Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh hay nhất

Bài thơ “Quê hương” được sáng tác năm 1939 khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương tha thiết. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển với những con người lao động khỏe khoắn, tràn đầy sức sống bằng giọng thơ gợi cảm, hào hùng, hình ảnh phong phú và ý nghĩa. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết sau để cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm này.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 1

Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng.

Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.

Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương. Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.

Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao vào thiên nhiên.

Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp.Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.

Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió.

Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.

Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.

Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân.

Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tình như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền.

Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”…

Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê, ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò, từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi.

Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.

Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê:

Tôi dang tay ôm nước vào lòng

Sông mở nước ôm tôi vào dạ

Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả

Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông

Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng

Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến

Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển

Vẫn trở về lưu luyến bến sông

(Nhớ con sông quê hương – 1956)

Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hòa quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hòa vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.

“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, dù trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 2

Tế Hanh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, ông đã góp phần đem đến cho thơ ca Việt Nam một hương sắc mới mẻ và lạ lẫm. Nếu như đến với Huy Cận, ta bắt gặp một hồn thơ mang nặng nỗi đau đời, tuyệt vọng. Hay Chế Lan Viên, với nỗi đau được tạo nên từ một tâm hồn đang trỗi dậy với bao điều suy nghĩ, bao nỗi xót xa về cuộc đời. Thì đến với Tế Hanh, ta bắt gặp một hồn thơ mang một vẻ đẹp non tơ, trong trẻo khác lạ. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Quê hương” của ông được viết 1938 – khi đó nhà thơ mới tròn 17 tuổi.

Hai tiếng “quê hương” nghe rất thân thương, mộc mạc và gần gũi với mỗi con người Việt Nam. Đó là nơi ta sinh ra, cất tiếng khóc chào đời, là khi đi xa ta muốn trở về trong vòng tay của gia đình để được yêu thương, bao bọc. Vì vậy, trong tâm trí của mỗi người, quê hương rất đỗi quen thuộc, nó gắn liền với tuổi thơ là những giếng nước, gốc đa, với vườn rau, buồng chuối, với cánh đồng lúa mênh mông…. Còn quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

“Làng tôi” – hai tiếng được cất lên một cách rất tự nhiên. Tác giả muốn giới thiệu chung về làng quê của mình, một làng quê nghèo bình dị như bao làng quê khác. Ở đây người dân sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng, tiếng gió, với vị mặn của vùng biển thôn quê. Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, mà nhà thơ còn miêu tả cụ thể bức tranh làng quê thật sinh động, tỉ mỉ đến từng chi tiết:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Đến đây, một khung cảnh làng quê đang được mở ra trước mắt với một không gian bao la rộng lớn, với bầu trời cao rộng trong veo ngập ánh sáng. Cùng với gió nhè nhẹ nhuộm thêm ánh nắng hồng của buổi bình minh. Một ngày mới bắt đầu. Ngày mới tràn đầy năng lượng với tinh thần hăng hái của người dân ra khơi.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Bức tranh lao động được tác giả miêu tả cụ thể như đang được chứng kiến tận mắt vậy. Với lối viết độc đáo, đặc sắc bằng việc sử dụng biện pháp so sánh “con thuyền như con tuấn mã”, cùng với việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh “hăng, phăng, vượt”, thêm tính từ “mạnh mẽ” đã tạo nên một bức tranh vô cùng hùng vĩ.

Làm cho ta thấy được khí thế phăng phăng, một tinh thần dứt khoát của những người con đất biển, thấy được sức mạnh dũng mãnh của con thuyền băng băng như muốn vượt lên sóng vỗ, vượt lên gió to giữa không gian biển cả để vươn mình ra khơi.

Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Với tình cảm tươi trẻ và hồn nhiên, tác giả đã cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống bền vững của quê hương qua những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức sáng tạo. Chiếc thuyền, một hình ảnh bình dị mà thân quen nay được nhà thơ ví như “mảnh hồn làng”. Hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tưởng tượng.

Từ một vật vô tri vô giác, cánh buồm đã được ví như như một linh hồn rất đỗi linh thiêng của quê hương. Nó như một phần không thể thiếu, không thể tách rời của người dân làng chài. Chỉ có những người gắn bó rất gần gũi, có tình cảm yêu thương sâu nặng với cuộc đời, với làng chài ven biển và với con người nơi đây thì nhà thơ mới cảm nhận được một cách tinh tế đến vậy.

Nếu như ở trên tác giả miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá với một khí thế sôi nổi, vui vẻ, năng động thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến cũng được nhà thơ khắc họa với một giọng điệu đầy sự phẩn khởi, lạc quan:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Đoạn thơ là cảnh thuyền cá về bến sau một ngày lao động vất vả trên biển. Với việc sử dụng tính từ “ồn ào, tấp nập” đã toát lên một không khí náo nhiệt đầy hối hả của những người dân vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về với “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” nhìn bắt mắt.

Đã là dân vùng biển, thì cuộc sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Họ lao động vất vả để mong muốn có được cuộc sống no ấm hơn. Vì thế, giây phút đón người thân trở về bình an sau chuyến đi là niềm vui lớn lao hơn tất cả. Họ thầm cảm ơn trời đất đã cho sóng yên biển lặng để người dân trở về được an toàn.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Khắp thân người nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Nổi bật lên giữa khung cảnh người người, nhà nhà đang tấp nập, nhộn nhịp thu hoạch cá là hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của những thân hình vạm vỡ, cường tráng quanh năm bôn ba vật lộn với đại dương bao la. Những thân hình ấy thấm đẫm những hơi thở, nhịp sóng và vị mặn nồng của muối biển.

Đến đây hình ảnh chiếc thuyền được tác giả nhân hóa lên giống như con người sau một ngày làm việc vất vả và giờ là lúc được nghỉ ngơi. Hình ảnh con thuyền đã trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Nó không còn là một phương tiện giao thông thông thường nữa mà nó đã trở thành một người bạn thân thiết của cư dân. Không chỉ con người mà cả chiếc thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, cái hương vị mằn mặn chan chát như thấm sâu thấm đậm vào từng làn da, thớ thịt của con người. Một bức tranh toàn cảnh đã được nhà thơ tái hiện lại vô cùng sắc bén.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Đằng sau bức tranh quê hương với những hoạt động của người dân làng chài trên vùng biển là nỗi lòng nhớ thương da diết của nhà thơ. Nhớ những gì gần gũi nhất, thân thương nhất, quen thuộc nhất của quê hương mình “như màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi”, đặc biệt nhớ cái mùi đặc trưng không thể lẫn đi đâu được của vùng biển, cái vị nồng mặn của đất trời yêu thương.

Có thể nói, đây là một bức tranh toàn cảnh về quê hương yêu dấu của nhà thơ. Với một giọng điệu khỏe khoắn, với những hình ảnh sinh động cùng với sự kết hợp hài hòa, độc đáo những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. Tế Hanh đã tạo nên một bức tranh quê hương rất mới mẻ và tươi tắn. Phải là một nhà thơ gắn bó tha thiết với cuộc đời, với đời sống cần lao của người dân nơi đây thì nhà thơ mới có được những vần thơ hay đến vậy.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 3

Nhà thơ Thanh Thảo có đôi lời nhận xét về nhà thơ Tế Hanh rằng: “Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự mộc mạc, chân thành, vì sự trong trẻo, giản dị như một dòng sông”. Nếu để nói về vị trí của ông trong thơ Mới thì ta có thể dùng hai từ “bình lặng”, hồn thơ ông không bật lên mạnh mẽ như cái cuồng nhiệt, say mê của Xuân Diệu, cũng không đủ kỳ dị, điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không gây ấn tượng sâu sắc bởi sự “quê mùa” của Nguyễn Bính, và cũng chẳng có cái buồn thiên thu của Huy Cận.

Thế nhưng sau tất cả chưa bao giờ người ta quên đi Tế Hanh, một nhà thơ có chất giọng hồn nhiên, phong độ sáng tác đều đều, và mỗi tập thơ của ông đều được ghi dấu bằng một vài bài thơ đáng nhớ, đủ để ghi vào lòng độc giả những cảm xúc mới mẻ, tinh tế của một hồn thơ trẻ. Có thể nói quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của Tế Hanh mà bài thơ Quê hương chính là một khởi đầu đầy xuất sắc và hứa hẹn.

Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào thơ Mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc.

Khi nhận định về Tế Hanh và Quê hương Hoài Thanh đã viết rằng: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương… Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ…”. Mà sở dĩ có được ánh nhìn sâu sắc như vậy cũng bởi ông có sẵn một tâm hồn tha thiết sâu nặng với cuộc đời với quê hương và đất nước.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu khái quát về làng quê “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với giọng thơ rất đỗi nhẹ nhàng tình cảm tựa như một lời tự sự chân thành. Nhưng đó không chỉ là một lời giới thiệu, mà hơn thế nữa nó còn gợi ra dáng hình của quê hương, đó một làng chài “nước bao vây” tựa như một cù lao nổi lên trên sông dập dềnh sóng nước.

Nó cũng gợi ra những đặc điểm về vị trí địa lý, về khoảng cách từ làng ra tới biển cả bằng cụm từ “cách biển nửa ngày sông”, và cũng chỉ ra đó là một làng quê nghèo làm ăn sinh sống bằng nghề chài lưới vất vả. Tất cả đều được Tế Hanh dùng những từ ngữ giản dị, mộc mạc với lối ăn sóng nói gió đậm chất miền biển để diễn tả về một quê hương đầy tha thiết, với đôi mắt mặn nồng yêu thương.

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Với một người con miền biển có lẽ rằng cảnh dong thuyền đi đánh cá của ngư dân đã in sâu vào trí óc, thế nên Tế Hanh đã ghi lại bằng những cảm xúc dạt dào, trong sáng với những hình ảnh đầy chất thơ. Đó là một buổi sáng đẹp, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, ánh nắng ban mai ráng hồng trên khắp cả làng chài, và dưới khung cảnh tuyệt đẹp ấy những người thanh niên khỏe khoắn tràn đầy sức sống, bắt đầu công việc của mình với khí thế sôi nổi, rộn ràng.

“Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Khung cảnh lao động dưới ánh mắt của nhà thơ diễn ra thật mạnh mẽ, tràn đầy khí thế, dưới sự hợp sức đầy quyết tâm của những chàng trai làng chài chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến.

Có thể nói rằng con thuyền trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển. Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá.

Nhưng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả khí thế sôi nổi lúc ra khơi, mà Tế Hanh còn rất tinh tế và khéo léo trong việc vận dụng thủ pháp so sánh giữa “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”. Có thể nói rằng đây là đột phá nghệ thuật trong phong cách thơ của tác giả, lấy cái hữu hình đem so sánh với cái trừu tượng vốn tưởng là điều không thể nhưng Tế Hanh đã làm được mà còn làm rất xuất sắc.

Ông đã vẽ ra dáng hình mảnh hồn của làng chài miền biển một cách rất thần tình, tinh tế. Cánh buồm trắng mang theo mảnh hồn, mảnh tình, thấm đẫm tình cảm của quê hương, luôn theo sát từng bước chân ngư dân trong công cuộc lao động. Ở đó dung hòa nhiều thứ tình cảm đó là nỗi mong đợi, hy vọng thiết tha của những người ở lại và cả nỗi nhớ da diết, một lòng hướng về quê hương của những người đang lao động ngoài khơi xa.

Hình ảnh so sánh độc đáo đã mang về cho vần thơ của Tế Hanh sự lãng mạn, bay bổng, ở đó tình quê hiện lên một cách nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và gắn bó vô cùng. Ở câu thơ tiếp “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”, ta nhận ra tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa thông qua hai từ rất có sức gợi “rướn” và “thâu”.

Dường như cánh buồm mang mảnh hồn làng ấy cũng có linh tính về công việc của người ngư dân thế nên nó mới cố sức “rướn” tấm thân trắng sao cho thật rộng để “thâu” góp được nhiều gió, đẩy thuyền ra khơi thật nhanh, thật xa. Như vậy trong đôi mắt của Tế Hanh cánh buồm giờ đây cũng trở thành một nhân lực lao động, có những đóng góp nhất định vào công việc đánh bắt của người ngư dân.

Từ đó ta nhìn ra được tư tưởng đoàn kết, hỗ trợ và gắn bó sâu sắc của người dân làng chài, gắn bó từ trong tâm hồn, tư tưởng, không chỉ là ở con người mà còn ở cả sự vật, tất cả đã kết hợp nhịp nhàng để làm ra những kết quả lớn. Có cảnh ra khơi sôi nổi, nhiệt huyết thì cảnh ngư dân trở về cũng náo nhiệt và tươi vui không kém.

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Vẫn tiếp tục với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết yêu thương Tế Hanh, người đọc cảm nhận từ đoạn thơ cái cảm giác thư thái, thanh bình và niềm vui ấm no của ngư dân sau một đợt ra khơi đầy vất vả. Đồng thời Tế Hanh cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc đến biển cả quê hương, đã cho người dân được cuộc sống ấm no hạnh phúc, mẹ thiên nhiên nhân từ đã cho “biển lặng”, dốc công nuôi dưỡng nên nguồn cá dồi dào, ban cho ngư dân “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”, để họ được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả về một chuyến ra khơi về bội thu.

“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”

Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả.

Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng.

Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi. Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét.

Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả. Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi.

Và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.

Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng.

Ở đó ta thấy Tế Hanh đã dành cho quê hương mình những tình cảm rất đỗi tha thiết sâu nặng, thế nên dù khi đã đi xa nhưng ông vẫn mãi nhớ về một quê hương với những con người mặn mòi muối biển, hơi thở nồng đượm vị xa xăm, vẫn nhớ như in cảnh con thuyền nằm im trên bến đỗ ngẫm nghĩ về biển cả mênh mông.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 4

Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình. “Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Hai câu thơ như một lời kể tâm tình rất đỗi bình dị nhưng đã khiến người đọc hình dung được mảnh đất mà tác giả đáng sống là một vùng một biển, làm nghề chài lưới. Một ngôi làng giản dị, chân chất. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị đó khiến cho tác giả vẫn luôn mong ngóng, nhớ nhung khi xa quê hương.

Những câu thơ tiếp theo gợi tả lên một khung cảnh tuyệt đẹp mỗi khi sáng mai thức dậy. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc khiến cho vần thơ trở nên trữ tình, tuyệt đẹp:

Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Một loạt từ ngữ mang tính chất liệt kê khung cảnh, không gian thanh bình, tươi đẹp của cảnh biển vào buổi sáng. “Gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những gì còn neo giữ trong lòng của tác giả khi nhớ về quê hương. Và một hoạt động vẫn diễn ra đầu ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả vẽ nên rất nhẹ nhàng nhưng khỏe khoắn.

Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Nếu những câu thơ trên nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ này càng mạnh mẽ , quyết liệt và khỏe khoắn bao nhiêu. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giàu cá tính mạnh. Với động từ “phăng” đã phần nào gợi tả lên sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới. Hai câu sau lại trở về với vẻ lãng mạn đến bất ngờ:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Một hình ảnh bình dị, thân quen như cánh buồm nhưng trong thơ của Tế Hanh lại có hồn, đậm chất thơ. Phép so sánh cánh buồm “như mảnh hồn làng” có sức gợi rất sâu sắc, bởi rằng đối với những người làm nghề chài lưới thì cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một sự so sánh hữu hình và vô hình đã làm nên sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Con thuyền đã mang theo cả tin yêu, hạnh phúc và hi vọng của những người dân nơi đây.

Câu thơ khỏe khoắn và tự nhiên đã phần nào làm toát lên được khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển khơi.

Tế Hanh đã miêu tả nên một bức tranh thiên nhiên và bức tranh lao động sáng tạo tuyệt vời nhất. Đó là niềm tự hào, sự ca ngợi quê hương, đất nước. Đặc biệt, khung cảnh dân chài lưới chào đón thành quả sau một ngày căng thẳng vất vả được miêu tả chân thực và đầy niềm vui:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Hình ảnh dân làng “ồn ào”, “tấp nập” đã phần nào tái hiện được không khí vui tươi và phấn khởi của người dân chài sau một ngày hoạt động hết công suất. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được. Và có lẽ hình ảnh con người mạnh mẽ, khỏe khoắn là hình ảnh trung tâm không thể thiếu trong bức tranh ấy:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Hình ảnh thơ mặn mòi, đậm chất biển, vừa khỏe khoắn, vừa chân chất vừa mộc mạc toát lên được vẻ đẹp của những con người vùng biển quanh năm vất vả. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này.

Và có lẽ những hình ảnh thân quen nơi làng quê ấy đã khiến cho Tế Hanh dù đi xa nhưng vẫn không thể nào quên, vẫn nhớ về câu:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Một khổ thơ dạt dào tình cảm, nghèn nghẹn ở trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê dạt dào khôn nguôi khi những hình ảnh thân quen ấy cứ ùa về.

Thật vậy bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả dành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chôn rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 5

Tế Hanh là người con của xứ sở núi Ấn sông Trà. Đề tài quê hương trở đi trở lại trong thơ ông từ lúc tóc còn xanh cho tới khi đầu bạc! Ông viết về quê hương bằng cảm xúc đậm đà, chân chất và dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình một tình yêu thiết tha, sâu nặng.

Bài thơ Quê hương sáng tác năm 1938, khi tác giả mới tròn mười bảy tuổi, đang theo học trung học ở Huế, là nỗi nhớ, là tình yêu nồng nàn đối với quê hương. Mở đầu bài thơ, bằng lời kể mộc mạc, tự nhiên, Tế Hanh giới thiệu:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Quê hương nhà thờ là một cù lao nổi giữa bốn bề sông nước. Dân làng sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn chặt với biển cả mênh mông. Làng nghèo giống như bao làng biển khác nhưng khi,đi xa, nhà thơ thương nhớ đến quặn lòng. Nhớ nhất là khung cảnh:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Đoàn thuyền nối đuôi nhau rời bến lúc bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Bầu trời cao lồng lộng đồng điệu với lòng người phơi phới. Hình ảnh các chàng trai xứ biển vạm vỡ và con thuyền băng băng lướt sóng đã in đậm trong tâm tưởng nhà thơ:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Hình ảnh so sánh đẹp đẽ và một loạt tính từ, động từ chọn lọc: hăng, phăng, mạnh mẽ, vượt… đã diễn tả đầy ấn tượng khí thế của những con thuyền nối nhau ra khơi, toát lên sức sống khỏe khoắn và một vẻ đẹp hào hùng. Trong hai câu tiếp theo, tác giả miêu tả cánh buồm bằng sự so sánh độc đáo, bất ngờ và lãng mạn:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Hình ảnh cánh buồm giản dị, quen thuộc hằng ngày bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và thơ mộng. Nhà thơ cảm thấy đó chính là biểu tượng của hồn làng nên dồn hết tình yêu thương vào ngòi bút để vừa vẽ ra cái hình, vừa thể hiện cái hồn của cánh buồm. So sánh không đơn thuần là làm cho sự vật được miêu tả cụ thể hơn mà đem lại cho nó một vẻ đẹp bay bổng chứa đựng ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả chính xác cái hồn của làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng căng phồng ngọn gió biển khơi?

Đem so sánh cánh buồm là vật hữu hình với hồn làng một khái niệm vô hình thì quả là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Con thuyền ra khơi mang theo những nỗi lo toan cùng niềm tin yêu, hi vọng của bao người. Nhiệt tình và sức sống của con người truyền sang cả vật vô tri khiến cho con thuyền dường như cũng có tâm hồn riêng, sức sống riêng.

Nhịp thơ khỏe khoắn, tươi vui thể hiện khí thế sôi nổi và niềm khao khát hạnh phúc ấm no của người dân làng biển. Sáu câu thơ miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá vừa là bức tranh phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi. Nếu cảnh đoàn thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả bằng bút pháp lãng mạn bay bổng thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến được tả thực đến từng chi tiết:

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

Nhờ ơn trời! biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân làng vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về trong không khí ồn ào, tấp nập. Những chiếc ghe đầy ắp những con cá tươi ngon thân bạc trắng trông thật thích mắt. Dân làng chân thành tạ ơn trời đất đã sóng yên biển lặng để đoàn ngư phủ được an toàn trở về với làng xóm thân yêu.

Khi những người thân ra khơi đánh cá, người ở nhà đợi chờ trong phấp phỏng, lo âu. Nay những con thuyền cập bến bình yên với đầy khoang cá bạc, hỏi còn niềm vui nào lớn lao hơn thế bởi đó chính là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân làng.

Biển cả đẹp đẽ, giàu có và hào phóng nhưng cũng thật khó lường bởi lúc thì trời yên biển lặng, lúc thì bão tố dữ dội. Giữa đại dương mênh mông, làm sao tránh được hiểm nguy, bất trắc? Chỉ có những người một đời gắn bó, sống chết với biển mới thấu hiểu điều này. Cuộc sống của dân chài ngàn đời nay phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ vất vả, cực nhọc trăm bề để kiếm miếng cơm manh áo. Vì vậy, giây phút đón người thân sau chuyến đi biển an toàn trở về bao giờ cũng tràn ngập niềm vui.

Giữa khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh rắn rỏi, cường tráng của những chàng ngư phủ quanh năm vật lộn với sóng gió đại dương. Dấu ấn của biển cả đã in đậm trên thân hình và trong tâm hồn họ:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Những con thuyền về bến sau chuyến ra khơi được nhà thơ ví như con người nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả: Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Bao hiểm nguy giờ đã lùi xa, nhường chỗ cho sự thanh thản, bình yên. Nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cho con thuyền vô tri một đời sống và một tâm hồn tinh tế.

Nhà thơ đã phát hiện ra chất thơ trong đời sống vất vả, cực nhọc của dân quê, đó là điều đáng quý. Cũng vì vậy mà hình ảnh quê hương trong bài thơ tươi sáng, mang hơi thở nồng ấm của cuộc đời cần lao. Hình ảnh quê hương đẹp đẽ với những con người lao động cần cù đã khắc sâu trong kí ức, hỏi làm sao khi xa cách, nhà thơ không thương nhớ đến quặn lòng?

Nếu không có tấm lòng gắn bó chân thành, máu thịt với con người cùng cuộc sống lao động ở làng chài quê hương thì thi sĩ không thể sáng tác ra những câu thơ xuất thần như vậy. Mỗi lần nhớ về quê hương, cảnh đẹp của biển cả như hiển hiện rõ ràng trong tâm trí nhà thơ:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Ở bốn câu thơ kết, nhà thơ trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của mình. Nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi; Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi và nhớ cả cái mùi nồng mặn rất đặc trưng của gió biển cùng tất cả những gì thân thuộc của quê hương. Phải chăng nỗi nhớ da diết ấy chính là sợi dây kết chặt nhà thơ với quê hương suốt cả cuộc đời!

Bài thơ Quê hương mộc mạc, tự nhiên nhưng rất sâu sắc và thấm thía bởi nó được viết lên từ cảm xúc chân thành. Sức hấp dẫn của nó trước hết là ở những hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc và ngôn ngữ tự nhiên, trong sáng. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ví von, nhân hóa kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ giống như một bức tranh phong cảnh tuyệt vời được vẽ nên từ tình yêu tha thiết mà Tế Hanh dành trọn cho quê hương.

Có thể coi bài thơ này như một cung đàn dịu ngọt của những tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương xứ sở bởi đây là mảnh tâm hồn trong trẻo nhất, đằm thắm nhất của Tế Hanh dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 6

Quê hương luôn là một cảm hứng sâu sắc cuốn hút hấp dẫn những nhà thơ Việt Nam. Đồng thời nó cũng là nơi để cho họ bày tỏ những cảm xúc yêu quê hương của mình. Nếu như chúng ta đã biết đến những vần thơ quê hương của Giang Nam “Quê hương là con diều biết/ Tuổi thơ con thả trên đồng” thì chúng ta cũng biết đến bài thơ quê hương của Tế hanh. Quê hương Tế Hanh là một vùng biển, qua việc miêu tả giới thiệu miền quê ấy Tế Hanh thể hiện lòng yêu thương trân trọng nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Khổ thơ thứ nhất nhà thơ mang đến một bức tranh của một làng chài vào buổi sáng sớm: “Làng nhà thơ là một làng chài lưới”, chỉ có một câu thơ đầu thôi nhưng nhà thơ đã giới thiệu được cho chúng ta nghề truyền thống của làng mình. Hẳn là chúng ta khi đọc những câu thơ ấy lên thấy được những trân trọng của nhà thơ khi nhắc đến làng nghề truyền thống của mình.

Quanh ngôi làng ấy không phải là những thành quách tường rào, hay là những cánh cổng một vài lũy tre làng mà là nước. Không gian rộng lớn ấy hiện lên với hình ảnh của những làn nước biển trong xanh ấy. Và một ngày mới đến trên quê hương của nhà thơ, đó không chỉ là khoảng thời gian bắt đầu của sự sống mà còn là thời gian để cho người dân chài nơi đây bắt đầu một ngày lênh đênh trên biển, bắt những con cá tươi ngon nhất để lo cho cuộc sống.

Không gian ngập tràn trong màu của bầu trời, những tia nắng khi ấy chỉ là những ánh màu hồng nhạt chứ không hề gay gắt khi trưa đến. gió thì nhẹ nhàng thổi mang hơi biển đến với người dân nơi đây. Vậy là những con người lao động nơi đây lại bắt đầu một ngày đầy hứa hẹn.

Sang khổ thơ thứ hai nhà thơ vẽ lên một bức tranh của đoàn thuyền cùng nhau đi ra khơi. Biện pháp so sánh chiếc thuyền đi với vận tốc của một con tuấn mã cho thấy cảnh tượng ra khơi hào hùng và nhanh nhẹn thể hiện sự hăng say công việc của người dân nơi đây. Một đoàn thuyền đi đi nhẹ nhưng mà phăng phăng mái chèo rẽ sóng vượt trường giang. Không thể không kể đến cánh buồm kia được tác giả ví von như mảnh hồn làng.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Phải chăng cánh buồm ấy chứa đựng cả linh hồn của làng quê nhà thơ? Cánh buồm ấy no gió rướn thân mình trên đại dương định hướng cho thuyền nhẹ hăng mà đi trên sóng biển. Và ở đây nó không chỉ đơn thuần mang nhiệm vụ ấy mà nó còn chứa đựng cả một tâm nguyện mong ước kéo được nhiều cá để ngày mai mang đến những niềm vui cho bà con nơi đây. Và quả thật đến hôm sau cả đoàn thuyền trở về nằm im trên bến đỗ, cả làng như tấp nập đón ghe về với những con cá thân bạc trắng.

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời! biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Nhờ trời yên bể lặng cho nên những người dân nơi đây đã kéo được rất nhiều cá. Hình ảnh tấp nập ồn ào trên bến đỗ cho thấy được sự vui vẻ của con người nơi đây. Cuộc sống lao động là vậy đấy nếu như không có những ghe cá đầy kia thì làm sao mà họ có thể vui được. Trời yên bể lặng không chỉ con người được bình yên mà còn thu được về những con cá thân bạc trắng. Đó là thành quả mà công sức của người dân đạt được.

Những câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của con người quê hương ông. Họ không có những vẻ đẹp của một làn da trắng thanh lịch của trai tráng hà nội mà họ có vẻ đẹp chỉ có người làng chài mới có. Họ sống với sóng biển, nước muối biển, gió biển vì thế cho nên thân hình của họ mang màu của rám nắng. Đó cũng là một vẻ đẹp vì vẻ đẹp ấy thể hiện đặc trưng của con người nơi đây đồng thời nó còn thể hiện sự vất vả của họ nữa.

Những con người ấy phải đương đầu với sóng gió, phải chịu những cái nắng biển làm hơi nước nóng lên trên biển, họ phải nếm vị sương sớm khi ra biển. Vì thế cho nên cả thân hình của họ đều nồng thở vị xa xăm. Những chiếc thuyền sau những ngày vất vả lênh đênh trên biển cũng về đến bên yên ả nằm.

Chiếc thuyền ở đây được nhân hóa như con người bởi nếu không có nó thì dân chài đâu có phương tiện để ra biển. Vì thế nó cũng được nghỉ ngơi. Và chất muối kia thấm dần trong những thớ vỏ của nó. Nói như thế để thấy được cái sự gắn bó của con thuyền với biển và người nơi đây.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Đoạn thơ cuối nhà thơ không miêu tả cảnh làng chài đi đánh cá cũng không miêu tả những con người nơi đây nữa mà nhà thơ bày tỏ lòng yêu thương trân trọng quê hương của mình. Nhà thơ đã lớn lên trên quê hương ấy và ông đã đi xa nơi đó rồi chính vì thế mà lòng nhà thơ luôn tưởng nhớ đến.

Đúng vậy “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Một người con khi đi xa vì sự nghiệp không thể nào nguôi nỗi nhớ quê hương. Nhớ màu nước xanh, nhớ thân cá bạc, nhớ chiếc buồm vôi, nhớ cả cảnh những chiếc thuyền rẽ sóng ra khơi và nhà thơ cảm nhận được cái mùi nồng mặn xa xăm của quê biển.

Như vậy nhà thơ đã bộc lộ nỗi nhớ quê hương của mình qua tác phẩm. Mỗi câu thơ cất lên là một sự thương nhớ vô bờ về mảnh đất sinh ra ta đó. Nhà thơ nhớ cảnh đoàn thuyền, nhớ cảnh đi về và nhớ cả những con người thân hình xa xăm với tình nghĩa mặn mà như muối biển vậy.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 7

Trong Thi nhân Việt Nam, khi nhận xét về Tế Hanh, Hoài Thanh – Hoài Chân đã viết: “Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được những nét thần tình về cảnh sinh hoạt chốn thôn quê”. Những nét thần tình ấy được ghi lại bởi một hồn thơ khỏe khoắn, tươi mới, phơi phới sức sống, có vẻ như “lạc điệu” giữa rừng thơ mới đang sướt mướt, thở than và một tình yêu quê hương sâu đậm.

Cảnh sinh hoạt chốn thôn quê ấy ta bắt gặp trong những sáng tác về quê hương, về cái làng chài ven biển con sông Trà Bồng lưu giữ bao kỉ niệm tuổi thơ ông. Quê hương – bài thơ rút trong tập Nghẹn ngào là một trong số những bài thơ về quê hương rất hay đó. Bài thơ mở đầu như là lời tự xưng danh, tự thuật rất đỗi tự nhiên và mộc mạc.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới. Và sau đó nhà thơ đã kể một cách say sưa, hào hứng về cái làng chài của mình. Câu thơ có tính thông báo tiếp theo cho thấy đây là một làng chài ở vùng cửa sông gần biển. Bằng hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu vị trí địa lí và đặc điểm nghề nghiệp của làng quê. Quê là làng – nghề của làng là chài lưới.

Trong tâm tưởng của nhà thơ, sau lời giới thiệu ấy, hình ảnh làng chài như đang hiện ra trước mắt. Và nhà thơ đã miêu tả cụ thể một ngày ra khơi đẹp trời, dân làng bơi thuyền đi đánh cá. Trong khung cảnh trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Phải nói đó là một buổi sáng đẹp trời lí tưởng – vẻ đẹp tinh khôi, mát mẻ, dễ chịu, thoáng đãng, bao ia sắc hồn của bình minh.

Và chỉ những người làm nghề chài lưới mới thấy hết được tầm quan trọng thiết yếu của những buổi đẹp trời – Không chỉ báo hiệu một buổi ra khơi yên lành, mà còn hứa hẹn những mẻ lưới bội thu. Trong cái quang cảnh dễ làm lòng người phấn khích ấy, đoàn trai tráng bơi thuyền ra khơi, bắt đầu một ngày lao động của mình. Làm nghề đánh cá nặng nhọc này phải là những người khỏe mạnh vạm vỡ mới có thể đảm đương nổi.

Chỉ có những chàng trai mới có thể điều khiển được chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã, phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp cảnh dân làng ra khơi đánh cá có ý nghĩa như những chi tiết tả thực giúp người đọc hình dung được không gian hình ảnh, đoàn thuyền khá sinh động. Trên nền kể tả ấy xuất hiện hai câu thơ mang vẻ đẹp bất ngờ:

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Cánh buồm là một vật cụ thể hữu hình được ví với mảnh hồn làng là cái trừu tượng, vô hình – một cách ví von nhờ sự liên tưởng khá xa và độc đáo của tác giả. Mỗi một vùng quê sinh sống lâu đời, dường như bao giờ cũng mang một nét rất riêng. Và người xa quê thường cảm nhận nó như linh hồn của làng quê.

Đối với Tế Hanh thuở mười tám tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi dường như mang hơi thở, nhịp đập, quê hương. Một cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức vóc tung tỏa của nó. Hai câu thơ diễn đạt hình ảnh giàu ý nghĩa, đưa nó lên thành biểu tượng của tâm hồn. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lại được miêu tả trong bốn câu thơ:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Tác giả không tả một ai cụ thể, mà là tả chung không khí làng chài, ở đây chỉ có âm thanh ồn ào; chỉ có trạng thái tấp nập, nhưng rõ ràng là một không khí vui vẻ, rộn ràng, thỏa mãn. Nhờ ơn trời như là tiếng reo vui, tiếng thở phào nhẹ nhõm cảm tạ thiên nhiên trời biển đã giúp đỡ. Phải con em làng chài mới thấy hết được niềm vui bình dị khi đón ghe đầy những con cá tươi ngon.

Trong khung cảnh ấy, hình ảnh những trai tráng sức vóc dạn dày sóng gió, có làn da ngăm rám nắng được hiện lên qua những câu thơ thật đẹp Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Đây là chân dung những người dân chài lưới, đó như là những sinh thể được tách ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển, mang theo về cả những hương vị biển xa. Họ là những đứa con của biển khơi.

Câu thơ thật lãng mạn, khoáng đạt, mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng thật khỏe khoắn, thơ mộng. Con thuyền trước đây hăng như tuấn mã, phăng mái chèo mạnh mẽ ra đi, bây giờ mỏi mệt trở về bến nghỉ. Con thuyền lại được nhân hóa, nó nằm im, mỏi mệt thư giãn và lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Trạng thái nghỉ ngơi của con thuyền thật đặc biệt. Và cũng phải yêu quý lắm, với có thể thấy con thuyền cũng là một thành viên của làng biển như tác giả đã hình dung. Nhưng nói về con thuyền, ki thực cũng nói về con người cả thôi. Giờ đây những người dân chài có thể hoàn toàn yên tâm mà ngả mình mãn nguyện và lặng yên thư giãn. Dư vị của chuyến đi chỉ còn là đôi hình ảnh thấp thoáng, chập chờn trong tưởng tượng êm dịu của họ.

Kết thúc bài thơ, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ về hình ảnh làng chài theo ấn tượng chung nhất: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền rẽ sóng, và đặc biệt nhớ cái mùi nồng mặn quá. Nhớ đến cái mùi vị riêng biệt của xứ biển tức là nỗi nhớ thật da diết và thật sâu sắc. Vâng, đó là mùi của biển cả, của sóng, của gió, của rong rêu, của cá, của cả cái vị mồ hôi trên lưng áo người đi biển. Cái mùi vị quen thuộc và thân thương đó cũng chính là một phần của hồn làng, của quê hương.

Bài thơ trong treo từ đầu đến cuối. Đó là tấm lòng yêu nhớ quê hương của một chàng trai thuần hậu gắn bó với cuộc đời. Với Tế Hanh, cái làng chài lưới này đã trở thành nguồn thi cảm không vơi cạn. Người ta thường nói ông là nhà thơ của quê hương sông nước, mà trong nhiều trường hợp quê hương chỉ thu gọn về một cái làng chài lưới của riêng ông.

Có thể khẳng định rằng Quê hương là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ dung dị, đằm thắm của Tế Hanh. Với nghệ thuật đặc sắc ở cách cảm nhận tinh tế, hình ảnh đặc trưng và chắt lọc, tác giả làm sống mãi một làng chài thân thương trìu mến. Thủy chung với một miền quê – một miền thơ như thế nên vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn giữ mãi một vẻ riêng độc đáo, hấp dẫn bao thế hệ yêu thơ.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 8

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…, Quê hương tôi có con sông xanh biếc – Nước gương trong soi bóng những hàng tre…; những vân thơ thiết tha đôi với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua.

Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, đang học Trung học tại Huế. Nỗi nhớ làng chài, quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Hai câu thơ đầu nói về làng tôi. Thân mật, tự hào, yêu thương… được thể hiện qua hai tiếng làng tôi ấy:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới;

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước bao vây, một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung cách biển nửa ngày sông. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân dã vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Những câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương: Cảnh làng chài ra khơi đánh cá.

Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có gió nhẹ, có ánh mai hồng. Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh bơi thuyền đánh cá. Cảnh đẹp, sáng trong, giọng thơ nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi.

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Một loạt ẩn dụ, so sánh nói về con thuyền, mái chèo và cánh buồm. Tác giả ví chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lên đường. Chữ hăng dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết với các từ ngữ: dân trai tráng và tuấn mã hợp thành tính hệ thống, tạo nên một vẻ đẹp của văn chương. Có người lầm tưởng là chữ băng rồi bình giảng là băng băng lướt sóng!

Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống nước, phăng xuống nước một cách mạnh mẽ, đưa con thuyền vượt trường giang. Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái chèo là hình ảnh cánh buồm giương, to như mành hồn làng. Giương nghĩa là căng lên để đón gió ra khơi. So sánh cánh buồm to như mảnh hồn làng là hay, đặc sắc. Cánh Buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương.

Nó tượng trưng cho sức mạnh lao động sáng tạo, ước mơ về ấm no, hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng chinh phục biển khơi của đoàn trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một câu thơ đậm đà ý vị mang cảm hứng lao động và cảm hứng vũ trụ.

Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ rướn thân trắng gợi tả một cuộc đời trải qua nhiều mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sắc tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, tự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân thương:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Đứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Các từ ngữ ồn ào, tấp nập diễn tả niềm vui mừng đón ghe về. Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của khắp dân làng. Cảnh đón ghe về thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân:

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

Cá tươi ngon thân bạc trắng đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng sóng êm, cho cá đầy ghe. Sự cầu mong và niềm tin thánh thiện nhờ ơn trời ấy đã biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết:

“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh:

Ơn trời mưa nắng phải thì,

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu…

Nhờ trời hạ kế sang đông

Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi…

Đoạn bốn bài thơ nói về bến quê bằng hai nét vẽ khỏe khoắn và bình yên. Những chàng trai làng chài có làn da ngầm rám nắng khỏe mạnh, can trường được tôi luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển. Hai chữ: nồng thở rất thần tình làm nổi bật nhịp sống lao động hăng say, dũng cảm của những dân chài mang tình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ đẹp lãng mạn:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Nét thứ hai là con thuyền. Sau một chuyến ra khơi vất vả trở về nó mỏi mệt nằm im trên bến. Con thuyền là một biểu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió:

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương, vần thơ giàu cảm xúc, mang tính triết lí về lao động trong thanh bình, Chữ nghe (nghe chất muối) thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Bến quê trở thành một mảnh tâm hồn của đứa con li hương.

Đoạn cuối nhiều bồi hồi nhớ thương, thương nhớ hình bóng quê hương. Điệp ngữ nhớ làm cho giọng thơ thiết tha, bồi hồi, sâu lắng. Xa quê nên tưởng nhớ khôn nguôi. Nhớ màu nước xanh của sông, biển làng chài. Nhớ cá bạc, nhớ chiếc buồm vôi…

Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con thuyền rẽ sóng ra khơi đánh cá. Xa quê nên mới thấy nhớ hương vị biển, hương vị làng chài thương yêu cái mùi nồng mặn quá. Tình cảm thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc đằm thắm mênh mang:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Bài thơ Quê hương có một câu thơ đề từ rất gợi cảm: “Chim bay dọc biển đem tin cá”. Đó là câu thơ của phụ thân nhà thơ. Nhớ quê hương, nhớ người cha thân yêu dào dạt trong hồn thơ Tế Hanh. Sau này, 1963, khi sống ở miền Bắc, trong hoàn cảnh đât nước bị chia cắt, trong bài thơ Nghe tin cha mất, ông xót xa hồi tưởng:

Cuộc khởi nghĩa cần Vương thất bại

Đắng cay cha trở lại quê nhà

(…) Vịnh quê hương vài vần thơ ca:

Chim bay dọc biển đem tin cá.

Nhà ở kề sân, sát mái nhà

Có cảm nhận được câu thơ đề từ ấy ta mới nắm bắt được tình thương nhớ quê hương của Tế Hanh qua bài thơ kiệt tác này. Bài thơ Quê hương đã đi suốt một hành trình trên 60 năm. Nó gắn liền với tâm hồn trong sáng, với tuổi hoa niên của Tế Hanh. Thể thơ tám tiếng, giọng thơ đằm thắm dào dạt, gợi cảm. Những câu thơ nói về dòng sông, con thuyền, cánh buồm, khoang cá, chàng trai đánh cá, bến quê… và nỗi nhớ của đứa con xa quê… rất hay, đậm đả biểu lộ một hồn thơ đẹp.

Nghệ thuật phối sắc, sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa và chuyển đỗi cảm giác khá thành công, tạo nên những vần thơ trữ tình chứa chan thi vị.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 9

Quê hương – bến đỗ bình yên nhất trong cuộc đời của mỗi con người .Dù có đi đâu xa,trôi dạt giữa dòng đời tấp nập thì sâu thẳm trái tim vẫn luôn mong ngóng và trở về quê hương. Với nhà thơ Tế Hanh cũng vậy, cũng dạt dào và cháy bỏng một tình yêu với nơi chôn rau cắt rốn. Để rồi bài thơ “Quê Hương” ra đời như là một sự tất yếu của tâm hồn giàu cảm xúc của một người con xa quê.

Đó là cảm giác nhớ nhung da diết và cháy bỏng của một chàng thanh niên 18 tuổi .Nỗi nhớ cái mùi nồng mặn của biển khơi.Cái vị mặn đặc trưng đó đã theo nhà thơ suốt cả cuộc đời. Mở đầu bài thơ ,ngay ở dưới nhan đề,Tế Hanh đã vô cùng khéo léo khi thêm vào một câu đề từ trích dẫn:

“Chim bay dọc biển mang tin cá.” Một hình ảnh hiện lên thật đẹp và nên thơ, giữa một vùng biển bao la và rộng lớn ấy xuất hiện những cánh chim bay lượn. Khung cảnh vùng quê vẽ ra trước mắt chúng ta thật yên bình. Tuy nhiên giá trị mà câu đề từ nhà thơ trích vào đây không phải nằm ở hình ảnh mà là ý nghĩa vô cùng đặc biệt ẩn đằng sau đó.

Ở đây nhà thơ đang nhắc tới một kinh nghiệm ngàn đời của những người ngư dân. Nhìn đàn chim bay lượn để dự đoán thời tiết. Biển động hay sóng êm để người dân xem xét trước lúc ra khơi. Nếu như những cánh chim ấy thong dong bay lượn thì ngư dân có thể yên tâm ra khơi. Còn nếu cánh chim bay vội vã thì có thể ngoài kia biển đang động,sóng to gió lớn,người đi biển phải hết sức cẩn thận và lưu tâm.

Sự hiểu biết cụ thể và tường tận như vậy chỉ có thể là người sinh ra từ vùng biển, gắn bó với biển khơi. Bởi vì gắn bó như vậy nên khi đi xa những hình ảnh vô cùng thân quen ấy bỗng ùa về,trỗi dậy như đang hiện lên trước mắt nhà thơ. Ông giới thiệu về quê hương của ông bằng hai câu vô cùng ngắn gọn:

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới.

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”

Phân tích bài thơ quê hương “Làng tôi” – làng chài bên cù lao sông Trà Bồng ấy vốn làm nghề chài lưới. Nghề đi biển như đã có ở đây từ ngàn đời. Một sự giới thiệu trực tiếp và ngắn gọn để người đọc hiểu rõ về quê hương của ông. Tiếp theo ông đưa người đọc đi khám phá những hoạt động đặc trưng của môt làng chài. Nó sẽ diễn ra như thế nào ? Những câu thơ dưới đây chúng ta sẽ hiểu rõ:

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.”

Khởi đầu cho một ngày mới là hình ảnh ra khơi của những con thuyền,của những thanh niên “trai tráng”. Một ngày mưu sinh,lênh đênh giữa biển khơi đã bắt đầu. Thời tiết buổi sớm với trời trong ,gió nhẹ ,nắng hồng, quả thật vô cùng lý tưởng cho những chuyến ra khơi.

Một dấu hiệu may mắn cho những ngư dân khi mà thời tiết đang ủng hộ họ. Hình ảnh con thuyền xuất hiện thật thi vị khi nó được nhà thơ ví von như những con tuấn mã mạnh mẽ và can trường. Chiếc thuyền ấy sẽ gắn bó với người dân trên hành trình vạn dặm biển,giữa muôn trùng lớp sóng.

Bởi vậy chúng phải thật bền và chắc chắn để “phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Còn những cánh buồm cũng góp mặt trong buổi sáng tươi vui và nhộn nhịp ấy bằng hành động “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Một hình ảnh thật đẹp và giàu ý nghĩa cánh buồm như biểu tượng của làng chài.

Nó thâu góp gió biển để thuyền rẽ sóng ra khơi nhưng nó cũng thâu góp những hy vọng. Những mong ước của bà con ngư dân về một chuyến ra khơi bội thu với khoang đầy tôm,cá. Vậy lúc những chiếc thuyền trở về thì sao.Có chở đầy những hy vọng của bà con làng chài nơi vùng sông nước này không:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.”

Không khí của bến đỗ buổi sáng ngày hôm sau thật tưng bừng,nhộn nhịp. Dân làng tập nập ra đón những con thuyền trở về với khoang đầy cá tôm. Còn hạnh phúc nào lớn hơn khi nhìn thấy thành quả sau một ngày lao động vất vả. Việc liên tục sử dụng những động từ “ồn ào ,tấp nập” càng làm nổi bật lên bức tranh của bến thuyền buổi sáng, khung cảnh sống động như hiện lên trước mắt chúng ta. Cảnh vật nào cũng tươi mới ,hoạt động nào cũng vui tươi, nhộn nhịp và rồi giữa sự tấp nập đó nhịp thơ bỗng dưng sâu lắng khi nhà thơ viết: “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”.

Hân hoan trong niềm hạnh phúc người dân cũng không quên cảm ơn “Trời” đã mang cho họ có được thành quả như ngày hôm nay. Câu nói chứa chan bao nhiêu tình cảm ,thể hiện cách sống “sâu sắc như cơi đựng trầu” của những ngư dân hiền hòa,chất phác. Bởi chúng ta biết rằng đặc thù của công việc làm nông hay đánh cá phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Sóng êm ,biển lặng thì con thuyền ra khơi mới được bình yên. Ở đây không phải là sự mê tín mà là một niềm tin, niềm tin đã hình thành từ ngàn đời và tất yếu trong suy nghĩ của những người dân làng chài.

Hình ảnh của những người lao động cũng hiện lên thật đẹp qua ngoài bút của nhà thơ. Họ mang những nét đặc trưng của người dân vùng biển với làn da ngăm rám nắng khỏe mạnh và rắn rỏi. Và đặc biệt nhất ở khổ thơ này là hình ảnh :”nồng thở vị xa xăm”. Một hình ảnh vô cùng trừu tượng và giàu liên tưởng. Vị xa xăm ấy hay chính là vị của biển khơi ,vị mặn mòi của muối, vị của đất trời, quê hương.

Qua hình ảnh những người ngư dân nhà thơ cũng muốn ca ngợi lên vẻ đẹp của những người lao động nói chung. Chỉ khi lao động con người ta mới có niềm hạnh phúc, lao động chính là vinh quang. Nối tiếp những hình ảnh giàu chất thơ ấy là khung cảnh đầy thơ mộng của con thuyền sau một ngày lao động vất vả:

“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.

Với dân chài ,thuyền như là một người bạn gắn bó với họ trong những hành trình vượt biển khơi. Chuyến ra khơi vất vả và bình yên trở về. Con thuyền cũng tự tìm cho mình một bến nghỉ,phút giây thư thái và nghỉ ngơi hiếm hoi đó thật quý giá biết bao.Thuyền ơi hãy nghỉ ngơi nhé để ngày mai lại cùng “những trai tráng” ra khơi mang về cho người dân lộc biển ,lộc trời. Và rồi khi những hình ảnh về quê hương hiện lên sống động,chân thực quá. Nhà thơ đã không giấu được tình cảm của mình :

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Chưa bao giờ nỗi nhớ lại dâng trào như lúc này đây. Cái cảm giác nhớ nhung và khắc khoải đó chỉ những người con xa quê mới hiểu. Ông nhớ từng chiếc thuyền,từng con cá ,nhớ màu nước biển xanh trong và nhớ cả những cánh buồm giương to ra khơi đánh cá. Nỗi niềm sâu kín ,nhớ thương đó nay chỉ chờ giây phút nhìn thấy nơi xứ người hình ảnh một con thuyền ra khơi đã bỗng nhiên trỗi dậy, cuộn trào như từng lớp sóng.

Ở ngoài kia gió biển đang thổi,vậy sóng biển ở trong lòng người biết đến khi nào mới ngừng thổi đây. Sinh ra từ vùng biển, gắn bó nơi chôn rau cắt rốn này. Để rồi cái vị mặn mòi của biển đã ăn sâu vào trong từng thớ thịt ,từng hơi thở. Khái niệm “mùi nồng mặn” tuy trừu tượng nhưng đối với tác giả nó gần gũi và thân thuộc biết bao.

Đối với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương có thể là “chùm khế ngọt ,là cầu tre nhỏ” .Với Giang Nam là “những ngày trốn học, đuổi bướm cạnh bờ ao”. Thì với Tế Hanh, quê hương chính là “vị mặn nồng” của biển cả. Cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có một quê hương để nhớ nhung,để trở về .

Vì mưu sinh,vì dòng đời xô đẩy những đứa con phải rời quê hương tới xứ người lao động. Nhưng lúc nào trong lòng họ nỗi nhớ quê vẫn luôn dâng đầy. Tế Hanh cũng chung cảm xúc xa quê đó. Quê hương qua ngoài bút của ông hiện lên với những hình ảnh thật sinh động và tươi đẹp. Giọng văn ẩn chứa niềm tự hào và nỗi nhớ, là mong ngóng khát khao được trở về.

Bài văn phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh số 10

Tế Hanh sinh năm 1921 tại Quảng Ngãi. Bài thơ “Quê hương” được viết khi ông đang học tại Huế, lúc mới 18 tuổi. Bài thơ có 20 câu, mỗi câu có 8 chữ. Lời thơ trong sáng, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc nồng hậu thiết tha. Tình yêu và lòng thương nhớ quê hương của người con xa quê được thể hiện qua những vần thơ đậm đà và giàu hình ảnh.

Hai câu thơ đầu với hai chữ “làng tôi” cho thấy niềm tự hào của tác giả về làng quê của mình. Đó là một làng chài ven biển miền Trung, có sông nước bao la vây quanh. Làng cách xa biển “nửa ngày sông”, một cách tính độ dài dân dã. Chữ vốn rất có ý nghĩa trong việc gợi lên một nghề truyền thống lâu đời và chính yếu của người dân quê hương.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.

Sáu câu thơ tiếp theo nói về cảnh ra khơi đánh cá của người dân làng chài. Đó là những hình ảnh đẹp, thơ mộng và mạnh mẽ trong những buổi sáng khi ánh ban mai hừng lên. Các tính từ được dùng rất chọn lọc trong đoạn thơ này đã tạo nên những hình ảnh rất đẹp: trong, nhẹ, hồng. Giọng thơ nhỏ nhẹ, tâm tình, như có tiếng reo:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Niềm vui đi chinh phục biển cả và khí thế ra khơi của bà con dân chài được thể hiện qua các hình ảnh về con thuyền, cánh buồm và mái chèo. Chiếc thuyền được ví với con tuấn mã phi nhanh đầy hăng hái. Mái chèo như lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống mặt nước. Cánh buồm trắng to như mảnh hồn làng, cách ví von rất sáng tạo nhằm nói lên khí thế lao động và khát vọng về ấm no hạnh phúc của người dân làng chài.

Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một hình ảnh đẹp về cánh buồm to lớn đang căng gió ra khơi xa. Các từ ngữ hăng, phăng, vượt, rướn, thâu góp đã làm nổi bật sức mạnh, niềm tin tưởng tự hào vào khí thế ra khơi của đoàn thuyền đánh cá:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Hai khổ thơ 8 câu tả cảnh làng chài khi những đoàn thuyền đánh cá quay về bến. Cảnh ồn ào tấp nập của làng chài dã được tác giả khắc họa rất sinh động. Các hình ảnh cá đầy ghe, những con cá tươi ngon thân bạc trắng đã cho thấy một chuyến ra khơi đầy may mắn và bội thu.

Ba tiếng nhờ ơn trời là lời cảm tạ thiên nhiên đã mang lại cho người dân những chuyến ra khơi bình yên cũng như cho con người một nguồn sống. Trời đã cho biển lặng, sóng êm, biển cho nhiều tôm cá, tất cả tạo cho tác giả một niềm hi vọng về cuộc sống tốt đẹp của người dân làng chài. Những câu thơ trong phần này đầy màu sắc và hương vị biển:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ yên trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân trắng bạc

Từ nhỏ có lẽ tác giả đã sống với quê hương, sống với những lần đoàn thuyền ra khơi đánh cá và trở về nên mới có được những vần thơ thật sâu sắc và giàu hình ảnh như thế. Dù ở xa quê hương nhưng tác giả vẫn diễn tả như thể mình đang chứng kiến cảnh tượng ấy diễn ra. Chính tình yêu quê hương đã giúp tác giả có được những cảm xúc như thế. Yêu quê hương là yêu mến những chàng trai làng cường tráng có làn da ngăm rám nắng, được tôi luyện trong lao động, trong vị mặn của nước biển quê hương.

“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.” Yêu làng chài là yêu những con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả, trở về nằm ngủ im lìm trên bến. Con thuyền trong bài thơ đã được nhân hóa nhằm gợi cảm cuộc sống lao động vất vả mà yên vui của người dân:

Chiếc thuyền im bến mới trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Các chữ im, mỏi, nằm, nghe, thấm dần rất gợi cảm và biểu cảm. Sự chuyển đổi cảm giác tài tình đã tạo nên những vần thơ giàu cảm xúc. Khổ thơ cuối nói lên nỗi nhớ nhung làng chài quê hương của người con xa quê. Nỗi nhớ ấy được diễn tả qua điệp khúc “nhớ” trong các câu thơ:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Nhớ quê hương là nhớ màu xanh của nước, màu bạc tươi ngon của cá, màu vôi bạc phếch của cánh buồm, là nhớ con thuyền làng chài rẽ sóng ra khơi, là nhớ cái mùi nồng mặn quá trong hương vị của biển. Chữ thoáng trong câu vừa gợi tả hình bóng con thuyền ra khơi mờ dần nơi cuối biển vừa thể hiện niềm tưởng nhớ trong hoài niệm của tác giả.

Tố Hữu đã ca ngợi thơ Tế Hanh là những câu hát yêu thương, còn nhà thơ Xuân Diệu thì cho rằng nó như một dòng suối nhỏ nhưng là nguồn tình cảm trong lành và bền vững. Đọc bài Quê hương của Tế Hanh ta cảm thấy yêu thơ và tâm hồn thơ của Tế Hanh. Với ông những cảnh sắc về bầu trời, dòng sông, cánh buồm, bến đỗ, con cá… là màu sắc, là hương vị là hình bóng thân yêu của quê nhà.

Hình tượng thơ của Tế Hanh tuy bình dị mà rất có tình. Những nét nhân hóa trong bài thơ Quê hương rất sáng tạo và hấp dẫn người đọc. Đó chính là điểm nhấn giúp bài thơ giàu tình cảm và cảm xúc.

Càng đọc bài thơ, ta càng cảm nhận được tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả, một nỗi nhớ thiết tha với niềm tự hào về mảnh đất và con người nơi minh sinh ra và lớn lên. Thật đúng là “Quê hương nếu ai không nhớ – Sẽ không lớn nổi thành người.”

Viết một bình luận