Thơ Nguyễn Công Trứ – Phóng khoáng và tràn đầy chất “Ngông” Phần 2

Giới thiệu đến quý độc giả yêu thơ Nguyễn Công Trứ phần 2 của thơ Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ bước vào giai đoạn rối loạn lúc còn ấu thơ, lớn lên tâm tính phát triển theo với bản chất và giáo dục, nhưng cũng dưới sự chi phối mạnh mẽ của xã hội và thời cuộc. Thơ Nguyễn Công Trứ thể hiện sâu sắc nhân tình thế thái đương thời.

Nội Dung

Vất vất vơ vơ cũng nực cười!
Căm căm cúi cúi có hơn ai?
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp,
Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
Cho bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi.

Tương tư không biết cái làm sao?
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào!
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai, ngỡ miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư không biết cái làm sao?

Trót đà khuya sớm với ma men,
Mặc mặc người chê mặc kẻ khen.
Ngó lại hàng rào hương cúc trộn,
Trông ra cửa sổ bóng trăng chen.
Vào vòng cương tỏa chân không vướng,
Tới cuộc trần ai áo chẳng ven.
Chứ những ai hay tình thú ấy,
Có chăng Bành Trạch với Thanh Liên.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không lịch sự cũng người Trường An
Hồi thủ khả lân ca vũ địa
Đất Trường An là chốn đế kinh
Nước non một dải hữu tình
Giời Nam Việt trước gây đồ đế kỉ,
Người thôn ổ, dấu phong lưu thành thị.
Đất kinh kì riêng một áng lâm tuyền
Men sườn non tiếng mục véo von
In mặt nước buồm ngư lã chã
Hoa thảo kỉ kinh xuân đại tạ
Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vương
Đồ thiên nhiên riêng một bức tang thương
Khách du lãm coi chừng thăm hỏi
Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung, đế miếu đâu nào?
Mỉa mai vượn hót anh chào.

Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hóa bần thần
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân
Số khá, bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường, đông hết hẳn sang xuân
Giời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần

Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông.
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.
Đã biết nòi nào thì giống nấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

Cái tình là cái chi chi?
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình
Đa tình là dở, đã mắc vào đố gỡ cho ra!
Khéo quấy người một cái tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi
Nực cười thay lúc phân kỳ
Trông chẳng nói, biết bao nhiêu biệt lệ
Tình huống ấy dẩu bút thần khôn vẽ
Càng tài tình càng ngốc, càng si
Cái tình là cái chi chi?

Danh chẳng ham mà lợi chẳng mê
Ấy gan hay sắt, hỡi Di, Tề?
Gặp xe vua Võ, tay giằng lại
Thấy thóc nhà Chu, mặt ngoảnh đi
Cô Trúc, hồn về mây ngụt ngụt
Thú Dương, danh để đá tri tri (trơ trơ)
Cầu nhân ắt được nhân mà chớ
Chẳng trách ai chi, chẳng oán chi

Mưỡu:
Hôi tanh, chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì, người yêu!

Hát nói:
Tạo vật bất thị vô để sự,
Bòn chài ra một thứ quấy chơi.
Đủ vuông tròn tượng Đất, tượng Trời,
Khẳm hoạ phúc, nguy, yên, tử, hoạt.
Chốn kim môn, nơi tử thất,
Mặc phao tuồng, không kẻ phòng nhàn.
Đương om sòm chớp giật, sấm ran,
Nghe xốc xách, lại gió hoà mưa ngọt.
Kẻ tài bộ đã vào phương vận đạt,
Không ngươi, cùng ải với cỏ cây.
Người yêm yêm đành một phận trầm mai,
Có gã, lại trổ ra sừng gạc.
Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác,
Trổng đầu giường, gan tráng sĩ làu bàu.
Để đoàn ấm á càu nhàu,
Khiến lũ tài danh vơ vẩn.
Khả quái tầm thường a đổ vật,
Khước giao đáo để đại thần linh.
Đương đồ ai chẳng chuộng gia huynh,
Thù thế, kể lấy làm đệ nhất.
Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất,
Thần cũng thông, huống nữa là ai?
Long Đồ nghĩ cũng nực cười!

So tam kiệt ai bằng Hàn Tín,
Một tay thu muôn dặm nước non.
Những ngờ rằng khoán sắt thư son,
Thái sơn như lệ, Hoàng hà như đái.
Hạp tảo Ngũ Hồ song Phạm Lãi,
Khước giao tam kiệt độc Trương Lương.
Đau đớn thay điểu tận cung tàng,
Đầm Vân Mộng phải mắc mưu con trẻ.
Nếu biết chữ “khả hành, khả chỉ”,
Thà Ngũ Hồ một lá cho xong.
Làm chi lúng túng trong vòng!

Sông Xích Bích vừng trăng vằng vặc
Thầy Tô tìm thú cũ qua chơi
Bóng quang âm là đã mấy mươi
Mà non nước dễ xui lòng cảm kích
Thi thành nhất bức thiên sơn tịch
Cô hạc hoành giang lược tiểu chu
Suốt năm canh bên gối mơ hồ
Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt
Trong cười nói hỏi tên gì chẳng biết
Liếc trông ra nào thấy đâu nào
Ấy người hay hạc xinh sao?

Dập dìu trăng mạn gió lèo,
Lòng ngâm vân thuỷ lơi chèo yên ba.
Cảnh Tây hồ khen ai khéo đặt,
Trong thị thành riêng một áng lâm tuyền.
Bóng kỳ đài giăng mặt nước như in,
Tàn thảo thụ lum xum toà cổ sát.
Chiếc cô vụ, mảnh lạc hà bát ngát,
Hỏi năm nao vũ quán điếu đài.
Mà cỏ hoa man mác dấu thương đài,
Để khách rượu làng thơ ngơ ngẩn.
Yên tiêu Nam quốc mỹ nhân tận,
Oán nhập đông phong phương thảo đa.
Đồ thiên nhiên một áng yên ba,
Dễ khiển hứng câu thơ chén rượu.
Buồm nửa lá trăng thanh gió dịu,
Chiền đâu đây một tiếng chuông rơi.
Tây Hồ cảnh biết mấy mươi.

Thế nhân giai tuý nhi giai trọc
Duy ngã độc tỉnh nhi độc thanh
Thuở hôn hôn ai tỏ dạ trung thành
Còn nấn ná nữa chi cho bận?
Cô phẫn khí thành thiên khả vấn
Độc tỉnh nhân khứ quốc cơ không
Dòng Mịch La dù đục đục trong trong
Đèn bất dạ hãy soi người thiên cổ
Bát ngát buổi giang thiên dục mộ
Tiếng ngư ca còn đồng vọng đâu đây
Nghĩ tình ai cũng xót vay

Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,
Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông.
Mây về ngàn Hống đen như mực,
Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng.
Cảo mực hơi may ngòi bút rít,
Phím loan cưởi nhuộm sợi tơ chùng.
Bốn mùa ví những xuân đi cả,
Góc núi ai hay sức lão tùng.

Trời đông hơi giá như đồng,
Cái cơ lai phục đã trong hỗ hàn.
Sang đông tiết hơi may lạnh lẽo,
Hội bế tàng chuyển máy âm dưong.
Lôi thôi chày nhạn khua sương,
Thấp thoáng bóng ngư câu tuyết.
Lăng hàn bích khắc tùng thiên xích,
Nại lạnh hoàng lưu cúc sổ hoa.
Ngoài quan sơn tuyết đóng sương pha,
Kẻ hào hứng chốn khê kiều đắc thú.
Điểm điểm trông chừng lĩnh sấu,
Phút tin xuân đã hé đầu cành.
Đành hay âm cực dương sinh.

Hạ sang tàn lửa càng cao,
Khúc ca giải phụ lựa vào năm dây.
Vận ống Lữ tiết vừa sang hạ,
Bính Đinh về hiệu gọi Chúc Dung.
Quanh ngọn tường lửa lựu phun hồng,
Trên mặt nước tiền sen nảy lục.
Trì đường tịnh trưởng ông tôn trúc,
Ly lạc tề khai tỷ muội hoa.
Buổi thời huân mấy khúc cầm ca,
Với trời đất cũng sinh sinh trưởng trưởng.
Hé mành ngọn nam phong thoang thoảng,
Người Hy Hoàng dáng cũng dường nầy.
Thú sao dễ mấy ai hay.

Trời thu phảng phất gió chiều,
Mây về Ngàn Hống buồm treo ráng vàng.
Sang thu tiết hơi may hiu hắt,
Cụm sen già lã chã phai hương.
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng,
Son nhuộm non đào cành lá đỏ.
Lãnh vũ như ti trùng chức dạ,
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không.
Phúc đâu đâu một trận hảo phong,
Trên cung Quảnh xa đưa hương quế.
Giời biếc biếc, nước xanh xanh một vẻ,
Khéo hoá công khéo vẽ nên đồ.
Một năm được mấy mùa thu.

Xuân sang hoa cỏ đua tươi,
Khoe màu quốc sắc trẻ mùi thiên hương.
Đầm ấm thủa tin xuân phút bắn,
Khí phát sinh rải rác trên cành.
Thử tập bay, bướm mới uốn mình,
Muốn học nói, oanh còn lựa tiếng.
Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
Đào thí tân hồng điệp vị tri.
Mái đông phong mày liễu xanh rì,
Đám tàn tuyết đầu non trắng xoá.
Buổi hoà hú khí trời êm ả,
Hội đạp thanh xa mã dập dìu.
Ngàn vàng một khắc xuân tiêu.

Ôi, nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh giấc nồi kê chửa chín.
Vật thái mạc cùng vân biến ảo,
Thế đồ vô lự thuỷ danh hư.
Cái hình hài đã chắc thiệt chưa?
Mà lẽo đẽo khóc sầu rứa mãi!
Trời đất hễ có hình là có hoại,
Ỷ chi chi mà chắc cái chi chi.
Cuộc làm vui liệu phải kịp thì,
Khi đắc chí lại có khi thất chí.
Trông gương đó hãy suy cho kỹ,
Dẫu xưa nay nào có trừ ai;
Có tài mà cậy chi tài!

Đương cơn khổ nhục, lắm người khinh
Vốn hễ làm người, có nhục vinh
Vận đỏ, ghe người cho muối cá
Hồi đen, lắm kẻ xóc xương kình
Đại nhân bao quản nhời chênh lệch
Quân tử khôn từ chốn đá đanh
Thôi hẵng đợi trời bình trị đã
Gặp thời vỗ cánh sẽ ra danh!

Mưỡu:
Sầu ai lấp cả vòng giời
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung?

Hát nói:
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa
Giống ở đâu vô ảnh vô hình
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi
Gươm đoạn sầu, thơ trục muộn đủ rồi
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu
Dục phá sầu thành tu dụng tửu
Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu
Rượu với sầu như gió mã ngưu
Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi?
Càng tài tử càng nhiều tình ái
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra
Mua sầu tại kẻ hào hoa

Thuyền từ một lá vơi vơi,
Bể trần chở biết bao người trầm luân.
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Chiếc thuyền từ một lá vơi vơi,
Vớt chìm đắm đưa người lên cõi tĩnh.
Chữ kiến tính cũng là suất tính,
Trong ống dòm đổ tiếng hư vô.
Kẻ muốn đem nhân kỳ nhân, hoả kỳ thư, lư kỳ cư,
Song đạo thống hỏi rành rành công cứ.
Bạng y thiên lý hành tương khứ,
Đô tự nhân tâm tố xuất lai.
Bát khang trang chẳng chút chông gai,
Cùng nghiêng ngả một dòng Hà Lạc.
Trong nhật dụng sao rằng đạo khác,
Cái luân hồi chẳng ở đâu xa.
Nghiệp duyên vốn tại mình ra,
Nơi vuông tấc đủ thiên đường địa ngục.
Vì chưa thoát lòng trần mắt tục,
Nên mơ màng một bước một khơi.
Khiến cho phiền muộn Như Lai.

Mưỡu:
Sầu ai lấp cả vòng giời
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung?

Hát nói:
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa
Giống ở đâu vô ảnh vô hình
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi
Gươm đoạn sầu, thơ trục muộn đủ rồi
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu
Dục phá sầu thành tu dụng tửu
Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu
Rượu với sầu như gió mã ngưu
Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi?
Càng tài tử càng nhiều tình ái
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra
Mua sầu tại kẻ hào hoa

Những nghĩ xa gần khéo gớm thay!
Sự đời tráo trở giống bàn tay!
Hãy xem gương trước to tày liếp,
Mà biết lòng người mỏng tựa mây.
Những tiếng bất chì nghe đã chán,
Mấy điều cạnh khoé nói thêm gay.
Ở ăn cũng tưởng (nghĩ) về sau với,
Trời hãy còn cao, đất hãy dày!

Đã biết má hồng thời phận bạc
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng
Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai!
Nghĩ đời mà ngán cho đời!

Gió trăng chứa một thuyền đầy,
Của kho vô tận biết ngày nào vơi?
Ông Tô tử qua chơi Xích Bích,
Một con thuyền với một túi thơ.
Gió hiu hiu mặt nước như tờ,
Trăng chếch chếch đầu non mới ló.
Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ,
Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương.
Ca rằng:
Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
Diểu diểu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,
Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước.
Sực nhớ kẻ quay ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước,
Nghĩ sự đời thêm cảm nỗi phù du.
Đành hay trời đất dành cho,
Hai kho phong nguyệt nghìn thu hãy còn!
Còn trời, còn nước, còn non.

Năm năm uốn lưỡi trong màn
Một mình ơn Hán, nợ Hàn giả xong
Trương Lưu Hầu là Hàn công tử
Dõi năm đời chung đỉnh đai cân
Liều một dùi chưa giả nợ cố quân
Uốn ba tấc lấy thân thờ Hán chúa
Thuốc độc phun Tần lây đến Sở
Mùi thơm ngậm Hán trún cho Hàn
Trong năm năm gây một mối giang san
Đền nợ trước ơn sau đều vẹn xóng
Tràng phú quí xem bằng mây mỏng
Túi Xích Tùng riêng đủng đỉnh mái Thanh Sơn
Nhục vinh gác chuyện Tiêu, Hàn

Mưỡu:
Não nùng một khúc tỳ bà,
Giang Châu tư mã ai là tri âm.

Nói:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Bóng trăng thu chênh chếch bên thuyền.
Tiếng tỳ bà ai khéo gẩy nên,
Xui lòng khách thiên nhai luống những.
Ai oán nhẽ bốn dây văng vẳng,
Nỗi bất bình như khấp, như tố, như oán, như than.
Nực cười thay cái phận hồng nhan,
Nào những khách Ngũ Lăng đâu vắng tá.
Yên thuỷ mang mang thiên ngũ dạ,
Tỳ bà khúc khúc nguyệt tam canh.
Bến Tầm Dương cảnh ấy xiết bao tình,
Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt.
Người viễn khách biết chăng chẳng biết,
Khúc đàn này biết gẩy cùng ai.
Giang đầu hạnh hữu khách lai.

Đoái xem văn võ cả hai hàng,
Bên văn sang bên võ cũng sang.
Dù tía vơng xanh, văn đủng đỉnh,
Gươm vàng thẻ bạc, võ nghênh ngang.
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương.
Gặp hội thái bình văn trước võ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương!

Người ta ở trong phù thế,
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên.
Đêm bẩm trời, trời cũng phải khuyên.
Khuyên khuyên chữ “Anh hùng yên sở ngộ”.
Thơ rằng: “Tạo hoá có ghen chi mệnh số,
Giang sơn nào oán với văn chương”
Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang,
Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước.
Sóng Vũ lớp sau như lớp trước,
Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu!
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ?
Trần ai ai biết công hầu là ai ?
Bao giờ rõ mặt mới hay!

Bần tiện song le tính vốn lành
Gặp sao hay vậy, dám đành hanh?
Phím đàn níp sách là nghề cũ
Quạt gió đèn trăng ấy của riêng
Nhân nghĩa tước trời thì phải giữ
Lợi danh đường nhục cũng nên kinh
Tin xuân đã có cành mai đó
Chẳng lịch song mà cũng biết giêng

Ngồi thử ngẫm trăm hoa ai nhuốm
Một hoa là riêng một sắc hương
Khi chưa xuân khép nép bên tường
Còn phong nhụy đợi đông hoàng về cán đáng
Liễu tía, đào hường mai trắng trắng
Lan tươi, huệ tốt, lý xanh xanh
Thêm hương khi gió lá mưa cành
Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím
Khách thập thúy say màu hoa diễm
Đối mặt hoa mà cầm, mà kỳ, mà tửu, mà thi
Khuyên ai đừng dở cuộc ly phi
Trân trọng lấy hương giời cho trọn vẹn
Hoa với khách như đà có hẹn
Ưa màu nào, màu ấy là xinh
Trăm hoa cũng bẻ một cành

秋興其一
玉露凋傷楓樹林,
巫山巫峽氣蕭森。
江間波浪兼天湧,
塞上風雲接地陰。
叢菊兩開他日淚,
孤舟一繫故園心。
寒衣處處催刀尺,
白帝城高急暮砧。

Thu hứng kỳ 1
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa
Móc ngọc tơi bời ở rừng phong,
Khí ở núi Vu và kẽm Vu ảm đạm mịt mờ.
Trên sông, nước và trời cùng trôi chảy,
Ngoài ải, gió và mây liên tiếp mù đất.
Cúc từng chòm nở hai lần dòng lệ xưa,
Thuyền lẻ loi buộc chặt mối tình quê cũ.
Nơi nơi giục giã dao thước may áo rét,
Tiếng chày chiều dồn dập thành cao Bạch Đế.

(Năm 766)

Nguyễn Công Trứ để lại một kho thi văn chữ Nôm phong phú gồm có đủ loại. Nguyễn Công Trứ một nhà thơ, một nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc có nhiều đóng góp cho sự phát triển nước nhà.

Viết một bình luận