+ Đơn sơ, vắng lặng: cánh hoa đào mỏng manh rơi làm mặt hồ gợn sóng
+ U huyền: âm thanh của tiếng ve ngân tưởng như thấm sâu vào đá, một linh hồn sắp lìa khỏi thế gian vẫn muốn tiếp tục lang thang trên cánh đồng hoang vu, bất tận.
=> Hòa nhập với thiên nhiên để tìm vẻ đẹp thuần khiết, nhẹ nhàng của nó và giải thoát tâm linh mình
=> Đậm chất thiền
Bài soạn tham khảo số 3
Câu 1 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm:
– Về bài 1: Ba-sô quê ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô ở được mười năm mới về thăm quê. Ở Ê-đô, Ba-sô rất nhớ quê, nhưng về quê rồi rồi Ba-sô lại thấy nhớ Ê-đô. Có lẽ ông đã coi Ê-đô như quê hương mình, muốn gắn bó với mảnh đất ấy như nơi mình đã sinh ra.
– Về bài 2: Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên ở bài thơ này. Đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm. Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.
Câu 2 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi:
– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử. Ông đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”. Dòng nước mắt của nỗi xót xa, đau đớn, tình yêu thương đối với người mẹ đã khuất. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.
– Bài 4: Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ. Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc. Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người. Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương khôn nguôn.
Câu 3 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ qua bài 5:
Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện lòng từ bi với những sinh vật tội nghiệp và tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.
Câu 4 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng được thể hiện qua:
– Bài 6: miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở. Tác giả liên tưởng hàng ngàn cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng. Chính cảnh tượng đẹp đẽ này lại ẩn chứa một triết lí vô cùng sâu sắc: sự tương giao của mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới này đều tác động qua lại lẫn nhau, không có vật thể nào tồn tại độc lập.
– Bài 7: Trong cái không gian im lăng, có chút gì đấy trầm buồn thì tiếng ve hiện lên. Không râm ran, nó rền rĩ để rồi thấm vào đá. Khung cảnh u tịch, vắng lặng mang chút buồn
Câu 5 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô:
Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô không hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.
Câu 6 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): “Quý ngữ” và cảm thức thẩm mĩ về cái Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền trong các bài 6,7,8:
– Bài 6: quý ngữ là “cánh hoa anh đào”. Hình ảnh này gợi lên mùa xuân. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.
– Bài 7: quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.
– Bài 8: “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.
Bài soạn tham khảo số 4
Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Bài 1: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay)
+ Đã mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E-đô, rất nhớ quê cũ nhưng có một lần trở về quê cha đất tổ ông lại không thể nào quên được Ê-đô.
+Ngoảnh lại Ê- đô đã là cố hương, tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.
– Bài 2:
+ Ba- sô có nhắc đến chim đỗ quyên , đó là tiếng chim mà ông nghe được khi quay lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm.
+ Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe thấy tiếng chim này, nhà thơ lại hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.
Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Bài 3: thấm đượm xót xa tình mẫu tử.
+ Nhà thơ đau đớn khi không chăm sóc được cho mẹ lại không thể gặp mẹ lần cuối bởi vậy nên “lệ trào nóng hổi”.
+ Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,…
+ Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.
– Bài 4:
+ Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa: vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết đứa trẻ.
+ Bởi vậy khi nghe tiếng vượn hú ông liên tưởng đến tiếng trẻ con khóc.
+ Trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người.
+ Tất cả những âm thanh ấy gợi lên nỗi niềm đau thương, xót xa
Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cái lạnh.
⇒ Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.
Câu 4 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Ở bài 6 chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa.
+ Đây là thời kì chuyển giao mùa.
+ Cái nhỏ bé ,đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ.
+ Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.
– Bài 7 ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè.
+ Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh.
+ Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi.
+ Câu thơ thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.
Câu 5 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Bài thơ 8 là bài thơ từ thế của Ba- sô.
– Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi.
– Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình.
– Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy: được lang thang trên những cánh đồng hoang vu
Câu 6 (trang 157 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Bài thơ số 6, quý ngữ là “cánh hoa đào”.
⇒ Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp
– Bài thơ số 7 quý ngữ nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”.
⇒ Cảm thức thẩm mĩ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.
– Bài thơ số 8 quý ngữ nằm ở “những cánh đồng hoang vu”
⇒ Cảm thức thẩm mĩ của bài ẩn sâu trong cái vắng lặng của những cánh đồng hoang vu
Bài soạn tham khảo số 5
Câu 1 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố E-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện như thế nào trong bài một và hai?
Lời giải chi tiết:
– Bài một: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quê, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê -đô. Ê – đô đã trở thành quê hương thứ hai của tác giả. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.
– Bài hai: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Câu thơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.
Câu 2 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Tình cảm đổi với mẹ và em bé bỏ rơi thể hiện như thế nào trong ba bài 3, 4?
Lời giải chi tiết:
– Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.
– Bài 4: Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng.
Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém, có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa.
Những câu chuyện như thế in đậm vào tâm khảm nhà thơ. Vì thế, nghe tiếng vượn hú mà Ba-Sô lại liên tưởng đến tiếng người. Tiếng vượn hay chính là tiếng trẻ con khóc thật. Hay trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người? Gió mùa thu tái tê hay lòng thi nhân tái tê hay lòng thi nhân tái tê khi nghe thấy những âm thanh gợi lên nhiều nỗi đau thương đó? Cái mơ hồ, mờ ảo của bài thơ nằm ở đây, nó chờ câu trả lời từ sự đồng vọng trong lòng người đọc.
Câu 3 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Qua bài 5, anh (chị) cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?
Lời giải chi tiết:
– Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.
– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.
Câu 4 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ được thể hiện như thế nào ở bài sáu, bảy?
Lời giải chi tiết:
– Ở bài sáu chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả” và sóng nước hồ Bi- wa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa.
Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-wa nổi sóng.
– Đến bài bảy ta bắt gặp “tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về chuyển giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy của nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-wa và tiếng ve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.
Câu 5 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện như thế nào trong bài 8?
Lời giải chi tiết:
– Khát vọng sống, khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8.
– Bài thơ này Ba-sô viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô khoogn hề bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ, ta lại như thấy hồn Ba-Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.
Câu 6 (trang 157 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Tìm quý ngữ và cảm thức vê cái vắng lặng, đơn sơ, u huyên trong các bài thơ sáu, bảy, tám?
Lời giải chi tiết:
– Trong bài thơ số 6, quý ngữ của bài chính là “cánh hoa đào”. Đó là hình ảnh gợi nên mùa xuân tươi đẹp. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.
– Ở bài thơ số 7 quý ngữ của bài nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.
– Quý ngữ của bài thơ số 8 lại nằm ở “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.
phongnguyet.info đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Thơ Hai-cư của Ba-sô dành cho các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo. Hy vọng sau bài viết này, việc soạn bài sẽ không còn khó nhằn với các bạn học sinh nữa.