Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ xuất sắc của những năm cuối thế kỉ XX. Thơ Xuân Quỳnh mộc mạc, tự nhiên, là tiếng lòng, là những khát khao, suy nghĩ và cách hiểu về cuộc sống tình yêu và hạnh phúc. Đọc thơ của tác giả ta như đang đọc một cuốn nhật kí mà ở đó người đọc như bị thu hút bởi nét phong cách rất riêng không lẫn vào đâu được: chân chất, đôn hậu, yêu đời, vui tính nhưng cũng rất sắc sảo và không kém phần sâu cay. Hãy cùng phongnguyet.info thưởng thức những bài thơ hay nhất góp phần tạo nên tên tuổi của nhà thơ nữ tài hoa này bạn nhé.
Tự hát
Bài thơ “Tự hát” sáng tác năm 1984, in trong tập thơ cùng tên của tác giả được đánh giá là một trong những thi phẩm hay, mang đậm phong cách phụ nữ nói chung và Xuân Quỳnh nói riêng. Ta có thể nhận thấy một hồn thơ đa cảm mà dung dị, một trái tim yêu mãnh liệt, ào ạt, đam mê, sẵn sàng cháy đến tận cùng nỗi khát khao dâng hiến. Được viết trong tâm trạng hạnh phúc của một người phụ nữ đang yêu và được yêu, không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ đặt tên cho thi phẩm là “Tự hát”. Phải chăng đó là tiếng lòng, là trạng thái phấn chấn của con người đang say đắm trong tình yêu như đang cất lên khúc nhạc du dương về một tình yêu trọn vẹn.
Chả dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em, anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay.
Em cũng không mong nó giống mặt trời
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống
Lại mình anh với đêm dài câm lặng
Mà lòng anh xa cách với lòng em.
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khoảng cách của yêu tin.
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu.
Mùa thu nay sao bão giông nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh.
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn.
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Sóng
Bài thơ “Sóng” sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” xuất bản năm 1968 của tác giả. Bài thơ lấy cảm xúc trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), khi đó Xuân Quỳnh mới 25 tuổi, trẻ trung, yêu đời. Đây là bài thơ rất hay về tình yêu được rất nhiều bạn đọc đón nhận, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh với vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu thông qua hình tượng con sóng. Đó là tình yêu tha thiết, nồng nàn, đầy khát vọng, sắt son, chung thủy và vượt lên mọi giới hạn của đời người. Từng câu chữ của bài thơ như những nốt nhạc trong bản nhạc của một tâm hồn đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng biển, rạo rực, xôn xao, khát khao đến khắc khoải. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển khơi vô bờ bến.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Thuyền và biển
Bài thơ “Thuyền và biển” của nhà thơ Xuân Quỳnh được in trong tập “Chồi biếc” của tác giả xuất bản năm 1963, sau đó được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc năm 1981. Với thể thơ 5 chữ, giai điệu khi trầm lắng, chậm rãi, khi dạt dào cảm xúc mang sức sống của biển khơi, thi phẩm “Thuyền và biển” thực sự đã trở thành một bài thơ tỏ tình cho bất kì đôi lứa nào đang yêu thời bấy giờ.
Thuyền và biển trở thành một cặp không thể thiếu trong cuộc hành trình trên đại dương bao la, đúng là khoảng cách bến bờ của biển chỉ có thuyền mới xác định được bao nhiêu hải lý và cũng chỉ có biến mới theo kịp những chuyến rong ruổi của thuyền trên sóng biển bao la. Hình ảnh sóng đôi xuyên suốt bài thơ là thuyền và biển tượng trưng cho người con trai và người con gái trong tình yêu được thể hiện thật chân thành và sâu sắc. Tình thuyền và biển cũng như tình anh và em muôn đời không thay đổi, thủy chung, son sắc dù bão tố hay bình yên, dù đau khổ hay hạnh phúc. Dẫu có buồn đau sau chuỗi ngày xa cách, nhưng vẫn luôn nguyện gắn bó bền chặt bên nhau. Tất cả tạo nên một cung bậc tình yêu nhiều màu sắc, nồng nàn, thiết tha.
Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển”
Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi.
Lòng thuyền nhiều khác vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa … còn xa.
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ.
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mang nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu.
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau – rạn vỡ.
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió”
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố.
Mẹ của anh
“Mẹ của anh” là bài thơ nàng dâu tặng mẹ chồng hay nhất trong thi ca Việt Nam ngày nay. Bài thơ được nhiều người yêu thích vì lời thơ chân tình, mộc mạc, chất thơ đằm thắm, đôn hậu, ý thơ ý nhị mà sâu xa, phản ánh tình cảm tốt đẹp giữa mẹ chồng – nàng dâu, một mối quan hệ mà xưa nay vẫn bị nhiều người cho là phức tạp, xa lạ và khó dung hòa.
Bài thơ “Mẹ của anh” của nhà thơ Xuân Quỳnh đã làm rơi nước mắt và vui lòng biết bao bà mẹ chồng Việt Nam bởi sự thấu hiểu và yêu quý của con dâu dành cho mẹ của chồng. Tác phẩm được sáng tác trước khi Xuân Quỳnh về làm dâu bà Vũ Thị Khánh (mẹ của cố nhà thơ Lưu Quang Vũ) năm 1973. Cả bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình như lời ru, với giai điệu chủ đạo là ngợi ca, tự hào và biết ơn mẹ.
Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong.
Ngày xưa má mẹ cũng hồng
Bên anh mẹ thức lo từng cơn đau
Bây giờ tóc mẹ trắng phau
Để cho mái tóc trên đầu anh đen.
Đâu con dốc nắng đường quen
Chợ xa gánh nặng mẹ lên mấy lần
Thương anh thương cả bước chân
Giống bàn chân mẹ tảo tần năm nao.
Lời ru mẹ hát thuở nào
Chuyện xưa mẹ kể lẫn vào thơ anh
Nào là hoa bưởi hoa chanh
Nào câu quan họ mái đình cây đa.
Xin đừng bắt chước câu ca
Đi về dối mẹ để mà yêu nhau
Mẹ không ghét bỏ em đâu
Yêu anh em đã là dâu trong nhà.
Em xin hát tiếp lời ca
Ru anh sau nỗi lo âu nhọc nhằn
Hát tình yêu của chúng mình
Nhỏ nhoi giữa một trời xanh khôn cùng.
Giữa ngàn hoa cỏ núi sông
Giữa lòng thương mẹ mênh mông không bờ
Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.
Thơ tình cuối mùa thu
Bài “Thơ tình cuối mùa thu” nằm trong tập thơ “Tự hát” của nhà thơ Xuân Quỳnh xuất bản lần đầu năm 1984. Bài thơ tựa như một bản nhạc du dương, êm ái thấm dần vào lòng bạn đọc. Không chỉ là cách miêu tả đất trời vào thu một cách đơn thuần, thi phẩm còn muốn nhấn mạnh tình cảm thiêng liêng của con người, đó là tình yêu.Tình yêu được thêu dệt bởi bức tranh phong cảnh cuối mùa thu càng trở nên độc đáo, lãng mạn và vô cùng mới mẻ.
Lời thơ giản dị, trong sáng không hề cầu kì hoa mĩ; tứ thơ khoan thai, nhịp nhàng như nói lên chính nỗi lòng của nhà thơ, chính nhịp đập của trái tim yêu thương chan chứa, khát khao được yêu thương và sống hết mình với tình yêu đó. Đọc thơ, ta như nhận thấy mình ở trong đó, trào dâng nỗi nhớ da diết với người mình yêu thương. Mùa thu tuy có phảng phất một nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng nhưng đó lại là cung bậc của tình yêu. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điều đã phổ nhạc bài thơ này và được rất nhiều người yêu thích.
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây.
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em.
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may.
Bàn tay em
Bài thơ “Bàn tay em” được sáng tác năm 1976 nằm trong tập “Tự hát” của nhà thơ Xuân Quỳnh là một tác phẩm rất đặc biệt với đề tài tình yêu. Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện ra một cách sống động từ sự dịu dàng, đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh tần tảo, lam lũ, yêu thương chồng con và khát khao được yêu thương lại đều thể hiện rất trọn vẹn qua hình tượng đôi bàn tay. Người phụ nữ ấy phải chăng cũng là chính tác giả hay người phụ nữ Việt Nam nói chung – những người đang ngày ngày đắp xây cho tổ ấm của mình. Thật đáng yêu, đáng trân trọng và khâm phục biết bao.
Gia tài em chỉ có bàn tay
Em trao tặng cho anh từ ngày ấy
Những năm tháng cùng nhau anh chỉ thấy
Quá khứ dài là mái tóc em đen.
Vui, buồn trong tiếng nói, nụ cười em
Qua gương mặt anh hiểu điều lo lắng
Qua ánh mắt anh hiểu điều mong ngóng
Anh nghĩ gì khi nhìn xuống bàn tay?
Bàn tay em ngón chẳng thon dài
Vết chai cũ, đường gân xanh vất vả
Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ
Hái rau rền rau rệu nấu canh.
Tập vá may, tết tóc một mình.
Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ
Đường tít tắp, không gian như bể
Anh chờ em cho em vịn bàn tay.
Trong tay anh, tay của em đây
Biết lặng lẽ vun trồng gìn giữ
Trời mưa lạnh tay em khép cửa
Em phơi mền vá áo cho anh.
Tay cắm hoa, tay để treo tranh
Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc
Năm tháng đi qua mái đầu cực nhọc
Tay em dừng trên vầng trán lo âu.
Em nhẹ nhàng xoa dịu nỗi đau.
Và góp nhặt niềm vui từ mọi ngả
Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở…
Bàn tay em, gia tài bé nhỏ
Em trao anh cùng với cuộc đời em.
Hoa cỏ may
Nằm trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1989, bài thơ “Hoa cỏ may” của thi sĩ Xuân Quỳnh được độc giả rất yêu thích. Chỉ cần đọc tên bài thơ thôi, người đọc đã hình dung ra một khung cảnh thiên nhiên đẹp và hoang sơ – một mạch nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong dòng chảy thi ca của các nhà thơ Việt Nam. Tuy nhiên, với Xuân Quỳnh, tác giả lại thổi hồn vào tác phẩm của mình theo một cách riêng.
Với những câu thơ 7 chữ, nhịp thơ 2/2/3, thi sĩ như đang vẽ ra trước mắt độc giả một không gian mênh mang, im lìm đang chuyển mùa nên cứ ngẩn ngơ, xao xuyến, nhớ nhung về những kỉ niệm của những mùa thu đã qua. Hoa cỏ may, một loài hoa đồng nội, không kiêu kì, không hương sắc, mộc mạc và kiên cường. Chỉ cần có gió thổi là hoa cỏ may sẽ đặt chân đến bất cứ đâu. Bởi thế cho nên nó biểu trưng cho tình yêu dung dị, cho hạnh phúc đời thường và cả những khát khao yêu thương nồng cháy.
Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu.
Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa.
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay?
Chuyện cổ tích về loài người
Xuân Quỳnh là nhà thơ tình với nhiều bài thơ nổi tiếng làm nên tên tuổi của nữ thi sĩ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết Xuân Quỳnh còn là một nhà thơ dành cho thiếu nhi những vần thơ rất hay trong sáng và ngộ nghĩnh. “Chuyện cổ tích về loài người” là một trong số những bài thơ như thế.
Bài thơ nằm trong tập thơ “Lời ru trên mặt đất” xuất bản năm 1978 của nhà thơ và được trích đoạn làm bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 4 hiện nay. Đây là câu chuyện huyền thoại về thời gian đầu tiên thuở khai thiên lập địa được thuật lại bằng quan hệ tiếp nhận cổ tích khi tác giả hướng người nghe về trẻ em, biến trẻ con thành nhân vật trung tâm. Tất cả hiện ra với những dòng thơ năm chữ như giọng kể chuyện tâm tình, thủ thỉ. Sự sáng tạo về trời đất và con người được thể hiện không chỉ qua nghĩa của từ mà qua cả cấu trúc âm thanh của bài thơ.
Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác
Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay
Lá cỏ bằng sợi tóc
Cái hoa bằng cái cúc
Màu đỏ làm ra hoa
Chim bấy giờ sinh ra
Cho trẻ nghe tiếng hót
Tiếng hót trong bằng nước
Tiếng hót cao bằng mây
Những làn gió thơ ngây
Truyền âm thanh đi khắp
Muốn trẻ con được tắm
Sông bắt đầu làm sông
Sông cần đến mênh mông
Biển có từ thuở đó
Biển thì cho ý nghĩ
Biển sinh cá sinh tôm
Biển sinh những cánh buồm
Cho trẻ con đi khắp
Đám mây cho bóng rợp
Trời nắng mây theo che
Khi trẻ con tập đi
Đường có từ ngày đó
Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…
Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…
Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất.
Nói cùng anh
Tình yêu là một thứ tình cảm không mới. Nó đã tồn tại từ khi loài người thoát thai khỏi đời sống động vật. Con người với bản năng sinh tồn cần có cơm ăn, nước uống và khí trời để thở. Có nhiều người chẳng yêu cũng sống được. Nhưng nếu không có tình yêu thì sao? Hai người xa lạ gặp nhau, mang nỗi buồn vui chia sẻ cùng nhau và cảm thấy hạnh phúc khi bên nhau, thậm chí hạnh phúc ngay cả khi nghĩ về nhau. Thế là yêu.
Nhưng đọc bài thơ nói cùng anh này, người đọc cảm nhận thấy có một vẻ bất cần. “Em biết đấy là điều đã cũ/ Chuyện tình yêu, quan trọng gì đâu”. Cảm giác này có thể được lí giải theo Sigmun Freud, đó là do những chấn thương về tình cảm tạo thành ẩn ức khiến cho người đã một lần thất bại trở nên mặc cảm.
Em vẫn biết đấy là điều đã cũ
Chuyện tình yêu, quan trọng gì đâu:
Sự gắn bó giữa hai người xa lạ
Nỗi vui buồn đem chia sẻ cùng nhau.
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui.
Ðiều hôm nay ta nói, ngày mai
Người khác lại nói lời yêu thuở trước
Ðời sống chẳng vô cùng, em biết
Và câu thơ đâu còn mãi ngày sau.
Chẳng có gì quan trọng lắm đâu
Như không khí, như màu xanh lá cỏ
Nhiều đến mức tưởng như chẳng có
Trước cuộc đời rộng lớn mênh mang.
Nhưng lúc này anh ở bên em
Niềm vui sướng trong ta là có thật
Như chiếc áo trên tường, như trang sách
Như chùm hoa mở cánh trước hiên nhà.
Em hiểu rằng mỗi lúc đi xa
Tình anh đối với em là xứ sở
Là bóng rợp trên con đường nắng lửa
Trái cây thơm trên miền đất khô cằn.
Ðó tình yêu, em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn.
Tiếng gà trưa
Bài thơ “Tiếng gà trưa” được nhà thơ Xuân Quỳnh viết năm 1968 giữa cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, khi lớp lớp thanh niên Việt Nam phải từ biệt gia đình, quê hương và gác lại những kí ức tuổi thơ thân thuộc để lên đường ra trận. Những năm tháng ấy có ý nghĩa vô cùng lớn lao, tác động trực tiếp đến sự ra đời cũng như mạch nguồn xúc cảm của bài thơ. Qua những câu thơ sáng trong, đằm lắng, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã mang cả kỉ niệm tuổi thơ mộc mạc, tình cảm bà cháu hòa vào cuộc chiến tranh, vào cảm hứng chung cho cả một thời đại.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”.
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng.
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng:
– Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng.
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp.
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới.
Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh chúc bâu
Đi qua nghe sột soạt.
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Đọc thơ Xuân Quỳnh, không ai lại không cảm nhận được hồn thơ dung dị, nồng nhiệt và đằm thắm với nhiều mảng màu cảm xúc trong cuộc sống: vui có, buồn có, hạnh phúc có, lo âu có, tin tưởng có và cả hoài nghi vỡ vụn cũng có. Càng đọc, ta lại càng thêm yêu thơ Xuân Quỳnh cũng như tác giả nữ tài hoa cống hiến hết mình cho nghệ thuật vị nhân sinh, để rồi ta đồng cảm với tiếng hát của trái tim chân thành, nồng ấm và khát khao yêu thương không bao giờ ngơi nghỉ.