Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ hay nhất

Bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ được sáng tác dựa trên sự kiện chiến dịch Biên giới cuối năm 1950. Qua câu chuyện về một đêm không ngủ của Bác Hồ trên đường đi chiến dịch, ta thấy được tấm lòng yêu thương sâu sắc rộng lớn của Người đối với bộ đội, nhân dân đồng thời bài thơ nói lên tình cảm yêu kính cảm phục của người chiến sĩ đối với lãnh tụ. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích vẻ đẹp của bài thơ mà phongnguyet.info đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 1

Bác Hồ vị cha già kính yêu của dân tộc, tấm lòng, sự vĩ đại của Bác luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao thế hệ tác giả. Viết về Bác ta không thể không nhắc đến tác phẩm Đêm nay Bác không ngủ của nhà thơ Minh Huệ. Tác phẩm đã vẽ lên chân dung của vị lãnh tụ vừa giản dị, gần gũi vừa vĩ đại, lớn lao.

Bài thơ chỉ là một câu chuyện nhỏ nhưng vô cùng xúc động về tấm lòng yêu thương vô bờ bến của Bác với đồng bào, với những người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu. Câu chuyện mở ra ở chiến khu vào một đêm đông giá rét khi Bác ở trong rừng sâu cùng các chiến sĩ. Qua lời kể của anh đội viên, ta thấy Bác hiện lên thật giản dị, đẹp đẽ.

Với cương vị là một nhà lãnh đạo, một vị lãnh tụ đáng lẽ Bác sẽ nhận được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt từ mọi người, được ngủ ở một nơi an toàn, ấm áp nhưng ngược lại, Bác hòa cùng nhịp sống với những người chiến sĩ. Anh đội viên vô cùng ngạc nhiên, khi thấy Bác tuổi đã cao nhưng vẫn sẵn sàng đi hành quân trong đêm mưa rét và ngay cả khi đêm đã về khuya bác vẫn chưa ngủ:

“Lặng yên bên bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm”

“Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng”

Bác ngồi trầm ngâm bên bếp lửa lo cho các anh bộ đội ngoài kia phải chống chọi với cái lạnh, với sự nguy hiểm, Bác lo cho chiến dịch, lo cho tương lai của đất nước. Những cử chỉ của Bác thật ân cần, ấm áp, cái nhón chân nhẹ nhàng khiến người ta liên tưởng Bác như người cha đang chăm lo cho những đứa con của mình.

Bởi vậy mà anh thanh niên đã phải thốt lên: “Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng”. Tình cảm yêu thương bao la của Bác còn ấm hơn ngọn lửa thực kia, nó có sức mạnh không chỉ sưởi ấm cơ thể mà còn có thể sưởi ấm cả tâm hồn, làm bừng lên tinh thần yêu nước của người chiến sĩ.

Lần thứ ba thức dậy, anh giật mình vì vẫn thấy Bác đang ngồi “đinh ninh”, anh nằng nặc, tha thiết mời Bác ngủ. Giọng anh vô cùng chân thành, đó là lời nói sâu thẳm từ trong trái tim, thể hiện nỗi lo lắng cho sức khỏe của Bác. Đáp lại anh, lời nói của Bác thật chân tình, ấm áp: Chú cứ việc ngủ ngon/ Ngày mai đi đánh giặc.

Tình cảm yêu thương, quan tâm, lo lắng của Bác cũng được thể hiện trực tiếp qua lời nói: Bác thức thì mặc bác/ Bác ngủ không yên lòng/ Bác thương đoàn dân công/…Càng thương càng nóng ruột/ Mong trời sáng mau mau. Trong cái giá lạnh của mùa đông, cái khó khăn của hiện thực Bác chẳng hề nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng, quan tâm, dành tất cả tình yêu thương cho dân, cho nước. Tấm lòng của Bác thật bao la, rộng lớn như trời biển. Trước tấm lòng của Bác, anh đội viên đã có một hành động thật tự nhiên, chân thành “anh thức luôn cùng Bác”.

Bài thơ viết bằng thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, gần gũi với lối hát dặm của Nghệ Tĩnh, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người đọc. Cùng với đó, tác giả sử dụng lớp ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ: so sánh (Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng) ; biện pháp ẩn dụ (Người cha mái tóc bạc). Lối kể chuyện theo trình tự thời gian hấp dẫn, diễn biến tự nhiên, hợp lí, tác giả đã khắc họa thành công chân dung vị cha già của dân tộc.

Đêm nay Bác không ngủ là bài thơ giàu cảm xúc, dễ đi vào lòng người. Qua bài thơ ta không chỉ thấy tấm lòng yêu thương, kính trọng của anh đội viên đối với Bác. Mà còn thấy được chân dung sáng ngời của vị lãnh tụ vĩ đại với tấm lòng quan tâm, yêu thương sâu sắc nhân dân, bộ đội.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 2

Đêm nay Bác không ngủ của tác giả Minh Huệ sáng tác năm 1951, là một trong những bài thơ thành công nhất về Bác Hồ và đã trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ. Câu chuyện kể về một đêm không ngủ của Bác Hồ trên đường đi chiến dịch. Bài thơ thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác đối với bộ đội và nhân dân, đồng thời thể hiện tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ đối với lãnh tụ.

Bài thơ Đêm nay Bác không ngủ sử dụng thể thơ năm chữ thích hợp với lối kể chuyện kết hợp miêu tả. Đây là bài thơ tự sự trữ tình có nhiều chi tiết giản dị và cảm động được trình bày như một câu chuyện về người thật việc thật. Có hoàn cảnh, không gian, thời gian, địa điểm, có diễn biến sự việc, có cả lời đối thoại giữa hai nhân vật (anh đội viên và Bác Hồ).

“Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ.

Lặng yên nhìn bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm.

Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều tranh xơ xác.”

Hai khổ thơ đầu giới thiệu thời gian, không gian của câu chuyện, hình ảnh Bác Hồ và anh đội viên. Trong đêm khuya, trời mưa, gió lạnh, anh đội viên thức giấc, thấy Bác vẫn ngồi bên bếp lửa. Anh băn khoăn thắc mắc, vì trời đã khuya lắm rồi mà Bác vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa. Anh kín đáo dõi theo diễn biến tâm trạng trên nét mặt và trong từng cử chỉ ân cần của Bác. Anh xúc động hiểu rằng Bác đang lặng lẽ đốt lửa để sưởi ấm cho chiến sĩ.

“Anh đội viên nhìn Bác

Càng nhìn lại càng thương

Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm”

Trong lòng anh đội viên dấy lên tình cảm yêu thương, kính trọng Người vô hạn.

“Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng ”

Bác coi trọng giấc ngủ của chiến sĩ nên nhón chân nhẹ nhàng đi dém chăn cho từng người một. Bác ân cần chu đáo không khác gì bà mẹ hiền yêu thương, lo lắng cho đàn con. Cử chỉ nhón chân nhẹ nhàng của Bác là một chi tiết đặc sắc, thật giản dị mà xúc động, bộc lộ tấm lòng yêu thương sâu xa và sự tôn trọng, nâng niu của vị lãnh tụ đối với bộ đội.

“Anh đội viên mơ màng

Như nằm trong giấc mộng

Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng.”

Ngọn lửa bập bùng soi bóng Bác khi mờ khi tỏ. Anh mơ màng thấy bên ánh lửa bập bùng, bóng Bác cao lồng lộng in trên vách nứa đơn sơ, vừa chập chờn hư ảo, vừa ấm áp yêu thương. Bác như ông Bụt, ông Tiên xuất hiện giữa khung cảnh rừng sâu, trong đêm khuya, dưới mái lều tranh. Thực và mộng đan cài vào nhau, tạo nên hình ảnh tuyệt đẹp về Bác.

“Thổn thức cả nỗi lòng

Thầm thì anh hỏi nhỏ:

Bác ơi Bác chưa ngủ

Bác có lạnh lắm không?”

Anh đội viên lo lắng tha thiết mời Bác đi nghỉ, vì đêm đã khuya rồi mà Bác vẫn chưa đi ngủ. Nỗi lo Bác ốm cứ bề bộn trong lòng anh.

“Chú cứ việc ngủ ngon

Ngày mai đi đánh giặc”

Nhưng Bác không trả lời câu hỏi của anh mà ân cần khuyên nhủ:

“Không biết nói gì hơn

Anh nằm lo Bác ốm

Lòng anh cứ bề bộn

Vì Bác vẫn thức hoài

Chiến dịch hãy còn dài

Rừng lắm dốc lắm ụ

Đêm nay Bác không ngủ

Lấy sức đâu mà đi?”

Vâng lời anh nhắm mắt nhưng bụng vẫn bồn chồn. Nỗi lo lắng của anh thật thiết thực, bởi trong suy nghĩ của anh, Bác là linh hồn chiến dịch.

“Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc.”

Lần thứ ba thức dậy, anh đội viên hốt hoảng giật mình khi thấy Bác vẫn không ngủ mà tập trung suy nghĩ cao độ.

“Anh vội vàng nằng nặc Mời Bác ngủ Bác ơi Trời sắp sáng mất rồi Bác ơi! Mời Bác ngủ!” Anh lo lắng vì sợ Bác mệt, không tiếp tục được cuộc hành trình. So với lần trước, lần này anh đội viên năn nỉ mạnh dạn hơn, tha thiết hơn.

“Bác thức thì mặc Bác

Bác ngủ không an lòng

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn.

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt!

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau.”

Cảm động trước nhiệt tình của người chiến sĩ, Bác thấy cần phải giải thích nguyên nhân mình không ngủ để cho anh yên tâm: Lý do Bác không ngủ vì Bác lo cho bộ đội, dân công đang ngủ ngoài rừng. Tuy không thấy tận mắt, nhưng Bác cảm nhận rất cụ thể những gian lao vất vả của họ.

“Anh đội viên nhìn bác

Bác nhìn ngọn lửa hồng

Lòng vui sướng mênh mông

Anh thức luôn cùng Bác”

Câu trả lời của Bác đã khiến cho anh đội viên xúc động và thấm thía tấm lòng nhân ái mênh mông của vị Cha già dân tộc. Được chứng kiến những hành động và lời nói biểu hiện tình thương và đạo đức cao cả của Bác Hồ, anh chiến sĩ thấy trong tâm hồn mình tràn ngập một niềm hạnh phúc. Bác đã khơi dậy tình đồng đội, tình giai cấp đẹp đẽ, cao quý. Khi đã hiểu rõ tâm trạng của Bác thì người chiến sĩ: Lòng vui sướng mênh mông, Anh thức luôn cùng Bác.

“Đêm nay Bác ngồi đó

Đêm nay Bác không ngủ

Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh”

Riêng ở đoạn cuối, chúng ta thấy có sự hòa hợp khéo léo giữa suy nghĩ của nhà thơ và tâm trạng người chiến sĩ.Nhà thơ đã đặt mình vào vị trí nhân vật anh đội viên để cảm nhận, suy nghĩ về Bác. Chính vì vậy nên cảm xúc của nhà thơ đạt tới mức chân thành và sâu sắc. Bài thơ thể hiện tình cảm chung của bộ đội và nhân dân ta đối với Bác Hồ. Đồng thời là lòng tin yêu, biết ơn sâu sắc và tự hào về vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại mà bình dị.

Tình cảm của tác giả được bộc lộ dàn trải suốt bài thơ. Đêm nay không ngủ được miêu tả trong bài thơ chỉ là một trong vô vàn những đêm không ngủ của Bác. Cuộc đời Người đã dành trọn vẹn cho nhân dân, Tổ quốc. Chúng ta nguyện sống, học tập và làm việc sao cho xứng đáng với Bác kính yêu.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 3

Hình tượng Bác Hồ- vị cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc vẫn luôn sống mãi trong trái tim hàng triệu con người Việt Nam. Vì thế, có những vần thơ, những con chữ đã được cất lên nhằm thể hiện niềm cảm phục, lòng biết ơn trước tấm gương vĩ đại đó, trong đó bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” là tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng thể thơ năm chữ cùng ngôn từ đơn giản, tác giả Minh Huệ đã phác họa nên chân dung của Người hết sức gần gũi, thân quen với tất cả niềm cảm phục.

Mặc dù Bác luôn dành được sự tôn trọng tuyệt đối từ nhân dân nhưng Người không bao giờ tự tạo cho mình một cuộc sống riêng tư mà luôn hòa mình vào cuộc sống của nhân dân lao khổ và những người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với lưỡi hái tử thần. Giữa đêm khuya, dưới ánh lửa bập bùng, hình ảnh Người hiện lên rất đỗi bình dị, thân quen:

“Lặng yên bên bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm

Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều tranh xơ xác”

Chân dung Bác đã được phác họa dưới đôi mắt của một người chiến sĩ. Bác hiện lên với sự “lặng lẽ”, “trầm ngâm” mặc cho mưa gió giá rét ở ngoài kia. Người đã sưởi ấm trái tim người chiến sĩ không chỉ bằng sự lắng lo, thao thức mà còn bằng những hành động cụ thể:

“Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một

Sợ cháu mình giật thột

Bác rón chân nhẹ nhàng”

Với cương vị là một vị lãnh đạo nhưng Bác vẫn luôn đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh cùng những người chiến sĩ. Vì thế Người luôn thấu hiểu những khó khăn, gian khổ lẫn hiểm nguy mà họ đã trải qua và dành cho những người chiến sĩ những tình cảm cùng sự quan tâm, săn sóc đặc biệt, thể hiện ngay ở những hành động nhỏ nhất như “đi dém chăn” cho từng người bằng bước chân nhẹ nhàng. Những cử chỉ ân cần quan tâm đó đã khiến anh đội viên cảm thấy ấm áp:

“Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng”

Và khi thức dậy lần thứ ba, anh đội viên vẫn thấy Bác thao thức không ngủ. Sự thao thức đó xuất phát từ tấm lòng của một vị lãnh tụ yêu nước thương dân, dành tình thương bao la, vĩ đại của mình cho mọi chúng sinh:

“Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau”

Sự quan tâm, chăm sóc của Bác không chỉ thể hiện ở hành động quan tâm những người chiến sĩ đang yên giấc bên cạnh Người mà tấm lòng của Bác vẫn đau đáu khi nghĩ đến lực lượng dân công đang chống chọi với thời tiết giá lạnh, mưa gió nơi rừng thiêng nước độc. Bức chân dung của Bác hiện lên dưới ngòi bút của nhà thơ Minh Huệ thật giản dị, gần gũi nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Hình ảnh Bác trăn trở không nguôi giữa đêm khuya bên ánh lửa hồng đã gợi nhắc đến hai câu thơ trong bài thơ “Cảnh khuya”:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

(“Cảnh khuya”- Hồ Chí Minh)

Như vậy, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người vẫn lắng lo cho vận mệnh của dân tộc, thấu hiểu những gian khổ của nhân dân cùng những hiểm nguy mà người chiến sĩ phải đối mặt. Chính tấm lòng giàu lòng nhân ái đó đã khiến cho anh đội viên cảm thấy ấm áp, cảm phục:

“Đêm nay Bác không ngủ

Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh”

Những câu thơ vang lên như lời đúc kết mang tính chân lí về con người, về nhân cách của Bác. Việc Bác không ngủ đã trở thành một lẽ thường tình. Trong cuộc đời làm cách mạng nhiều sóng gió, Bác đã từng trải qua nhiều đêm không ngủ như thế nhưng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân và lo lắng cho vận mệnh dân tộc, cho thây sự hi sinh thầm lặng của Người.

Như vậy, bằng thể thơ năm chữ, cách gieo vần phù hợp với lối tự sự, kết hợp hài hòa giữa miêu tả, kể và biểu cảm, tác phẩm “Đêm nay Bác không ngủ” đã vẽ nên bức chân dung ngời sáng của Bác với tình yêu thương bao la rộng lớn. Đồng thời thể hiện sự cảm phục, tình cảm yêu mến của người chiến sĩ đối với vị lãnh tụ.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 4

Minh Huệ với bài thơ Đêm nay Bác không ngủ là hiện tượng thi sĩ bất tử với một giai phẩm văn chương. Độc đáo bởi vì một nhà thơ xứ Nghệ, sử dụng làn điệu dân ca hát dặm Nghệ Tĩnh đã ca ngợi tình thương người mênh mông của một người con vĩ đại của xứ Nghệ – Bác Hồ kính yêu.

Bài thơ gần như một truyện cổ tích vừa thực vừa mộng dẫn hồn ta vào một không khí lung linh huyền thoại: một ông tiên với chòm râu im phăng phắc, bỗng cao lung linh trước ngọn lửa hồng chập chờn giữa rừng khuya. Một đêm đông lạnh lẽo mưa lâm thâm thời chiến tranh, loạn lạc. Xung quanh đống lửa là những chiến binh trẻ (tiên đồng) đang nằm ngủ. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ấy đã góp phần đặc sắc tạo nên sắc điệu ngữ trữ tình thẩm mỹ của bài thơ Đêm nay Bác không ngủ.

Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ kể, ngôn ngữ tả, ngôn ngữ nhân vật, và bình luận trữ tình hòa quyện trong những vần thơ năm chữ dung dị, lắng đọng, liền mạch, mến thương.

Hình ảnh Bác Hồ được khắc họa rất đậm nét qua tâm hồn anh đội viên. Mối quan hệ giữa lãnh tụ với chiến sĩ trở thành tình bác – cháu, cha – con. Tố Hữu từng viết: Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ (Sáng tháng Năm), ở đây Minh Huệ đã cảm nhận được:

Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm

Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một

Sợ cháu mình giật thột.

Bác nhón chân nhẹ nhàng…

Việc làm đốt lửa, hành động đi dém chăn, cử chỉ nhón chân nhẹ nhàng – đã thể hiện sự chăm chút yêu thương của Người Cha mái tóc bạc đối với từng người lính như tình cha – con, tình ông – cháu. Chú đội viên mơ màng trong khoảnh khắc hạnh phúc thần tiên. Chất thơ vừa thực vừa mơ đầy ấn tượng:

Anh đội viên mơ màng

Như nằm trong giấc mộng.

Ngoài trời thì mưa lâm thâm lạnh lẽo. Trong mái lều xơ xác, suốt đêm “lặng yên bên bếp lửa” với vẻ mặt Bác “trầm ngâm”. Bác vẫn ngồi… Bác vẫn không ngủ, Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ… (Tố Hữu). Bác vĩ đại và ấm áp biết bao! Một so sánh rất đẹp, rất thơ đã ca ngợi tình nhân ái của vị lãnh tụ kính yêu Hồ Chí Minh:

Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng.

Tình huống thơ được đẩy tới cao trào. Chế Lan Viên trong Người đi tìm hình của nước từng viết: Hiểu sao hết tấm lòng lãnh tụ. Anh đội viên cũng vậy, anh chưa hiểu vì sao đêm nay Bác trầm ngâm thao thức. Nghe Bác nói, anh đội viên vui sướng mênh mông. Tình nhân ái của lãnh tụ đã soi sáng tâm hồn người lính trẻ:

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt!

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau….

Trong bài thơ Đêm nay Bác không ngủ, Minh Huệ đã sáng tạo nên một số chi tiết nghệ thuật rất cụ thể và điển hình về mái tóc, chòm râu, ngọn lửa, bóng Bác, vẻ mặt trầm ngâm, về hành động, cử chỉ (đốt lửa, dém chăn, nhón chân…) nhằm tô đậm và ca ngợi tình thương bao la của Bác Hồ kính yêu. Chòm râu là một nét vẽ thân tình bức chân dung lãnh tụ gợi lên sự gần gũi, thân thiết mà cao cả, thiêng liêng:

Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc.

Bên cạnh hình ảnh Bác Hồ là hình ảnh anh đội viên, được nhà thơ thể hiện khá đẹp. Anh chợt thức giữa đêm khuya, và vô cùng ngạc nhiên suy nghĩ:

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ.

Thương Bác, anh khẽ nói: Bác ơi! Bác chưa ngủ? – Bác có lạnh lắm không?. Anh bồn chồn lo lắng: Anh nằm lo Bác ốm….

Cảm xúc của anh đội viên phát triển theo chiều dài của thời gian đêm khuya:

Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi…

Lần thứ ba thức dậy…

Người lính trẻ nằng nặc, thiết tha:

Mời Bác ngủ Bác ơi!

Trời sắp sáng mất rồi

Bác ơi! Mời Bác ngủ!

Nghe Bác nói về tình thương và nỗi lo, … anh đội viên vô cùng hạnh phúc vì đã thấm hiểu tấm lòng và sự vĩ đại của lãnh tụ:

Lòng vui sướng mênh mông

Anh thức luôn cùng Bác.

Qua hình ảnh anh đội viên, Minh Huệ đã thể hiện một cách chân thành cảm động lòng kính yêu của đồng bào và chiến sĩ đối với Hồ Chủ tịch vĩ đại.

Đêm nay Bác không ngủ mãi mãi là một bài ca làm rung động trái tim muôn triệu con người. Hai nhân vật, hai tâm hồn chung đúc, chan hòa trong một tình yêu lớn: “yêu nước, thương người”. Màu sắc dân ca kết hợp với không khí cổ tích thần kỳ làm nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảnh rừng đêm mưa lâm thâm, ngọn lửa hồng, mái tóc bạc, chòm râu im phăng phắc là bốn nét vẽ đầy ấn tượng về Bác Hồ và tấm lòng yêu nước, thương dân của Bác.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 5

Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ là một trong những bài thơ thành công nhất về Bác Hồ và đã trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ. Bài thơ được viết dựa trên những sự kiện có thực. Năm 1950, trong chiến dịch Biên giới, Bác Hồ đã trực tiếp ra mặt trận chỉ huy chiến đấu. Đầu năm 1951, Minh Huệ đang ở Nghệ An thì được một người bạn là bộ đội vừa từ Việt Bắc về kể cho nghe chuyện được gặp Bác Hồ.

Câu chuyện về một đêm không ngủ của Bác Hồ trên đường đi chiến dịch đã tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ, là nguồn thi hứng để Minh Huệ sáng tác nên bài thơ này.

Bài thơ thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác đối với bộ đội và nhân dân, đồng thời thể hiện tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ đối với lãnh tụ. Mối quan hệ gắn bó giữa lãnh tụ cách mạng và quần chúng cách mạng cũng được phản ánh rất thành công trong tác phẩm.

Trong thơ ca Việt Nam đã có nhiều bài thơ của nhiều tác giả viết về Bác Hồ với những cách thể hiện khác nhau. Bài thơ Đêm nay Bác không ngủ sử dụng thể thơ năm chữ thích hợp với lối kể chuyện kết hợp miêu tả. Đây là bài thơ tự sự trữ tình có nhiều chi tiết giản dị và cảm động được trình bày như một câu chuyện về người thật việc thật. Có hoàn cảnh, không gian, thời gian, địa điểm, có diễn biến sự việc, có cả lời đối thoại giữa hai nhân vật (anh đội viên và Bác Hồ).

Bài thơ có thể tóm tắt như sau:

Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, trên đường đi kiểm tra khâu chuẩn bị của chiến dịch Biên giới, Bác Hồ đến thăm một đơn vị chủ lực rồi nghỉ chân tại nơi đóng quân của bộ đội. Đêm khuya, trời mưa lâm thâm và rất lạnh. Anh đội viên thức dậy lần đầu, thấy Bác ngồi bên bếp lửa rồi đi dém chăn cho từng người, anh năn nỉ mời Bác đi ngủ. Lần thứ ba thức dậy, anh thấy Bác vẫn thức. Trời đã gần sáng, anh tâm tình với Bác và thức luôn cùng Bác.

Trong bài thơ có hai nhân vật: Bác Hồ và anh đội viên chiến sĩ. Hình tượng trung tâm là Bác Hồ được miêu tả qua cái nhìn và tâm trạng của người chiến sĩ, qua những lời đối thoại giữa hai người. Qua đó, bài thơ phản ánh tấm lòng yêu thương rộng lớn của Bác Hồ với đồng bào, chiến sĩ và thể hiện tình cảm kính yêu, khâm phục của bộ đội, nhân dân đối với Bác Hồ.

Hai khổ thơ đầu giới thiệu thời gian, không gian của câu chuyện, hình ảnh Bác Hồ và anh đội viên:

Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ.

Lặng yên nhìn bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm.

Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều tranh xơ xác.

Đêm khuya, trời mưa, gió lạnh… Anh đội viên đã ngủ được một giấc. Lần đầu thức dậy, thấy Bác vẫn ngồi bên bếp lửa, anh băn khoăn thắc mắc, ngạc nhiên vì trời đã khuya lắm rồi mà Bác vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa. Từ ngạc nhiên đến xúc động, anh hiểu rằng Bác vẫn lặng lẽ đốt lửa để sưởi ấm cho chiến sĩ. Anh kín đáo dõi theo diễn biến tâm trạng trên nét mặt và trong từng cử chỉ ân cần của Bác. Trong lòng anh dấy lên tình cảm yêu thương, kính trọng Người vô hạn:

Anh đội viên nhìn Bác

Càng nhìn lại càng thương

Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm

Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một .

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng

Bác đốt lửa sưởi ấm căn lều rồi đi dém chăn cho từng người. Bác coi trọng giấc ngủ của chiến sĩ nên nhón chân nhẹ nhàng. Bác ân cần chu đáo không khác gì bà mẹ hiền yêu thương, lo lắng cho đàn con. Hành động này đã thể hiện tình yêu thương và sự chăm sóc ân cần, tỉ mỉ của Bác Hồ với chiến sĩ.

Bác như người cha, người mẹ chăm lo cho giấc ngủ của những đứa con. Sự chăm sóc thật chu đáo, không sót một ai: Từng người, từng người một. Cử chỉ nhón chân nhẹ nhàng của Bác để không làm các chiến sĩ thức giấc là một chi tiết đặc sắc, thật giản dị mà xúc động, bộc lộ tấm lòng yêu thương sâu xa và sự tôn trọng, nâng niu của vị lãnh tụ đối với bộ đội.

Anh đội viền mơ màng

Như nằm trong giấc mộng

Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng.

Hình ảnh và cử chỉ của Bác trong đêm khiến anh đội viện không phân biệt được cảnh trước mắt mình là thực hay là mộng. Ngọn lửa bập bùng soi bóng Bác khi mờ khi tỏ. Tâm trạng anh ngạc nhiên và xúc động. Đang tỉnh mà anh nghĩ là mình đang mơ. Anh mơ màng thấy bên ánh lửa bập bùng, bóng Bác cao lồng lộng in trên vách nứa đơn sơ, vừa chập chờn hư ảo, vừa ấm áp yêu thương.

Bác như ông Bụt, ông Tiên xuất hiện giữa khung cảnh phảng phất không khí cổ tích (dưới mái lều tranh, trong đêm khuya, giữa rừng sâu). Từ Bác tỏa ra hơi ấm lạ kì: Ấm hơn ngọn lửa hồng. Đó là hơi ấm của tình thương bao la, nồng đượm, cao sâu hơn cả tình mẹ đối với con.

Thực và mộng đan cài vào nhau, tạo nên hình ảnh tuyệt đẹp về Bác. Lồng lộng bóng hình nhưng cũng là lồng lộng chiều rộng, chiều cao của tấm lòng Bác. Anh đội viên thấy mình như đang được nằm trong lòng Bác và anh sung sướng bồi hồi.

Càng bồi hồi anh càng lo lắng khi thấy đêm đã khuya rồi mà Bác vẫn chưa đi ngủ:

Thổn thức cả nỗi lòng

Thầm thì anh hỏi nhỏ:

Bác ơi Bác chưa ngủ

Bác có lạnh lắm không?

Xúc động cao độ, anh đội viên tha thiết mời Bác đi nghỉ. Nỗi lo Bác ốm cứ bề bộn trong lòng anh. Bác không trả lời câu hỏi của anh mà ân cần khuyên nhủ:

Chú cứ việc ngủ ngon

Ngày mai đi đánh giặc

Vâng lời anh nhắm mắt nhưng vẫn thấp thỏm không yên:

Không biết nói gì hơn

Anh nằm lo Bác ốm

Lòng anh cứ bề bộn

Vì Bác vẫn thức hoài

Chiến dịch hãy còn dài

Rừng lắm dốc lắm ụ

Đêm nay Bác không ngủ

Lấy sức đâu mà đi?

Nỗi lo lắng của anh thật thiết thực, bởi trong suy nghĩ của anh, Bác là linh hồn chiến dịch. Bài thơ không kể về lần thứ hai anh đội viên thức dậy, mà từ lần thứ nhất chuyển ngay sang lần thứ ba. Điều này cho thấy trong đêm, anh đã nhiều lần tỉnh giấc và lần nào cũng chứng kiến cảnh Bác Hồ không ngủ. Từ lần thứ nhất đến lần thứ ba, tâm trạng và cảm nghĩ của anh có sự biến đổi rõ rệt.

Lần đầu thức dậy, anh đội viên thấy Bác ngồi lặng yên bên bếp lửa, vẻ mặt Bác trầm ngâm như đang nghĩ ngợi chăm chú về một điều gì đó. … Lần thứ ba thức dậy, anh đội viên hốt hoảng giật mình khi thấy:

Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc.

Tư thế ấy biểu lộ Bác đang tập trung suy nghĩ cao độ. Anh lo lắng vì sợ Bác mệt, không tiếp tục được cuộc hành trình. Sự lo lắng ở anh đã thành hốt hoảng thực sự và nếu lần trước anh chỉ dám thầm thì hỏi nhỏ thì lần này anh năn nỉ mạnh dạn hơn, tha thiết hơn:

Anh vội vàng nằng nặc

Mời Bác ngủ Bác ơi

Trời sắp sáng mất rồi

Bác ơi! Mời Bác ngủ!

Cảm động trước nhiệt tình của người chiến sĩ, Bác thấy cần phải giải thích nguyên nhân mình không ngủ để cho anh yên tâm:

Bác thức thì mặc Bác

Bác ngủ không an lòng

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn.

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt!

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau.

Nếu như ở đoạn thơ trên, nguyên nhân Bác không ngủ chỉ nằm trong những phán đoán của anh chiến sĩ thì đến đoạn này, Bác đã giải thích rõ ràng: Bác không ngủ vì Bác lo cho bộ đội, dân công đang ngủ ngoài rừng. Tuy không thấy tận mắt, nhưng Bác cảm nhận rất cụ thể những gian lao vất vả của họ.

Câu trả lời của Bác đã khiến cho anh đội viên thêm hiểu và thấm thía tấm lòng nhân ái mênh mông của vị Cha già dân tộc. Bác lo cho bộ đội, dân công cũng chính là lo cho cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng của dân tộc nhằm giành lại chủ quyền độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình.

Được chứng kiến những hành động và lời nói biểu hiện tình thương và đạo đức cao cả của Bác Hồ, anh chiến sĩ thấy trong tâm hồn mình tràn ngập một niềm hạnh phúc.

Bác đã khơi dậy tình đồng đội, tình giai cấp đẹp đẽ, cao quý. Khi đã hiểu rõ tâm trạng của Bác thì người chiến sĩ: Lòng vui sướng mênh mông, Anh thức luôn cùng Bác. Bài thơ thể hiện tình cảm chung của bộ đội và nhân dân ta đối với Bác Hồ. Đó là niềm hạnh phúc được đón nhận tình yêu thương và sự chăm sóc ân cần của Bác Hồ. Đồng thời là lòng tin yêu, biết ơn sâu sắc và tự hào về vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại mà bình dị.

Tình cảm của tác giả được bộc lộ dàn trải suốt bài thơ. Riêng ở đoạn cuối, chúng ta thấy có sự hòa hợp khéo léo giữa suy nghĩ của nhà thơ và tâm trạng người chiến sĩ:

Đêm nay Bác ngồi đó

Đêm nay Bác không ngủ

Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh

Nhà thơ đặt mình vào vị trí nhân vật anh đội viên để cảm nhận, suy nghĩ về Bác – người Cha già thân thiết của quân đội và nhân dân Việt Nam. Chính vì vậy nên cảm xúc của nhà thơ đạt tới mức chân thành và sâu sắc. Đoạn thơ cuối khẳng định một chân lí đơn giản mà lớn lao: Bác không ngủ vì một lí do bình thường, dễ hiểu: Bác là Hồ Chí Minh. Nói đến Bác là nói đến tình thương và trách nhiệm rộng lớn, cao cả. Yêu nước, thương dân là đạo đức thuộc bản chất của Bác Hồ.

Đêm không ngủ được miêu tả trong bài thơ chỉ là một trong vô vàn những đêm không ngủ của Bác. Không ngủ vì lo việc nước và thương bộ đội, dân công là lẽ thường tình, vì Bác là Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ của dân tộc và người cha thân yêu của quân đội ta. Cuộc đời Người đã dành trọn vẹn cho nhân dân, Tổ quốc. Đó chính là lẽ sống nâng niu tất cả chỉ quên mình của Bác mà mọi người dân đều thấu hiểu và kính phục.

Đêm nay Bác không ngủ là một trong những bài thơ thành công về đề tài lãnh tụ. Thông qua sự việc bình thường, với lối diễn dạt giản dị, trong sáng, những chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm, tác giả giúp cho người đọc thấy được sự gắn bó chặt chẽ giữa Bác Hồ và đồng bào, chiến sĩ – đồng thời làm sáng tỏ phẩm chất cao đẹp của Người.

Suốt một đời Bác có ngủ yên đâu (Hải Như). Trước lúc ra đi, Bác còn để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân. Chúng ta nguyện sống, học tập và làm việc sao cho xứng đáng với Bác kính yêu.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 6

Bác Hồ của chúng ta không chỉ được biết đến là một nhà lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà Bác còn được biết đến như một thi nhân thi sĩ một danh nhân của thời đại. Bác đã để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Trong số đó có bài thơ “đêm nay Bác không ngủ”đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng khó quên. Bài thơ được sáng tác khi Bác hồ trực tiếp ra chiến trận để chỉ huy cuộc chiếnđấu. Bài thơ đọng lại trong lòng người đọc về vị lãnh tụ của dân tộc.

Câu chuyện được diễn biến trong một đêm lạnh,và được bắt đầu khi anh đội viên chợt thức giấc và thấy Bác đang còn thức. Bác vẫn thức để chăm lo cho giấc giủ của những người chiến sĩ,bác đốt lửa để giữ ấm cho họ. Anh đội viên chứng kiến vô cùng xúc động và cảm phục trước tình yêu thương của Bác dành cho các chiến sĩ.

Hình tượng Bác trong bài thơ này đều được nhìn nhận qua con mắt còn đang mơ mồ không rõ thực hay ảo của anh đội viên. Hình tượng của Bác hiện lên vừa cao vời vợi vĩ đại mà cũng hết sức gần gũi sưởi ấm lòng anh hơn ngọn lửa hồng.

” Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ.

Lặng yên nhìn bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm.

Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều tranh xơ xác”

Đây là lần đầu tiên anh đội viên thức giấc. Anh đã thức dậy sau một giấc ngủ dài,anh chợt nhìn thấy hình ảnh Bác vẫn còn ngồi đó vẫn trầm ngâm miệt mài suy nghĩ cho việc nước. Ngoài trời đã lạnh hơn rất nhiều nhưng bác vẫn không vào trong mà Bác vẫn ngồi đốt lửa cho các chiến sĩ bớt đi cái lạnh. Anh lặng lẽ đứng nhìn Bác lặng kẽ quan sát Bác từ nét mặt đến cử chỉ của Bác.

“Anh đội viên nhìn Bác

Càng nhìn lại càng thương

Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm

Rồi Bác đi dém chăn

Từng người từng người một.

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng”

Hình ảnh người cha già của dân tộc được hiện lên đầy xúc cảm khi Bác chăm sóc từng giấc ngủ của các chiến sĩ. Bác đi đắp lại chăn cho từng người từng người một rất ân cần mà cũng rất dịu dàng như một người mẹ mà cũng như một người cha đang chăm sóc từng giấc ngủ cho những đứa con của mình.

Anh đội viên cũng lại thiếp đi vào trong giấc ngủ anh chỉ còn mơ màng thấy hình ảnh Bác cao lộng ấm áp ru anh chìm vào giấc ngủ. Từ Bác tỏa ra một hơi thở một sự ấm áp đến kì lạ ấm hơn cả ngọn lửa hồng. Và lần thứ ba anh thức dậy anh giật mình khi Bác vẫn chưa ngủ.

“Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc. “

Tư thế ấy biểu lộ Bác đang tập trung suy nghĩ cao độ. Anh lo lắng vì sợ Bác mệt, không tiếp tục được cuộc hành trình. Sự lo lắng ở anh đã thành hốt hoảng thực sự và nếu lần trước anh chỉ dám thầm thì hỏi nhỏ thì lần này anh năn nỉ mạnh dạn hơn, tha thiết hơn:

“Anh vội vàng nằng nặc

Mời Bác ngủ Bác ơi

Trời sắp sáng mất rồi

Bác ơi! Mời Bác ngủ!”

Cảm động trước nhiệt tình của người chiến sĩ, Bác thấy cần phải giải thích nguyên nhân mình không ngủ để cho anh yên tâm:

“Bác thức thì mặc Bác

Bác ngủ không an lòng

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn.

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt!

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau. “

Nếu như ở đoạn thơ trên, nguyên nhân Bác không ngủ chỉ nằm trong những phán đoán của anh chiến sĩ thì đến đoạn này, Bác đã giải thích rõ ràng: Bác không ngủ vì Bác lo cho bộ đội, dân công đang ngủ ngoài rừng. Tuy không thấy tận mắt, nhưng Bác cảm nhận rất cụ thể những gian lao vất vả của họ.

Câu trả lời của Bác đã khiến cho anh đội viên thêm hiểu và thấm thía tấm lòng nhân ái mênh mông của vị Cha già dân tộc. Bác lo cho bộ đội, dân công cũng chính là lo cho cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng của dân tộc nhằm giành lại chủ quyền độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình. Một nỗi xúc động đột ngột dâng trào trong anh chiến sĩ khi anh hiểu được tấm lòng của Bác,khi đó anh chiến sĩ vô cùng vui sướng. Anh muốn chia sẻ nỗi niềm cùng Bác và đã thức luôn cùng Bác.

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha hiền hậu,Bác không chỉ lo cho những việc lớn mà con nghĩ đến từng miếng ăn giấc ngủ của tất cả các chiến sĩ và còn của tất cả mọi người dân.

Ở đoạn kết tác giả viết

“Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh”

Lẽ thường tình ấy đơn giản dễ hiểu mà sâu sắc. Vì tên người là Hồ Chí Minh. Vì người từng ra trận từng đồng cam cộng khổ đối với các chiến sĩ dân công. Ba chữ “lẽ thường tình”hiện ra trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng tốt đẹp về vị lãnh đạo kính yêu của dân tộc.

Bài thơ để lại rất nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là hình ảnh một vị lãnh tụ hiện lên là một người cha già của cả dân tộc. Hình ảnh Bác không ngủ chăm sóc từng giấc ngủ của mỗi người chiến sĩ để lại trong chúng ta rất nhiều ấn tượng mới mẻ về Bác. Bài thơ cho chúng ta hiểu thêm về Bác hiểu thêm về một vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 7

Văn học hiện đại Việt Nam có rất nhiều bài thơ viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Trong số đó, có bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ. Bài thơ được viết giữa năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt. Bằng những vần thơ sâu lắng, thiết tha, Minh Huệ đã khắc hoạ lại hình ảnh một vị lãnh tụ qua cách nhìn của người chiến sĩ giữa rừng sâu Việt Bắc, Bác Hồ cùng chiến sĩ ra trận, cùng trú quân dưới một túp lều tranh đơn sơ trong khu rừng già rét buốt.

Bài thơ đã làm dâng trào trong con tim bao người đọc một nỗi niềm xúc động. “Đêm nay Bác không ngủ”đã đọng lại trong em hình ảnh Người cha già kính yêu của dân tộc đang thổn thức giữa trời đêm lạnh giá. Bác lo cho việc nước, việc quân. Bác không ngần ngại hi sinh gian khổ để trực tiếp chỉ huy bộ đội đánh giặc. Bác trầm ngâm, đăm chiêu lặng lẽ…trong khi mọi người đang ngủ ngon. Bác xem những chiến sĩ như những đứa con thân yêu của mình.Trong bài, nhà thơ đã viết:

“Người cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm

Rồi Bác đi dém chăn

Từng người, từng người một.”

Bác nhóm lên ngọn lửa yêu thương từ con tim của mình để truyền hơi ấm cho con cháu. Điệp ngữ “từng người”đã thể hiện tình cảm bao la của Bác dành cho các chiến sĩ. Đối với ai Người cũng chia đều cho họ một tình cảm yêu thương ,đằm thắm, nhẹ nhàng mà cao cả. Làm cho mọi người cảm thấy hạnh phúc,ấm áp biết bao cho dù đang ở nơi rừng núi sâu thẳm lạnh buốt. Trong bài, Minh Huệ không tả cái lạnh ở rừng núi Việt Bắc mà chỉ viết rằng:

“Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều tranh xơ xác.”

Chỉ qua hai câu thơ, tác giả đã thể hiện được sự thiếu thốn về vật chất của những chiến sĩ và Bác Hồ ở chốn rừng sâu Việt Bắc. Giữa làn mưa phùn dai dẳng, mọi người cùng nhau dựng lên lán trại bằng tranh đơn sơ,dưới tán cây xanh thẳm. Tuy thiếu thốn về vật chất,nhưng các chiến sĩ lại được Bác thắp sáng ngọn lửa tâm hồn, Bác yêu thương, chăm sóc từng li từng tí cho mọi người, cho đất nước như người cha chăm sóc cho đàn con thân yêu của mình. Người cha ấy đã trằn trọc suốt đêm lo lắng cho chiến dịch đang còn dở dang:

“Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ.”

Đoạn thơ trên tuy mộc mạc,giản dị nhưng đã lột tả được tình cảm của Bác đối với dân tộc, với đất nước. Bác thức suốt đêm với bao nỗi niềm, với bao tình thương. Bác như bức tường thành vững chãi bảo vệ cho các chiến sĩ ở ngoài mặt trận vượt qua bao thử thách. Bác là người cha già của đất nước với bao nỗi lo toan sớm hôm, đáng nhẽ ra Bác phải là người đi ngủ sớm nhất để có sức lo cho chiến dịch còn cả đoạn đường dài nhưng “Không!”Người vẫn thức suốt đêm để giữ sự bình yên cho giấc ngủ của mọi người.

Sự “trầm ngâm trên nét mặt”, “lặng yên bên bếp lửa”đã thể hiện một tâm hồn đang nặng trĩu những nỗi lo âu. Tuy bề ngoài nhẹ nhàng,lặng lẽ nhưng trong thâm tâm Bác là cả một khối suy nghĩ khổng lồ, Bác luôn ôm cả trăm công ngàn việc và điều đó đã làm cho anh đội viên cảm động về tình cảm của Bác với non sông, với mọi người:

“Anh đội viên nhìn Bác

Càng nhìn lại càng thương

Người cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm”

Càng nhìn Bác, anh đội viên càng khám phá ở Bác bao điều kì diệu về một con người nguyện hi sinh trọn cuộc đời vì dân tộc. Ánh lửa rừng mà Bác nhóm nên đã sáng rực lên tấm lòng nhân ái bao la của Bác. Người đã chăm sóc cho các anh chiến sĩ như tình cha con ruột thịt. Ánh lửa Bác nhóm lên không đơn giản chỉ là ánh lửa rừng mà còn là ánh lửa của lòng yêu nước từ tận đáy lòng, tình thương nồng ấm dành cho các anh chiến sĩ giữa màn đêm lạnh giá.

Người đã truyền thêm sức mạnh cho con dân nước Việt Nam để đưa chiến dịch đi đến thành công. Chính sự chăm chút của Bác đã làm cho anh đội viên mơ màng trong giây phút thần tiên,cảm xúc dâng lên dạt dào trong lòng, anh cảm thấy hình ảnh Bác như kì vĩ hẳn lên:

Bóng Bác cao lồng lộng

Ấm hơn ngọn lửa hồng.

Bằng biện pháp tu từ so sánh,tác giả đã thể hiện hình ảnh lớn lao của Bác Hồ trong mắt anh chiến sĩ và trong mắt mỗi người dân Việt Nam.Bác như một ông tiên trong những câu chuyện cổ tích,ông tiên to lớn,vĩ đại, bóng hình ông “lồng lộng”,ông tiên đã đem ánh lửa soi sáng mọi nẻo đường trên khắp dải đất hình chữ S.

Bác đã mang phép màu đến cho nước Việt,đưa cả dân tộc đến bến bờ thành công.Tình cảm của người cha dành cho những đứa con của mình thật lớn lao và sâu nặng. Lần thứ ba thức dậy,anh đội viên hoảng hốt khi thấy Bác vẫn còn ngồi đó:

Lần thứ ba thức dậy

Anh hoảng hốt giật mình

Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc

Lần thứ ba anh đội viên thức dậy,đã sau mấy giờ đồng hồ mà Bác vẫn còn ngồi đó với bao tâm tư.Chi tiết này đã thể hiện được sự quan tâm, lo lắng của anh chiến sĩ đối với Bác, đối với người cha của dân tộc. Cho dù nghe lời khuyên của Bác, anh chiến sĩ vẫn đi ngủ nhưng thỉnh thoảng lại tỉnh giấc. Anh không thể ngủ được khi người cha của mình vẫn còn ngồi lặng lẽ ở đó. Và từ lần đầu,anh chỉ mới thầm thì hỏi nhỏ, sang đến lần thứ ba anh đã hoảng hốt nằng nặc mời Bác ngủ:

-Mời Bác ngủ Bác ơi!

Trời sắp sáng mất rồi

Bác ơi! mời Bác ngủ!

Đoạn thơ trên đã đảo trật tự ngôn từ,lặp cụm từ: “Mời Bác ngủ, Bác ơi” diễn tả tăng dần sự bồn chồn, lo lắng cho sức khỏe Bác Hồ của anh chiến sĩ.Mặc dù đã ba lần anh đội viên tha thiết mời Bác ngủ nhưng Người vẫn cứ thức,Người còn động viên anh chiến sĩ :

Chú cứ việc ngủ ngon

Ngày mai đi đánh giặc

Bác thức thì mặc Bác

Bác ngủ không an lòng

Bằng cách trả lời dứt khoát mà giản dị, mộc mạc, Bác đã động viên anh chiến sĩ đi ngủ để ngày mai đánh giặc. Còn Bác, Bác thức để lo cho non sông, đất nước, Bác ngủ không an lòng vì trong lòng còn bao nỗi lo âu. Cả một khối công việc đang chất đầy trong bộ não của Bác. Và để cho anh đội viên khỏi phải băn khoăn,muốn cho anh an lòng đi ngủ, Bác đã giải thích:

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt!

Một nỗi xúc động đột ngột dâng trào trong anh chiến sĩ. Hiểu được tấm lòng của Bác,anh chiến sĩ vô cùng vui sướng. Anh muốn chia sẻ niềm lo toan với Bác và đã thức luôn cùng Bác. Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, một người cha hiền hậu, Bác không chỉ lo những việc lớn mà còn nghĩ đến từng miếng ăn, giấc ngủ của người dân.Hình ảnh “Anh đội viên nhìn Bác, Bác nhìn ngọn lửa hồng” thật đẹp mà cao quý.

Đó là cái đẹp của tình cảm cha con chân thành, cái đẹp của ánh lửa Bác nhóm lên trong lòng anh chiến sĩ và tất cả người dân Việt Nam. Ở đoạn kết,Minh Huệ đã viết :

Vì một lẽ thường tình

Bác là Hồ Chí Minh

Lẽ thường tình ấy đơn giản, dễ hiểu mà sâu sắc. Vì tên Người là Hồ Chí Minh.Vì người đã từng ra trận, đồng cam cộng khổ với các chiến sĩ, dân công. Ba chữ “Lẽ thường tình” hiện ra trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng tốt đẹp về vị lãnh tụ kính yêu. Đêm nay không phải là đêm duy nhất Bác không ngủ, Bác đã thức rất nhiều đêm để suy nghĩ, tìm đường cứu nước. Ôi! Bác thật là một con người vì nước quên thân,đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta

Thương cuộc đời chung,thương cỏ hoa.

Chỉ biết quên mình cho hết thảy

Như dòng sông chảy nặng phù sa.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 8

Nhắc đến danh nhân văn hóa thế giới, chúng ta phải nhắc đến Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Bác Hồ là người có trình độ học vấn uyên thâm, uyên bác, có trí tuệ siêu việt của thế kỉ XX và để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử phát triển xã hội Việt Nam. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học viết về Bác, trong số đó có bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ để lại những ấn tượng sâu đậm về Bác Hồ trong lòng người đọc.

Bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” được tác giả sáng tác vào cuối năm 1950 dựa theo lời kể của một chiến sĩ tham gia chiến dịch Biên giới. Câu chuyện kể về một đêm không ngủ của Bác Hồ trong những tháng ngày trực tiếp chỉ huy tác chiến. Anh đội viên chính là người đã trông thấy Bác đang thức, Bác thức chăm lo cho giấc ngủ chiến sĩ, đốt lửa giữ ấm cho họ:

“Anh đội viên thức dậy…

Mái lều tranh xơ xác”

Hình tượng Bác hiện lên thật vĩ đại, cao đẹp vời vợi nhưng lại hết sức gần gũi, ấm áp như ngọn lửa hồng. Trong khi mọi người đã ngủ say một giấc dài, Bác vẫn ngồi đó trầm ngâm miệt mài với những suy nghĩ về chiến dịch, mặc cho trời lạnh Bác vẫn ngồi ngoài đốt lửa cho các chiến sĩ thêm ấm. Anh đội viên lặng lẽ nhìn Bác từ cử chỉ đến nét mặt:

“Anh đội viên nhìn Bác…

Bác nhón chân nhẹ nhàng”

Bác quả thực là một người cha già của dân tộc, một người cha đang chăm sóc giấc ngủ cho những đứa con chiến sĩ của mình. Bác nhẹ nhàng đi đắp chăn cho từng người rất ân cần, dịu dàng như bàn tay người mẹ, người cha dành cho đứa con thơ bé của mình. Bóng Bác nhìn sao mà thấy thương, vừa thương lại vừa cảm động và trân quý biết bao, nó tỏa ra một hơi ấm đến kì lạ và có khi còn ấm hơn cả ngọn lửa hồng kia. Lần thứ ba anh đội viên thức dậy vẫn thấy Bác chưa ngủ:

“Bác vẫn ngồi đinh ninh…

Bác ơi! Mời Bác ngủ!”

Bác vẫn thức và vẫn tập trung cao độ cho những suy nghĩ việc nước, anh đội viên lo lắng cho sức khỏe của Bác, lần này là sự thảng thốt khi đã gần hết đêm, anh không còn thầm thì mà đã mạnh dạn năn nỉ tha thiết mời Bác đi ngủ. Bác cảm nhận được lòng nhiệt tình của anh đội viên và Bác đã giải thích lí do Bác không thể ngủ:

“Bác thức thì mặc Bác…

Mong trời sáng mau mau”

Tấm lòng và tình yêu thương của Bác thật bao la, Bác không ngủ vì nỗi lo cho bộ đội, dân công đang phải ngủ ngoài đường, Bác cảm nhận rõ những gian khổ, thiếu thốn mà họ đang phải chịu và cũng lo cho cuộc kháng chiến giành độc lập tự do của nước nhà. Anh đội viên được thấu hiểu nỗi lòng Bác và chia sẻ nỗi niềm cùng Bác nên vô cùng xúc động, thức luôn cùng Bác.

Bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ đã khắc sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam một vị lãnh tụ vĩ đại với tấm lòng cao cả, tình yêu thương bao la. Chúng ta đã được cảm nhận và hiểu thêm về người cha già kính yêu của dân tộc với những giá trị sâu sắc.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 9

Bác Hồ vị cha già kính yêu của dân tộc, tấm lòng, sự vĩ đại của Bác luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao thế hệ tác giả. Viết về Bác ta không thể không nhắc đến tác phẩm Đêm nay Bác không ngủ của nhà thơ Minh Huệ. Tác phẩm đã vẽ lên chân dung của vị lãnh tụ vừa giản dị, gần gũi vừa vĩ đại, lớn lao.

Bài thơ chỉ là một câu chuyện nhỏ nhưng vô cùng xúc động về tấm lòng yêu thương vô bờ bến của Bác với đồng bào, với những người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu. Câu chuyện mở ra ở chiến khu vào một đêm đông giá rét khi Bác ở trong rừng sâu cùng các chiến sĩ. Qua lời kể của anh đội viên, ta thấy Bác hiện lên thật giản dị, đẹp đẽ.

Với cương vị là một nhà lãnh đạo, một vị lãnh tụ đáng lẽ Bác sẽ nhận được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt từ mọi người, được ngủ ở một nơi an toàn, ấm áp nhưng ngược lại, Bác hòa cùng nhịp sống với những người chiến sĩ. Anh đội viên vô cùng ngạc nhiên, khi thấy Bác tuổi đã cao nhưng vẫn sẵn sàng đi hành quân trong đêm mưa rét và ngay cả khi đêm đã về khuya bác vẫn chưa ngủ:

“Lặng yên bên bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm”

“Rồi Bác đi dém chăn

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng”

Bác ngồi trầm ngâm bên bếp lửa lo cho các anh bộ đội ngoài kia phải chống chọi với cái lạnh, với sự nguy hiểm, Bác lo cho chiến dịch, lo cho tương lai của đất nước. Những cử chỉ của Bác thật ân cần, ấm áp, cái nhón chân nhẹ nhàng khiến người ta liên tưởng Bác như người cha đang chăm lo cho những đứa con của mình. Bởi vậy mà anh thanh niên đã phải thốt lên: “Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng”.

Tình cảm yêu thương bao la của Bác còn ấm hơn ngọn lửa thực kia, nó có sức mạnh không chỉ sưởi ấm cơ thể mà còn có thể sưởi ấm cả tâm hồn, làm bừng lên tinh thần yêu nước của người chiến sĩ.Lần thứ ba thức dậy, anh giật mình vì vẫn thấy Bác đang ngồi “đinh ninh” , anh nằng nặc, tha thiết mời Bác ngủ. Giọng anh vô cùng chân thành, đó là lời nói sâu thẳm từ trong trái tim, thể hiện nỗi lo lắng cho sức khỏe của Bác.

Đáp lại anh, lời nói của Bác thật chân tình, ấm áp: Chú cứ việc ngủ ngon/ Ngày mai đi đánh giặc. Tình cảm yêu thương, quan tâm, lo lắng của Bác cũng được thể hiện trực tiếp qua lời nói: Bác thức thì mặc bác/ Bác ngủ không yên lòng/ Bác thương đoàn dân công/…Càng thương càng nóng ruột/ Mong trời sáng mau mau.

Trong cái giá lạnh của mùa đông, cái khó khăn của hiện thực Bác chẳng hề nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng, quan tâm, dành tất cả tình yêu thương cho dân, cho nước. Tấm lòng của Bác thật bao la, rộng lớn như trời biển. Trước tấm lòng của Bác, anh đội viên đã có một hành động thật tự nhiên, chân thành “anh thức luôn cùng Bác”.

Bài thơ viết bằng thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, gần gũi với lối hát dặm của Nghệ Tĩnh, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người đọc. Cùng với đó, tác giả sử dụng lớp ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ: so sánh (Bóng bác cao lồng lồng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng) ; biện pháp ẩn dụ (Người cha mái tóc bạc) . Lối kể chuyện theo trình tự thời gian hấp dẫn, diễn biến tự nhiên, hợp lí, tác giả đã khắc họa thành công chân dung vị cha già của dân tộc.

Bài văn phân tích bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ số 10

Bác Hồ vị cha già vĩ đại, vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc Việt Nam. Mỗi con dân Việt Nam đều có những hình dung khác nhau về Bác, nhưng đều thống nhất ở điểm: Bác là con người của sự hài hòa giữa cái giản dị và thanh cao, là người luôn lo cho dân, cho nước. Và trong bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của nhà thơ Minh Huệ Bác cũng hiện lên dung dị, đẹp đẽ và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Mở đầu bài thơ không phải chân dung hào nhoáng của một vị lãnh tụ, Bác hiện lên thật gần gũi, giản dị biết bao:

Lặng yên bên bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm

Hình ảnh Bác hiện lên trong một đêm mưa, giữa cái lạnh của núi rừng thật đẹp và đáng trân trọng. Đáng trân trọng hơn nữa, khi vị lãnh tụ ấy hòa mình vào nhịp sống chung của các chiến sĩ, cũng chịu biết bao rét mướt, khổ cực. Đó chính là vẻ đẹp nhân cách sáng ngời của Bác.

Không chỉ dừng lại ở đó, Bác còn là người chu đáo, ân cần khi sợ các cháu lạnh đã đi dém chăn từng người một, cẩn trọng và nhẹ nhàng để giấc ngủ của những chiến sĩ không bị gián đoạn. Ở đoạn này tác giả đã sử dụng vô cùng đắt giá hình ảnh so sánh: “Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng”.

Trái tim ấm áp, sự quan tâm của Bác đối với các chiến sĩ chính là ngọn lửa thiêng liêng bất diệt, xua tan cái lạnh giá của mùa đông. Đồng thời qua hình ảnh đó ta cũng thấy Bác chẳng khác nào một người cha đang đi chăm sóc những đứa con thân yêu của mình. Sự vĩ đại của Bác không ồn ào, khoa trương mà luôn lặng lẽ, âm thầm. Trái tim nhân hậu bao la, tình yêu thương Bác dành cho đồng bào cũng được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong một bài thơ khác:

“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
(Theo chân Bác – Tố Hữu)

Đoạn đối thoại trực tiếp giữa anh đội viên và Bác càng bộc lộ rõ hơn nữa những đức tính, tình cảm tốt đẹp ở Bác. Trước thái độ năn nỉ mong Bác đi ngủ của anh đội viên, Bác tâm sự đầy chân thành và xúc động: “Bác thức thì mặc bác/ Bác ngủ không yên lòng/ Bác thương đoàn dân công/…Càng thương càng nóng ruột/ Mong trời sáng mau mau” . Làm sao có thể ngủ được khi những chiến sĩ ngoài kia vẫn đang phải chịu khổ cực, gió rét.

Bác thương vô cùng những người chiến sĩ khi họ được trang bị vô cùng ít ỏi, thiếu thốn nhiều thứ, chỉ có lá cây thay chiếu để nằm, manh áo mỏng manh dùng để làm chăn, trong khi thời tiết ngày càng khắc nghiệt, những cơn mưa rả rích suốt đêm khiến cho cái lạnh càng trở nên giá buốt hơn. Bởi vậy, một người cha như Bác sao có thể yên lòng mà ngủ ngon khi những đứa con thương yêu của mình phải chịu cực khổ.

Tấm lòng, tình yêu thương bao la của Bác dành cho mọi người đã khiến anh đội viên vô cùng cảm phục, yêu mến, cũng bởi vậy mà “Anh thức luôn cùng Bác” , để chia sẻ nỗi lo toan, vất vả với Bác. Quá trình tiếp xúc, chứng kiến những hành động, việc làm, những lời tâm sự chân thật, đầy ấm áp của Bác đã đưa anh đội viên đi đến một nhận thức, một khái quát: “Đêm nay Bác ngồi đó/ Đêm nay Bác không ngủ/ Vì một lẽ thường tình/ Bác là Hồ Chí Minh”. Hai câu thơ cuối đã nói lên trọn vẹn tấm lòng bao la, tình yêu thương tha thiết mà cả cuộc đời này Bác dành cho dân tộc, cho đất nước.

Qua lời kể của anh đội viên với lớp ngôn ngữ giản dị, những hình ảnh so sánh đặc sắc (Bóng Bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng) , hoán dụ (Người cha mái tóc bạc/ Đốt lửa cho anh nằm); điệp ngữ (Đêm nay Bác không ngủ) ,… Ngoài ra, bài thơ như một câu chuyện, với sự sắp đặt các sự kiện một cách tinh tế, khéo léo, tác giả đã lần lượt mở ra vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách của Bác. Với sự kết hợp hài hòa của tất cả các yếu tố nghệ thuật trên, Minh Huệ đã dựng lên chân dung Bác Hồ vừa dung dị, đẹp đẽ vừa ngời sáng nhân cách.

Đọc những dòng thơ cuối cùng, gấp lại trang sách, hình ảnh của Bác hiện lên qua trang thơ thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp của bác là sự hòa quyện giữa cái bình thường và cái phi thường, giữa cái giản dị và thanh cao của nhân cách, của tấm lòng bao dung, vị tha, luôn yêu thương và quan tâm đến mọi người bằng cả trái tim chân thành và tin yêu.

Càng đọc bài thơ, chúng ta càng cảm phục và kính yêu vị cha già của dân tộc. Tấm lòng bao dung, nhân hậu và sự hi sinh cao cả của Người mãi mãi là tấm gương sáng cho lớp lớp người dân noi theo.

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu hay nhất

Bài thơ “Lượm” được Tố Hữu sáng tác năm 1949, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm bằng thể thơ bốn chữ giàu âm điệu. Người liên lạc nhỏ đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích “Lượm” của Tố Hữu để cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm này.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 1

Nhà thơ Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông thường tập trung miêu tả quần chúng lao khổ thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi. Và trong tập thể quần chúng ấy có không ít bài thơ là hình ảnh về các em bé hồn nhiên, trong sáng mà anh dũng kiên cường, Lượm là một trong những bài thơ như vậy.

Bài thơ là một câu chuyện ngắn về chú bé mang tên Lượm. Lượm làm công việc đưa thư, em là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng vô cùng dũng cảm, kiên cường. Trong một lần chuyển thư Lượm đã anh dũng hi sinh. Lượm là một hình ảnh đẹp để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.

Tác phẩm mở ra bằng cuộc gặp gỡ thật tình cờ giữa người chiến sĩ và chú bé liên lạc: “Tình cờ chú cháu/ Gặp nhau Hàng Bè” . Hình ảnh Lượm qua mắt người chiến sĩ hiện lên thật hồn nhiên, yêu đời từ ngoại hình cho đến cử chỉ dáng điệu. Để miêu tả ngoại hình của chú tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ láy giàu giá trị tạo hình: loắt choắt, chân thoăn thoắt, đầu nghênh nghênh, cùng đôi má đỏ bồ quân ửng hồng, cái mắt híp lại sau nụ cười rạng rỡ, tươi vui.

Trang phục của chú bé cũng hết sức đơn giản chỉ là “cái xắc xinh xinh” chuyên để đựng những văn kiện, giấy tờ quan trọng và chiếc “ca lô đội lệch” đầy tinh nghịch. Sự đáng yêu của em còn được thể hiện qua hình ảnh so sánh đẹp đẽ “Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng” , có lẽ không còn hình ảnh nào phù hợp hơn hình ảnh những chú chim chích bé nhỏ để ví von với chú bé Lượm hồn nhiên, yêu đời.

Một hình ảnh so sánh vừa chính xác, tinh tế nhưng đồng thời còn thể hiện được tình cảm yêu mến của tác giả đối em. Để nhấn mạnh hơn nữa vào nét ngây thơ của em, tác giả còn dẫn trực tiếp lời nói hết sức chân thật, đáng yêu: “Cháu đi liên lạc/ Vui lắm chú à/ Ở đồn Mang Cá/ Thích hơn ở nhà” .

Niềm vui, sự hân hoan của Lượm chính là niềm vui khi được hoạt động cách mạng, khi được cống hiến cho đất nước, đây cũng là niềm vui chung của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuộc gặp gỡ diễn ra hết sức ngắn ngủi, nhưng cho đã phần nào cho người đọc thấy những nét tính cách tốt đẹp của Lượm: vừa tinh nghịch, hồn nhiên nhưng cũng hết sức nhiệt huyết với cách mạng.

Giây phút hồi tưởng bỗng chùng xuống, khi nghe tin cháu đã hi sinh trên đường đi làm nhiệm vụ: Đến ngày tháng sáu/ Chợt nghe tin nhà. Câu thơ là nỗi niềm nghẹn ngào, bàng hoàng, chẳng thể nói nên lời của tác giả: Ra thế / Lượm ơi!…

Hình thức câu thơ vô cùng đặc biệt, được ngắt làm đôi, như tiếng nấc nghẹn của tác giả trước tin Lượm đã hi sinh khi trên đường đi làm nhiệm vụ.

Đồng thời câu thơ còn thể hiện sự bàng hoàng, không tin rằng Lượm hi sinh là sự thật. Sau phút nghẹn ngào, tác giả nói về quá trình làm việc và sự hi sinh anh dũng của chú bé. Hình ảnh của Lượm được khắc họa là một chú bé gan góc, kiên cường dũng cảm. Chú bé làm nhiệm vụ đưa thư, phải di chuyển qua những nơi vô cùng nguy hiểm và phải đối mặt với thần chết bất cứ lúc nào: “Vụt qua mặt trận/ Đạn bay vèo vèo/ Thư đề thượng khẩn/ Sợ chi hiểm nghèo?”.

Mặc dù luôn ý thức được sự nguy hiểm rình rập khi “đạn bay vèo vèo” xung quanh nhưng chú bé không hề sợ hãi vẫn “vụt qua mặt trận” bằng tinh thần dũng cảm, đầy trách nhiệm. Chú bé không bao giờ lùi bước trước những khó khăn, nguy hiểm.

Nỗi đau đớn càng được nhân lên gấp đôi khi tác giả tái hiện chân thực sự hi sinh của người đồng chí nhỏ: Bỗng lòe chớp đỏ/ Thôi rồi Lượm ơi!/ Chú đồng chí nhỏ/ Một dòng máu tươi!”. Trong một khổ thơ bốn câu tác giả đã sử dụng liên tiếp hai câu cảm thản, cho thấy sự ngỡ ngàng, đau đớn đến tột cùng khi Lượm đã hi sinh, câu thơ vang lên thật đau xót biết nhường nào: “Thôi rồi, Lượm ơi!”.

Làm sao có thể tin nổi, đứa bé hồn nhiên, tinh nghịch, người đồng chí giàu lòng dũng cảm và trách nhiệm ấy lại hi sinh khi còn quá nhỏ. Tác giả không tin rằng đó là sự thật, câu thơ buông xuống thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng. Lượm hi sinh, trở về với đất mẹ, tay em vẫn nắm chặt bông, phảng phất xung quanh là hương lúa, hương của đất mẹ, tuy em đã chết nhưng linh hồn, tinh thần yêu nước của em vẫn còn sống mãi với mọi người, với quê hương đất nước.

Hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ không buồn thảm, bi ai mà thay vào đó là hình ảnh em bé với sự hồn nhiên, tinh nghịch được tái hiện lại một lần nữa. Dù em có hi sinh nhưng tinh thần anh dũng, sự hồn nhiên đáng yêu của em sẽ mãi được mọi người nhớ đến, em sẽ sống mãi với non sông, đất nước.

Tác phẩm sử dụng thể thơ bốn chữ, dùng linh hoạt các từ láy giàu giá trị tạo hình, giàu tính nhạc, ngôn ngữ miêu tả phù hợp tính cách, ngoại hình của nhân vật. Không chỉ vậy sử dụng những hình thức câu thơ đặc biệt đã giúp tác giả biểu lộ một cách chân thật những cung bậc cảm xúc khác nhau trước nhân vật trữ tình.

Ngoài ra cũng cần đặc biệt lưu ý đến việc tác giả thay đổi cách xưng hô với nhân vật trữ tình trong các khổ thơ: chú bé, cháu, Lượm, chú đồng chí nhỏ bởi quan hệ giữa họ vừa là quan hệ chú cháu, vừa là một người đồng chí. Sau cái chết của Lượm, tác giả đã gọi là “chú bé” bởi lúc này Lượm và tác giả không chỉ nằm trong mối quan hệ riêng giữa hai người, mà Lượm đã trở thành người cháu chung của nhân dân Việt Nam, một người trẻ dũng cảm.

Sự thay đổi linh hoạt các đại từ xưng hô như vậy khiến Tố Hữu thể hiện được đa dạng các cung bậc cảm xúc. Tất cả những yếu tố trên cùng với nội dung đã tạo nên thành công cho tác phẩm.

Với sự kết hợp hài hòa về nhịp điệu, ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, Tố Hữu đã xây dựng thành công chân dung của chú bé Lượm hồn nhiên, nhí nhảnh mà vô cùng kiên cường, anh dũng. Qua đó tác giả thể hiện niềm yêu quý, cũng như sự xót xa trước sự hi sinh của Lượm.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 2

Tố Hữu đã xây dựng hình ảnh nhân vật Lượm thật đẹp. Đó là một chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, nhưng vô cùng dũng cảm trước bom đạn của kẻ thù. Vì lí tưởng chiến đấu để bảo vệ đất nước, Lượm đã vượt qua hết những làn bom, bão đạn để góp sức của mình cho công cuộc cứu nước của toàn dân.

Hình tượng nhân vật Lượm, xuất hiện khiến người đọc hình dung như một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói.

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh”

Qua miêu tả của tác giả, ta nhận thấy nét hồn nhiên vui tươi trong con người của Lượm, đúng với độ tuổi của em. Nhưng điều bất bình thường ở đây là, em còn bé nhưng đã làm công việc phi thường mà những người lớn chưa chắc đã làm được. Lượm đã coi việc đi liên lạc nguy hiểm khó khăn kí như một chuyến đi chơi, thật vui và thích thú.

“- Cháu đi liên lạc

Vui lắm chú à

Ở đồn Mang Cá

Thích hơn ở nhà!”

Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước “con của vạn nhà” chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Lời thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ là sự giãi bày của Lượm, cách dẫn dắt như vậy cũng chính là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn mà biểu hiện cái háo hức bên trong không giấu được của mình”

“Cháu cười híp mí

Má đỏ bồ quân

– Thôi chào đồng chí!

Cháu đi xa dần…”

Lượm đã dùng từ đồng chí để nói với người đáng tuổi chú mình, vừa có ý nghĩa chứng tỏ Lượm cũng đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ cách mạng, và người đồng chí kia chỉ là bạn trong chiến đấu của mình, hai từ đồng chí nghe mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ.

Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.

Sự hồn nhiên nhí nhảnh, lòng dũng cảm kiên cường của em cũng không tránh khỏi bom đạn của kẻ thù. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở thành một tượng đài bất tử.

Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: “Ra thế – Lượm ơi!”. Một câu thơ tưởng như đơn giản vật thôi mà hội tủ đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nổi, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nổi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm.

Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. “Ra thế” thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn “Lượm ơi!” là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở?. “Ra thế” thuộc về khách quan, còn “Lượm ơi!” thuộc thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh “tin nhà” kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thế hình dung:

“Một hôm nào đó

Như bao hôm nào

Chú đồng chí nhỏ

Bỏ thư vào bao…”

Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm… bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:

“Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề “Thượng khẩn”

Sợ chi hiểm nghèo”.

Biết trước sự ra đi lúc này là rất nguy hiểm, nhưng Lượm vẫn vô tư, hiên ngang bất khuất trước bom đạn của kẻ thù. Lượm đã đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:

“Đường quê vắng vẻ

Lúa trổ đòng đòng

Ca lô chú bé

Nhấp nhô trên đồng.

Chính chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự tỏa ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh của nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây.

Bởi vậy. khi cái chết ập đến. câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: “Thôi rồi! Lượm ơi!” chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê, nửa tỉnh.

Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng thực sự đau xót “Một dòng máu tươi” lại không thể không tin. Chí có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.

Đoạn thơ thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặt biệt: “Lượm ơi, còn không”. Đó là lời gọi, lòng tiếc thương và khâm phục trước sự hi sinh của Lượm, Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn còn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ thơ kết lặp lại hai khổ thơ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.

Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỉ tuổi bằng thể thơ bốn chứ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai ) với độc thoại (đoạn ba).

Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như “Ra thế – lượm ơi!” hoặc “Lượm ơi, còn không?” là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình.

Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời. Về với nó như cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):

“Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng…”

Hình ảnh Lượm trong thơ Tố Hữu thật đáng tự hào. Lượm đã cho kẻ thù thấy được trong cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc, toàn thể dân tộc ta đều đứng lên chiến đấu, những người nhỏ tuổi cũng có thể góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thật đáng tự hào biết bao với những người con dũng cảm ấy. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong một xã hội hòa bình, xã hội mà cha ông ta đã đánh đổi bằng xương máu để có được chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với công lao đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 3

Bài thơ được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đây là nhưng giai đoạn cách mạng gặp nhiều khó khăn, vì tình yêu quê hương đất nước cậu đã xin theo người chú của mình để làm nhiệm vụ cao cả đó cho Tổ Quốc.

Với một vóc dáng nhỏ nhắn nhưng cậu bé rất linh hoạt rất nhanh, Với dáng đi, cử chỉ lời nói của mình đã được tác giả miêu tả một cách rất khái quát hình ảnh chú giao liên yêu đời ấy.

Chú bé loắt choắt,

Cái xắc xinh xinh,

Cái chân thoăn thoắt,

Cái đầu nghênh nghênh,

Ở độ tuổi mười, mười một đó là độ tuổi còn đi học còn trong vòng tay chăm sóc của gia đình nhưng cậu bé không vậy mà đã đảm nhiệm một công việc hết sức khó khăn nguy hiểm mà người lớn cũng không thể nào làm được. Và trong tư tưởng của cậu thì đi làm nhiệm vụ như một chiến đi chơi mà thôi. Với một bộ đồ của đội viên với đầy vết bẩn của bom đạn, bụi đường nhưng trong túi cậu lúc nào cũng đầy những thư từ của các chiến sĩ để liên lạc với nhau.

Đặc biệt cậu có một đôi mắt to tròn, khi cười đôi mắt của cậu híp lại càng thể hiện rõ sự yêu đời, hồn nhiên vo tư của cậu hơn. Cho thấy là một cậu bé yêu quê hương đất nước, khi thực hiện nhiệm vụ của mình cậu luôn là một người yêu đời yêu thiên nhiên.

– “Cháu đi liên lạc,

Vui lắm chú à.

Ở đồn Mang Cá,

Thích hơn ở nhà!”

Những thú vui thích được vui chơi đi đây đi đó tất cả được thể hiện qua những cuộc nói chuyện với chú. Dường như cậu chỉ muốn được đi qua rừng, qua sông suối chứ cậu không muốn được ngồi yên một chỗ. Chi tiết này cho ta thấy được cậu là một người rất ham chơi rất thích những cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Nhưng không vì ham chơi mà quên nhiệm vụ của mình đó là mang tin tức đến cho cách mạng.

Cháu cười híp mí,

Má đỏ bồ quân:

– “Thôi, chào đồng chí!”

Cháu đi xa dần…

Với những hình ảnh rất đẹp, tác giả đã khắc họa hình ảnh cậu thanh niên giao liên rất đẹp và đầy nhưng mơ ước. Sự hồn nhiên, vô tư trẻ thơ của em cũng không thể nào tránh khỏi sự tra tấn sự truy đuổi của kẻ thù. Không chỉ người lớn mà các em nhỏ cũng không thể nào tránh khỏi những ác liệt của chiến tranh.

Một hôm nào đó,

Như bao hôm nào,

Chú đồng chí nhỏ,

Bỏ thư vào bao,

Vụt qua mặt trận,

Ðạn bay vèo vèo,

Thư đề “Thượng khẩn”,

Sợ chi hiểm nghèo!

Dù sự truy đuổi của kẻ thù thế nào thì cậu bé vẫn không ngại nguy hiểm mà vẫn làm nhiệm vụ như bình thường. Biết là sự ra đi giao liền lần này dù gặp nhiều nguy hiểm nhưng cậu vẫn không ngại mà vẫn đi. Với sự hiên ngang bất khuất đó cậu đã đối diện với một cái chết vô cùng nghiệt ngã giữa một cánh đồng.

Cháu nằm trên lúa,

Tay nắm chặt bông,

Lúa thơm mùi sữa,

Hồn bay giữa đồng.

Cái chết của cậu bé đã được tác giả khái quát giữa một cánh đồng đầy mùi sữa cho thấy cậu bé còn trong độ tuổi vui chơi không được ra đi như vậy. Bên cạnh đó là sự ra đi bên thiên nhiên tâm hồn cậu đã hòa lẫn vào thiên nhiên. Nói lên hình ảnh cậu bé là tiếng thơm cho đời, là một tâm hồn trong sáng.

Lượm ơi, còn không? Câu thơ này thể hiện sự đau buồn luyến tiếc của tác giả dành cho cậu bé. Một cậu bé nhanh nhẹn, hồn nhiên vô tư đã cống hiến cho đời rất nhiều, đặc biệt là cách mạng của ta. Sự hi sinh của cậu đã là tiếng thơm cho đời.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng có lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như sau: “Bất kỳ đàn ông, đà bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.”

Thực hiện lời kêu gọi của Bác, bao lớp thanh niên đã xung phong lên đường chiến đấu cứu nước, bảo vệ quê hương. Em bé trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu cũng vậy, dũng cảm xông pha cống hiến tuổi trẻ cho tổ quốc này. Nhân vật chú bé Lượm ấy đã đọng lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.

Bài thơ “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu kể về một chú bé liên lạc dũng cảm trên mặt trận thời bấy giờ. Chú bé Lượm ấy là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, anh dũng chiến đấu chống lại thực dân Pháp, làm theo lời dạy của Bác Hồ. Hình ảnh chú bé Lượm hiện lên hồn nhiên, vui vẻ trong khung cảnh của cuộc gặp gỡ với người chú vệ quốc quân.

“Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về

Tình cờ chú cháu

Gặp nhau Hàng Bè”

Cuộc chiến năm 1945 đã giúp ta giành lại độc lập chủ quyền của dân tộc từ tay bọn phát xít Đức. Thế nhưng, không bao lâu sau thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược nước ta tại Huế. Nhân dân ta lại một lần nữa đứng lên chiến đấu vì tổ quốc trong đó có Lượm.

Chú cháu gặp nhau trong tình hình khốc liệt của trận chiến. Cuộc gặp gỡ sau bao lâu xa cách ấy cũng chỉ là tình cờ chứ không có một cái hẹn nào cho hai chú cháu. Hoàn cảnh đặc biệt ấy nhưng giọng thơ không có chút nào chững lại vì buồn tủi mà chỉ có lòng yêu nước đang cháy trong ngực trẻ của những người chiến sĩ trẻ.

Hoàn cảnh ấy đã góp phần khắc họa được phần nào tính cách của Lượm, phần nào tô đậm thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của chú bé ấy. Một cậu bé dù trong bom đạn nhưng vẫn mang những nét ngây thơ, hồn nhiên ở ngoại hình:

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng…”

“Chú bé loắt choắt” cái dáng người nhỏ bé nhanh nhẹn trên mọi nẻo đường không thể lẫn với một ai khác. Bên người mang theo cái xắc cũng nhỏ xinh như chính dáng vẻ của Lượm vậy. Đôi chân nhanh nhẹn, tâm hồn phơi phới niềm tin yêu.

Bằng việc sử dụng những từ láy “loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh” Tố Hữu đã lột tả được dáng vẻ ngây thơ, nghịch ngợm nhưng cũng rất đáng yêu của chú bé Lượm.

Tuy còn nhỏ nhưng Lượm cũng đã đảm nhiệm một nhiệm vụ vô cùng quan trọng là người liên lạc, vận chuyển thư, tin cấp báo cho các chiến sĩ chiến đấu ngoài chiến trận:

“Cháu đi liên lạc

Vui lắm chú à

Ở đồn Mang Cá

Thích hơn ở nhà”

Chiến đấu cho đất nước, ngày ngày đối diện với bom đạt đối với Lượm là niềm vui, công việc liên lạc ấy là niềm tự hào, là đam mê kiêu hãnh của một chú bé. Lượm luôn vui vẻ, hồn nhiên và hết sức dũng cảm. Một cậu bé coi sự sống và cái chết, coi mọi hiểm nguy không còn gì để phải sợ hãi.

Ngược lại, Lượm còn thích ở đồn hơn là ở nhà. Ở đồn nhận thông tin, rồi nhanh chóng chuyển tin cấp báo đến với mặt trận. Công việc ấy có lẽ hợp với tính cách hiếu động của một chú bé dũng cảm. Sự hồn nhiên, tinh nghịch của Lượm còn được tác giả miêu tả kỹ hơn bằng những từ ngữ có sức gợi hình tốt:

“Cháu cười híp mí

Má đỏ bồ quân

“Thôi, chài đồng chí!”

Cháu đi xa dần”

Cậu bé ấy giờ cũng đã trở thành đồng chí. Những con người có cùng chung lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc. Sau lần gặp gỡ tình cờ ấy:

“Cháu đi đường cháu

Chú lên đường ra

Đến nay tháng sáu

Chợt nghe tin nhà”

Cuộc gặp gỡ ngắ ngủi ấy có ngờ được đâu là cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai người chiến sĩ vệ quốc quân và chiến sĩ liên lạc. Đến hôm nay thì chợt nghe tin về Lượm từ quê nhà. Một chú bé liên lạc thế hồn nhiên, nhí nhảnh, dũng cảm thế nhưng lại hi sinh quá sớm cho tổ quốc này. Đau đớn quá, xót xa quá mà nhà thơ phải thốt lên:

“Ra thế, Lượm ơi” Câu thơ như nghẹn lại, như tiếng nấc xót xa cho Lượm. Trong tiếng nấc ấy, nhà thơ hình dung ra cảnh Lượm hi sinh vì bom đạn trong lúc làm nhiệm vụ:

“Một hôm nào đó

Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề thượng khẩn

Đạn bay vèo vèo”

Lượm nhận nhiệm vụ liên lạc cho quân ta trong một trận chiến đấu khốc liệt, để rồi:

“Bỗng lòe chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi!”

Tia chớp ấy đã cướp đi cuộc đời, cướp đi tuổi thơ của Lượm. Một cậu bé tuy tuổi còn nhỏ nhưng rất dũng cảm, băng qua bom đạn thực hiện nhiệm vụ liên lạc được giao. Rồi đau xót, nghẹn ngào quá khi bom đạn đã cướp đi cậu bé loắt choắt nhanh nhẹn ngày nào. “Thôi rồi, Lượm ơi!” tác giả thương tiếc, ngậm ngùi trước sự hi sinh của một chiến sĩ trẻ cho mảnh đất quê hương này. Cái chết của Lượm được Tố Hữu miêu tả thật giản dị nhưng chạm đến đáy lòng người đọc:

“Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng”

Lớn lên bên đồng lúa mát, cho đến khi hi sinh Lượm cũng nằm lại với đồng lúa đang thời trổ bông. Tay vẫn nắm chặt không buông những bông lúa gắn liền với tuổi thơ, những bông lúa nuôi sống quân và dân ta trong bao ngày chiến đấu. Hương lúa mát dịu như dòng sữa nuôi lớn cuộc đời mỗi người con Việt. Để hồn cậu bé liên lạc cứ quấn quýt nơi cánh đồng với bao chiến công này.

Sự hi sinh ấy đã là bất tử, Lượm tuy đã chết, nhưng trong lòng một người dân hình ảnh chú bé Lượm ngày nào vẫn còn sống mãi với những chiến công hào hùng.“Lượm ơi, còn không?” Câu hỏi tu từ nhưng bâng khuâng, luyến tiếc. Lượm đã mất, nhưng hình ảnh Lượm thì mãi sẽ là niềm tự hào, là tấm gương sáng trong lòng biết bao thế hệ của người dân Việt Nam.

Hai khổ thơ cuối tác giả nhắc lại nguyên vẹn hình ảnh của Lượm những ngày đầu đi làm liên lạc. Hình ảnh một chú bé với dáng vẻ hồn nhiên ngây thơ trên đường làm nhiệm vụ. Đối với Tố Hữu cũng như với nhiều người khác cũng luôn khắc sâu hình ảnh của Lượm tỏng tim mình. Lượm sẽ mãi sống cùng non sông, cùng đất nước này.

Bằng ngôn ngữ giản dị, chân thực nhưng được chọn lựa kỹ lưỡng. Nghệ thuật miêu tả độc đáo, khéo léo đã đem đến thành công cho Tố Hữu trong tác phẩm này. Qua bài thơ đã phác họa thành công hình ảnh chú bé liên lạc trong những ngày chiến đấu. Qua đó ta cũng thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân ta để dành lại độc lập chủ quyền cho đất nước.

Trong số những tác phẩm viết về thiếu nhi trong những ngày chiến đấu cứu nước thì “Lượm” là một bài thơ xuất sắc của Tố Hữu, tạo được tiếng vang lớn và có sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến nhân dân ta. Đồng thời cũng thể hiện được một tư tưởng xuyên suốt, thắng lợi trong những cuộc kháng chiến của toàn dân ta không chỉ có sự góp sức của những người tài giỏi khỏe mạnh mà còn có công lao của những thiếu niên dũng cảm như Lượm.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 5

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, toàn thể nhân dân Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết đấu tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Trong không khí đấu tranh sục sôi ấy, mọi tầng lớp nhân dân từ đàn ông, đàn bà, ngay cả những đứa trẻ chỉ mới mười bốn, mười lăm tuổi cũng tham gia vào công tác cách mạng. Hình ảnh của những chú bé liên lạc được nhà thơ Tố Hữu tái hiện một cách sống động trong bài thơ Lượm.

Bài thơ Lượm được tác giả Tố Hữu sáng tác năm 1949, đây là thời điểm mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay cấn, khốc liệt. Hình ảnh của những chú bé liên lạc đã gây xúc động mạnh mẽ đối với nhà thơ, và đây cũng chính là nguồn cảm hứng để Tố Hữu sáng tác bài thơ Lượm:

“Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về

Tình cờ chú cháu

Gặp nhau hàng bè”

Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh gặp gỡ của mình với chú bé liên lạc. Đó là ngày Huế bị Pháp tấn công gây ra những thiệt hại nặng nề, Tố Hữu đã về lại Hà Nội để làm công tác kháng chiến, và ở đây nhà thơ đã gặp chú bé liên lạc,địa điểm của cuộc gặp gỡ cũng được nhà thơ nêu cụ thể, đó chính là Hàng Bè. Ở những câu thơ tiếp theo, Tố Hữu đã miêu tả hình ảnh của chú bé liên lạc, đó là hình ảnh cậu bé hồn nhiên, nhanh nhẹn:

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh”

Ấn tượng đầu tiên của nhà thơ về cậu bé liên lạc, đó chính là cậu bé chừng mười bốn,mười lăm tuổi, có dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn “Chú bé loắt choắt”, sự nhanh nhẹn còn thể hiện trong hành động của đôi chân, lúc nào cũng thoăn thoắt, cái đầu nghênh nghênh. Ở độ tuổi của mình, chú bé toát lên vẻ ngây thơ, hồn nhiên, nghịch ngợm, thể hiện trong chiếc ca lô đội lệch, miệng hút sáo. Và trong cảm nhận của nhà thơ, cậu bé như một con chim nhỏ nhảy trên những cánh đồng vàng:

“Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng”

Không chỉ vậy, trong cuộc nói chuyện với tác giả, cậu bé còn nói về công việc liên lạc hết sức quan trọng mà cũng không kém phần hiểm nguy của mình. Tuy nhiên ở cậu bé lại toát lên sự hồn nhiên, lạc quan. Đưa tin liên lạc vô cùng nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có thể bị giặc bắt, cũng có thể bị trúng đạn. Nhưng cậu bé lại thấy công việc của mình rất vui. Đồn Mang Cá là cứ điểm của quân giặc, một nơi nguy hiểm và đầy bạo tàn nhưng trong cái nhìn của cậu bé thì lại vui hơn ở nhà :

“Cháu đi liên lạc

Vui lắm chú à

Ở đồn Mang Cá

Thích hơn ở nhà”

Chú bé cảm thấy vui với công việc của mình, cũng không sợ những hiểm nguy mà công việc mang lại, đây không phải vì cậu bé quá hồn nhiên, không biết công việc của mình nguy hiểm như nào mà bởi tinh thần dũng cảm, kiên cường hơn người của người đội viên nhí. Ở cậu bé còn có vẻ hóm hỉnh, hài hước, trước khi đi làm nhiệm vụ, cậu bé đã chào tác giả và gọi đồng chí đầy đáng yêu, hài hước:

“Cháu cười híp mí

Má đỏ bồ quân

Thôi, chào đồng chí

Cháu đi xa dần”

Tính chất công việc hiểm nguy, trong một lần đưa tin khẩn của Cách mạng, Lượm đã bị viên đạn vô tình, tàn nhẫn của quân giặc làm nhuộm đỏ chiếc áo em mặc. Tác giả Tố Hữu đã thể hiện sự bàng hoàng xen lẫn sự đau đớn tột độ trước sự ra đi của cậu bé Lượm.

“Bỗng lòe chớp đỏ

Thôi rồi! Lượm ơi

Chú đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi”

Bài thơ Lượm của Tố Hữu đã làm sáng lên hình ảnh của người anh hùng nhí tên Lượm, đó là một cậu bé liên lạc tuổi đời còn rất nhỏ nhưng tinh thần kiên cường, dũng cảm của em lại không thua kém một người lính cách mạng nào. Hình ảnh của em luôn hiện lên sự hồn nhiên, ngây thơ lạc quan yêu đời song cũng không kém phần xót xa, đau đớn.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 6

Thơ hay vì trong thơ có họa, có nhạc. Lượm của Tố Hữu là một bài thơ như thế trong đó phần đầu bài thơ có lẽ đặc sắc hơn cả vì đã tạo nên bức chân dung chân thật, sinh động của một em bé liên lạc thời đánh Pháp với dáng người bé nhỏ, nhưng nhanh nhẹn, tinh nghịch mà yêu đời, tuổi nhỏ mà chí cao, rất đáng yêu đáng mến.

Đọc đoạn thơ, ta tưởng như đang được ngắm nhìn bức chân dung người chiến sĩ nhỏ hơn nửa thế kỉ trước:

Ngày Huế đổ máu
… Cháu bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
… Cháu đi xa dần…

Khổ thơ đầu nhắc lại một kỉ niệm khó quên lần gặp gỡ cuối cùng của nhà thơ với chú đội viên liên lạc, giữa hai chú cháu trên thành phố Huế thân thương. Đó là những ngày Huế đổ máu, năm 1946, giặc đánh chiếm cố đô Huế, quê mẹ nhà thơ:

Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về,
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.

Đoạn thơ nhắc lại, gợi lại một con người, nơi phố cũ thành xưa, thời gian đã qua nay đã trở thành kỉ niệm, hoài niệm. Sau câu chữ, vần thơ là cảm xúc, là nỗi nhớ thương lắng đọng, rung động nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn.

Tám câu thơ tiếp theo là những nét vẽ đầy ấn tượng về Lượm, chú đội viên liên lạc. Thân hình quá nhỏ bé, gầy gò loắt choắt. Trang phục người lính là cái xắc xinh xinh. Chú rất nhanh nhẹn, hiếu động, đáng yêu. Đôi chân thì thoăn thoắt. Cái đầu thì nghênh nghênh.

Các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh có giá trị gợi tả đặc sắc, làm hiện lên hình ảnh chú đội viên rất nhỏ bé, nhưng nhanh nhẹn, hồn nhiên, thật đáng yêu. Các từ láy đặt cuối câu thơ, liên kết thành hai cặp vần cách (1 với 3, 2 với 4) tạo nên nhạc điệu, âm điệu, đọc lên nghe rất thú vị:

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.

Chữ cái được điệp lại 3 lần qua 3 nét vẽ: cái xắc, cái chân, cái đầu đã làm cho nét vẽ sắc và khoẻ, giọng thơ trở nên hóm hỉnh, yêu thương. Lượm ngây thơ và hồn nhiên, tinh nghịch và yêu đời. Dáng điệu và cử chỉ của chú thật đáng yêu biết bao: Ca lô đội lệch – mồm huýt sáo sang. Lượm khác nào con chim non cất tiếng hót rộn ràng, tung bay trong nắng mới, nhảy nhót trên đường vàng. Một so sánh thật đắt:

Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng

Con đường vàng một hình ảnh sáng giá tượng trưng cho con đường đầy nắng đẹp đi tới tương lai mà cách mạng đã đem đến cho thiếu nhi Việt Nam. Qua ngôn ngữ giàu hình tượng và biểu cảm, Tố Hữu dành cho chú đội viên nhiều trìu mến, trân trọng và yêu thương.

Những dòng thơ cuối đoạn, giọng điệu thơ thay đổi. Từ kể và miêu tả, Tố Hữu chuyển thành đối thoại. Cháu nói với chú niềm vinh dự lớn lao mà cháu được tham dự. Quê hương bị giặc chiếm đóng tàn phá, Lượm vui sướng được trở thành người chiến sĩ nhỏ cùng cha anh đánh giặc. Các từ ngữ như: Vui lắm, thích hơn đã biểu lộ một cách hồn nhiên tinh thần yêu nước và nhiệt tình kháng chiến của Lượm:

Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!

Quân đội đã trở thành đại gia đình của chú. Cuộc đời người đội viên liên lạc khác nào một cánh chim tung bay trong bão tố? Sao chẳng vui, chẳng thích, chẳng tự hào? Lượm là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp của tuổi nhỏ chí cao:

Tuổi nhỏ làm việc nhỏ
Tuỳ theo sức của mình
Đi tham gia kháng chiến
Để gìn giữ hòa bình.
(Thư trung thu – Hồ Chí Minh)

Nụ cười híp mí, và Má đỏ bồ quân là hai nét vẽ làm cho bức chân dung chú liên lạc thêm sinh động. Một tâm hồn trẻ trung, phơi phới hồn nhiên. Chú liên lạc đi xa dần sau một tiếng chào “đồng chí” nhiều thân thương:

Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…

Câu thơ Cháu đi xa dần như một dự báo: phút giã biệt ở phố Hàng Bè Ngày Huế đổ máu cũng là phút vĩnh biệt. Người chú chẳng bao giờ gặp lại người cháu thân thương ấy nữa!.

Đoạn thơ trên đây cũng như bài thơ Lượm là một thành công đặc sắc của Tố Hữu viết về gương anh hùng của thiếu nhi Việt Nam trong thời kháng chiến. Một dáng hình dễ mến, một tâm hồn trong sáng, phơi phới yêu đời thật đáng yêu. Với chú liên lạc, lòng yêu nước, nhiệt tình kháng chiến đã trở thành lý tưởng chiến đấu say mê!

Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ bốn chữ trong sáng, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh như một khúc đồng dao. Các từ láy tượng hình là những nét vẽ tinh tế nhất, biểu cảm nhất về chân dung người chiến sĩ nhỏ, một liệt sĩ anh hùng, được thể hiện trong thơ ca kháng chiến. Bài thơ Lượm là một tượng đài chiến sĩ thiếu nhi anh hùng.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 7

Đi lên từ bom đạn chiến tranh Việt Nam Tổ quốc chúng ta cho đến ngày hôm nay đã hoàn toàn được hưởng nền độc lập, nhân dân ta được sống trong khung cảnh hòa bình của chế độ xã hội chủ nghĩa công bằng. Và những điều tốt đẹp ngày hôm nay chúng ta được hưởng chính là nhờ máu xương của hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ anh hùng không tiếc hi sinh bản thân để tranh đấu, và chú bé Lượm chính là một trong những tấm gương anh hùng mà em rất ngưỡng mộ.

Theo lời tác giả, ông gặp Lượm tại thủ đô Hà Nội, hình ảnh cậu bé nhỏ nhắn hiện lên thật sinh động qua những dòng thơ ngắn gọn, súc tích:

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh”

Lượm cũng giống bao bao đứa trẻ khác, lại có nét gì đó rất giản dị, chân quê, thân hình nhỏ bé “loắt choắt”, cái “xắc” đựng vài cuốn sách, vở đeo chéo một bên người, trông thật nhí nhảnh, càng tăng thêm vẻ hoạt bát phù hợp với lứa tuổi. Tố Hữu thấy chân cậu “thoăn thoắt” lại thấy cái đầu cậu “nghênh nghênh”, tất cả đều nói lên một sự nhanh nhẹn hiếm có của một cậu bé đang tuổi ăn tuổi lớn, ở cậu hiện lên tất cả sự hồn nhiên, yêu đời tinh thần lạc quan, mà khi nhìn vào người ta bỗng cảm thấy vui vẻ theo.

“Ca nô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường làng”

Ở khổ thơ tiếp sự tươi tắn, hồn nhiên ấy lại tiếp tục được thể hiện bằng tiếng “huýt sáo” vang vọng cả con đường làng, cái chân vốn nhanh nhẹn tung tăng nhảy chân sáo trên con đường làng thân thuộc, hình ảnh dễ thương ấy khiến Tố Hữu liên tưởng đến hình ảnh của một “con chim chích” tuy nhỏ bé nhưng lại rất đáng yêu và nhanh nhẹn. Từ những chi tiết về ngoại hình có thể thấy Lượm là một cậu bé rất vô tư, trong sáng, mộc mạc như những đứa trẻ đồng trang lứa.

Nhưng ai có thể nghĩ rằng trong thân hình bé bỏng, những tưởng vô lo vô nghĩ ấy lại là một tâm hồn ẩn chứa tình yêu quê hương, đất nước tha thiết. Lượm chưa lớn, Lượm vẫn chưa thể cầm súng giết giặc vậy thì cậu làm liên lạc, một công việc tưởng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng và cần sự thông minh nhạy bén mà không phải ai cũng đủ dũng cảm để làm.

Lượm nói với Tố Hữu “Cháu làm liên lạc/Vui lắm chú à/Thích hơn ở nhà”, chứng minh cho tinh thần xung kích, lòng dũng cảm, không muốn làm một đứa trẻ chỉ quanh quẩn nơi xó nhà. Cậu tuy tuổi nhỏ nhưng lại mang trong mình một tâm hồn lớn, một trái tim lớn, nhận thức sâu sắc về sự nghiệp cách mạng của dân tộc mà tiền đề ấy là lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc.

Lượm tuy làm một công việc nguy hiểm và trọng yếu như thế nhưng cậu vẫn luôn tràn đầy lòng tự tin, nhiệt huyết ấy bừng sáng trên đôi má “đỏ bồ quân”, trong đôi mắt hồn nhiên với nụ cười “híp mí”, thật khiến người ta tự hào và vui mừng theo. Hình ảnh Lượm đi xa dần mang lại một niềm yêu thương, nỗi lòng dõi theo của Tố Hữu, cũng là niềm hy vọng về một Việt Nam độc lập ngày không xa.

Lượm là một trong những nhân vật anh hùng mà em rất yêu mến và ngưỡng mộ, bởi tinh thần dũng cảm và lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc, ý thức giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây xứng đáng là tấm gương sáng để lớp lớp các thế hệ trẻ em Việt Nam học tập và noi theo, xứng với niềm mong mỏi của gia đình và xã hội.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 8

Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu được ông khắc họa với hình ảnh chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, vô cùng dũng cảm trước kẻ thù. “ Lượm” đã vượt qua sự nguy hiểm của bom đạn, góp sức bảo vệ đất nước.

Những câu thơ đầu hiện lên với một chú bé tinh nghịch, đáng yêu đang tung tăng trên cả đoạn đường dài.

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh”

Nét hồn nhiên , vui tươi được tác giả Tố Hữu khắc họa vô cùng chân thực đúng như chính con người, độ tuổi của Lượm. Nhưng mặt khác những việc làm của chú bé “Lượm” ở cái tuổi hiếm có này, đôi khi một người lớn mạnh khỏe cũng chưa làm được. Và dường như Lượm coi công việc đi liên lạc nguy hiểm như một chuyến đi chơi thú vị:

Cháu đi liên lạc

Vui lắm chú à

Ở đồn Mang Cá

Thích hơn ở nhà!

Tinh thần dũng cảm , kiên cường hơn người của đội viên nhí. Ở cậu bé còn có vẻ hóm hỉnh hài hước khi đi làm nhiệm vụ, cậu bé đã chào tác giả và gọi đồng chí đáng yêu.

Cháu cười híp mí

Má đỏ bồ quân

Thôi, chào đồng chí

Cháu đi xa dần

Với những hình ảnh đẹp, tác giả khắc họa rõ hình ảnh cậu bé đẹp và đầy những mơ ước. Sự gan dạ của cậu bé cũng không tránh khỏi sự truy đuổi của kẻ thù- ác liệt của chiến tranh mang lại cho ta sự tàn khốc, phá hủy đi những ước mơ, hạnh phúc tự do.

Một hôm nào đó

Như bao hôm nào

Chú đồng chí nhỏ

Bỏ thư vào bao

Vụt qua mặt trận,

Đạn bay vèo vèo

Thư đề “thượng khẩn”

Sợ chi hiểm nghèo.

Dưới sự truy đuổi của kẻ thù, cậu bé vẫn không quản ngại khó khăn, nguy hiểm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Với sự gan dạ đó cậu vô tình trúng đạn, cái chết vô cùng nghiệt ngã giữa một cánh đồng.

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng

Cái chết của cậu bé được tác giả miêu tả giữa cánh đồng thơm mùi hoa sữa, một cậu bé ở độ tuổi còn biết nô đùa chạy nhảy mà giờ đã ra đi mãi mãi. Cậu bé nằm giữa đồng bàn tay vẫn nắm lấy từng bông lúa như thể hiện tình yêu quê hương, đất nước mãi không tách rời. Tâm hồn cậu hòa lẫn vào thiên nhiên, sự ra đi thanh thản của cậu là tiếng thơm cho đời- tâm hồn trong sáng.

Lượm ơi, còn không? Câu thơ là sự luyến tiếc, đau buồn của thời gian dành hết tình yêu thương cho cậu bé. Hình ảnh còn mãi với lòng người- một cậu bé nhanh nhẹn, cống hiến tuổi trẻ cho cách mạng dân tộc Việt Nam.

Lượm- hình ảnh khắc mãi trong tâm trí mỗi người dân tộc Việt Nam, dù tuổi còn rất nhỏ, nhưng cậu vẫn gan dạ kiên cường để mang lại những thông tin mật cho dân quân ta, ,một tấm gương sáng cho toàn dân, để lại tiếng thơm cho đời mãi mãi ngợi ca.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 9

Lượm là bài thơ tự sự xinh xắn, cảm động về một em thiếu nhi hi sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Tố Hữu làm bài này vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc.

Bài thơ có ba đoạn. Đoạn một kể về cuộc gặp gỡ với Lượm (5 khổ đầu). Đoạn hai kể về hoàn cảnh Lượm hi sinh (6 khổ giữa). Đoạn ba thể hiện lòng nhớ tiếc em Lượm (3 khổ cuối cùng). Chúng ta hãy tìm hiểu hình ảnh em Lượm qua bố cục bài thơ. Phần một là phần giới thiệu nhân vật. Một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa tác giả với chú bé Lượm giữa thành phố Huế, ngày kháng chiến ở Huế bắt đầu.

“Ngày Huế đổ náu” tức là ngày Huế bắt đầu kháng chiến. Từ ngày 20/12/1946 ta với quân Pháp đánh nhau to ở IIuế. Đến tháng 2/1947 thì mặt trận Huế vỡ, quân ta chuyển lên chiến khu, đánh du kích. Như vậy Lượm thuộc vào số các em bé đi làm liên lạc từ ngày đầu kháng chiến. Trong thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vai trò liên lạc do các anh chị giao liên đảm nhiệm, còn đầu thời kháng chiến chống thực dân Pháp, làm liên lạc là các em thiếu nhi. Năm 1948, Lê Đức Thọ có bài thơ dài Em liên lạc với những câu kết:

Ngày mai trên quãng đường trường,

Có em bé lại dẫn đường bên anh.

Miệng cười chân bước nhanh nhanh,

Như con chim nhỏ trên nhành vui tươi.

Điều thú vị là nhà thơ Tố Hữu cũng hình dung em Lượm liên lạc như một con chim non:

Chú bé loắt choắt,

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt,

Cái đầu nghênh nghênh.

Ca lô đội lệch,

Mồm huýt sáo vang.

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng.

Tố Hữu có ý thức miêu tả em Lượm thành một chú chim non. Từ “loắt choắt” chỉ vóc dáng quá mức nhỏ bé của Lượm. “Cái xắc xinh xinh” cũng nhỏ bé. Xắc là cái túi đeo (một từ du nhập từ tiếng Pháp – sac), cũng như ca lô (từ du nhập từ tiếng Pháp – calot – một thứ mũ vải mềm có ba góc dùng trong quân lính). Động tác nhảy nhót, nhanh nhẹn – “Cái chân thoăn thoắt”.

Ca lô đội lệch với cái đầu nghênh nghênh, lại thêm “mồm huýt sáo vang”, làm cho em bé càng giống con chim chích – một thứ chim bé nhỏ, nhanh nhẹn, như chích chòe. “Nhảy trên đường vàng” – con đường rực rỡ nắng vàng. Phải dùng hình ảnh con chim chích mới hình dung được vẻ đẹp hồn nhiên, trẻ thơ, đáng yêu của chú bé liên lạc. Từ nét chủ đạo là con chim, nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng:

Cháu đi liên lạc,

Vui lắm chú à.

Ở đồn Mang Cá,

Thích hơn ở nhà.

Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả một thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của bé Lượm. Đôi mắt em “cười híp mí”, là một nét cười say sưa, hai mắt như nhắm lại, ngoài Bắc gọi là “cười tít”. “Má đỏ bồ quân”, thêm một nét khỏe mạnh, rạng rỡ.

Tác giả còn “chào đồng chí” với đứa cháu bé bỏng, như nâng cháu lên tầm người lớn, tạo một không khí thân ái. Trẻ em nào mà không làm người lớn? Tác giả đã hoàn thành một bức chân dung em Lượm sống động, độc đáo với cái nhìn riêng đầy trìu mến của mình. Phần hai kể chuyện Lượm đi làm nhiệm vụ và hi sinh với khoảng cách chừng hai năm, đã xảy ra một mất mát đột ngột, đau đớn:

Đến nay tháng sáu

Chợt nghe tin nhà

Ra thế

Lượm ơi!…..

Tiếp theo là lời kể của người đưa tin về Lượm. Chú ý: nhà thơ gọi Lượm là “cháu”, người đưa tin gọi là “chú”.

Một hôm nào đó,

Như bao hôm nào.

Lượm đã nhiều chuyến đi liên lạc thành công, và đây là chuyến đi cuối cùng. Hoàn cảnh rất ác liệt. Lượm hành động dũng cảm với một ý thức rõ rệt:

Vụt qua mặt trận,

Đạn bay vèo vèo.

Thư đề “thượng khẩn”,

Sợ chi hiểm nghèo.

Nhưng Lượm vẫn là một chú bé ngây thơ, hồn nhiên. Trên cánh đồng vắng vẻ, hình như em vẫn nhảy nhót, tung tăng như chú chim non lúc bình thường:

Ca lô chú bé

Nhấp nhô trên đồng

Và cái chết đột ngột ập đến:

Bỗng lòe chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi!

Chú đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi!

Em hi sinh trong một tư thế rất bé bỏng và rất đáng yêu:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa…

Hai tay em níu lấy bông lúa đang thơm mùi sữa như níu lấy sự sống. Lượm chết mà như nằm trong lòng mẹ, trở về với lòng mẹ. Đó hoàn toàn không phải là một hình ảnh chết! Cái chết đã trả em về với tuổi thơ! Em đã sống như con chim, chết cũng như con chim: Hồn bay giữa đồng…

Lượm đã chết rồi, nhưng em bất tử. Một câu hỏi mơ hồ: “Lượm ơi, còn không?”, nhưng là để khẳng định em bất tử. Tác giả nhắc lại hầu nguyên hai khổ thơ ở đoạn đầu, nhưng có thay đổi một chút. Lần này nhà thơ không gọi Lượm bằng “chú bé”, bởi Lượm đâu phải chỉ là cháu của tác giả, mà đã là chú bé của quê hương như bao nhiêu chú bé khác đã anh dũng tham gia kháng chiến:

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt,

Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng…

Hình ảnh đọng lại cuối cùng vẫn là một chú chim non hồn nhiên, bé bỏng, bắt đầu nhảy nhót trên con đường vàng. Tư tưởng đọng lại cuối cùng là lòng thương tiếc vô hạn đối với chú chim non đã hi sinh cuộc đời non tơ cho kháng chiến thắng lợi.

Lượm là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương hi sinh dũng cảm trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 10

Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu in trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ được viết bằng thể thơ 4 chữ, yếu tố tự sự kết hợp với yếu tố trữ tình một cách hài hòa. Tác giả đã làm sống dậy trong tâm hồn tuổi thơ chúng ta hình ảnh một chú đội viên liên lạc trong kháng chiến chống Pháp: bé nhỏ, nhanh nhẹn, hồn nhiên và vô tư.

Mở đầu bài thơ, Tố Hữu nhắc lại một kỉ niệm trong những ngày đầu kháng chiến, “Ngày Huế đổ máu”. Phố Hàng Bè là nơi hai chú cháu gặp nhau lần cuối cùng. Khi ấy Lượm đã trở thành một người lính thực sự rất đáng yêu:

“Cháu bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch…”

Cái xắc đựng công văn giấy tờ, cái ca lô (mũ vải) là hai thứ quân trang mà Lượm đã có. Đôi chân và cái đầu chú đội viên thể hiện một con người nhanh nhẹn, hiếu động, hồn nhiên và tinh nghịch. Người đội viên liên lạc phải cần có “cái chân thoăn thoắt” ấy. Qua các từ láy tượng hình: “loắt choắt”, “xinh xinh”, “thoăn thoắt”, “nghênh nghênh”, Tố Hữu đã tạo nên những nét vẽ đẹp làm nổi bật cái thần bức chân dung tinh thần của chú Lượm.

Với Lượm, được đi chiến đấu là “vui”, là “thích”. Chú là một thiếu niên ”tuổi nhỏ chí cao”: “Cháu di liên lạc – Vui lắm chú à – Ớ đồn mang Cá – Thích hơn ở nhà!” Hầu như ai cũng yêu, cũng quý cái cười của chú liên lạc: “Cháu cười híp mí – Má đỏ bồ quân”. Lượm hồn nhiên, yêu đời. Lượm thật đáng yêu. Người đội viên liên lạc thành phố Huế anh hùng khác nào con chim chích bé nhỏ, hót ríu ran tung bay trong nắng đẹp; nắng hồng bình minh của bầu trời tự do và cách mạng. Em thích nhất hình ảnh này, câu thơ này:

“Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng”.

Phần hai bài thơ, tác giả nhắc lại chiến công của chú đội viên liên lạc với tất cả tấm lòng yêu thương, quý trọng, tự hào. Lượm xuất hiện trong một tình huống chiến đấu vô cùng ác liệt:

“Chú đồng chí nhỏ

Bỏ thư vào bao

Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo”.

Hai chữ “vụt qua”thể hiện quyết tâm chiến đấu, hành động nhanh nhẹn, quả cảm của người chiến sĩ, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhiệm vụ chiến đấu là trên hết, trước hết. Không hề chần chừ trước gian nguy, khi khói lửa mịt mù “đạn bay vèo vèo”:

“Thư đề thượng khẩn”

Sợ chi hiểm nghèo?”

Câu thơ “Sợ chi hiểm nghèo” đã nêu bật chí quả cảm của Lượm, của những Kim Đồng, Lê Văn Tám, Phạm Ngọc Đa, v.v… mà tuổi thơ chúng ta vô cùng ngưỡng mộ. Lượm đã anh dũng hi sinh. Chú ngã xuống giữa chiến trường trong tư thế người anh hùng tuổi thiếu niên. Trong vần thơ có lời than tiếc thương của Tố Hữu:

“Bỗng lòe chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi!

Chủ đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi!”

Các chữ: “nằm”, “nắm chặt”, “bay” vừa gợi tả lí tưởng chiến đấu cao đẹp vừa thể hiện sự hi sinh thanh thản của người anh hùng dám xả thân vì đất nước quê hương. Có đài tưởng niệm nào đẹp hơn vần thơ này:

“Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông”

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng”.

Phần cuối bài thơ, tác giả nhắc lại khổ thơ (thứ2, 3) đầu bài thơ, người ta gọi đó là kết cấu “vòng tròn” nhằm khẳng định và ca ngợi anh hùng liệt sĩ Lượm bất tử:

“Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

… Nhảy trên đường vàng”…

Có một sự thay đổi nhỏ: chữ “cháu” được thay bằng chữ “chú”. Lượm đã trở thành con người yêu quý của đất nước quê hương. “Lượm”là một bài thơ hay. Hình ảnh chú đội viên liên lạc hơn nửa thế kỉ trước vẫn chói ngời tâm hồn em.

Hi vọng bài viết trên hữu ích với độc giả trong việc tham khảo cách phân tích bài thơ – dạng văn mới mà lên lớp 6 các em được học. Chúc các em học tốt.

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa hay nhất

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa hay nhất

Trần Đăng Khoa có năng khiếu làm thơ từ rất sớm từ khi còn là học sinh tiểu học và được mệnh danh là thần đồng thơ Việt Nam với tập thơ đầu tay in năm 1968 khi tác giả mới mười tuổi. Bài thơ “Mưa” được nhà thơ sáng tác năm 1967 in trong tập “Góc sân và khoảng trời” đã miêu tả chính xác và sinh động cảnh vật thiên nhiên trước và trong cơn mưa rào ở làng quê. Qua đó, bài thơ thể hiện tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên một cách hồn nhiên, tinh tế, độc đáo của tác giả đồng thời nói lên tình yêu thiên nhiên, yêu làng quê tha thiết. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa mà phongnguyet.info tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 1

Sinh ra và lớn lên tại một làng quê thuộc huyện Nam Sách, năng khiếu thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở rất sớm. Nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời được tác giả viết khi còn học tiểu học. Bài thơ Mưa được chàng thi sĩ tí hon này viết năm lên 9 tuổi, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Từ lúc sắp mưa đến khi mưa rơi, cảnh bầu trời mặt đất từ sấm chớp mây mưa, từ cây cỏ đến những con vật như chó, gà con, lũ kiến,… đều được cảm nhận qua tâm hồn tuổi thơ rất hồn nhiên ngộ nghĩnh.

Bài thơ viết theo cách nói lối đồng dao, có 63 câu thơ rất ngắn, có 10 câu chỉ có 1 chữ, có 37 câu thơ 2 chữ. 6 câu thơ 3 chữ, 9 câu thơ 4 chữ, và chỉ có 1 câu thơ 5 chữ. Qua sự khảo sát ấy, ta thấy cách viết của Khoa rất tự nhiên, hồn nhiên, câu thơ nối tiếp xuất hiện theo cảm nhận và cảm xúc từ sắp mưa đến mưa rồi, và sau cùng là hình ảnh người bố của Khoa đi cày về trong cơn mưa dữ dội, tầm tã.

Mở đầu bài thơ như một tiếng reo của trẻ thơ cất lên: Sắp mưa / sắp mưa. Mẫn cảm nhất là loài mối bay ra để đón mưa. Tài thật, sao mà bé Khoa phân loại được, nhận diện được tuổi tác những con mối: Mối trẻ / Bay cao / Mối già / Bay thấp. Tiếp theo là bầy gà con Rối rít tìm nơi / ẩn nấp. Ông trời, cây mía, kiến, lá khô, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, chớp, sấm, cây dừa, ngọn mùng tơi… được chú bé nói tới, nhắc tới.

Tác giả sử dụng nhân hóa khá hay, tạo nên những liên tưởng thú vị, thể hiện sự tưởng tượng phong phú. Mây đen kéo phủ đầy trời, tưởng như Ông trời / mặc áo giáp đen / Ra trận. Lá mía dài, nhọn sắc. Gió thổi, lá mía xào xạc bay, khác nào Muôn nghìn cây mía / Múa gươm. Kiến chạy mưa, như vỡ tổ, nhà thơ tưởng như Kiến / Hành quân / Đầy đường.

Không khí hùng tráng của lịch sử dân tộc thời chống Mĩ đã phản chiếu vào thơ Khoa. Từ ông trời đến nghìn cây mía, đàn kiến, tất cả đều ra trận, đều múa gươm đều hành quân, tất cả đều tham gia vào cuộc diễu binh hùng vĩ (thơ của Tố Hữu). Cả một không gian rộng lớn chuyển động vì sắp mưa: Lá khô / Gió cuốn Bụi bay / Cuồn cuộn, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, cây dừa, ngọn mùng tơi – thế giới cây cỏ này được nhân hóa.

Cách nhận xét của chú bé 9 tuổi khá tinh tế, hóm hỉnh, cỏ gà rung tai nghe. Bụi tre Tần ngần – Gỡ tóc. Hàng bưởi trĩu quả, trong gió, như một người mẹ hiền đang đu đưa – bế lũ con – Đầu tròn – trọc lốc. Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Cây dừa Sải tay – Bế, ngọn mùng tơi nhảy múa.

Một không gian nghệ thuật, một thế giới tạo vật cựa quậy, sống động, chuyển động khi trời sắp mưa. Tất cả đều có linh hồn, có cảm giác, có hành động… được thể hiện qua các hình ảnh nhân hóa rất ngộ nghĩnh, đáng yêu. Sắp mưa, sấm chớp rung chuyển, rạch xé trời đất. Chớp rạch trời ngang trời… Sấm như một tên hề Ghé xuống sân – Khanh khách – Cười. Đó là cảm nhận vũ trụ của tuổi thơ.

Cảnh trời mưa được diễn tả bằng 14 câu thơ. Mưa rơi trong tiếng gió ù ù như xay lúa. Giọt mưa lộp bộp Lộp bộp rơi! Trong màn mưa, đất trời trở nên mù trắng nước. Và mưa chéo mặt sân sủi bọt. Bé Khoa đã dàn dựng một hoạt cảnh mưa có cóc, chó và cây lá thật hóm hỉnh:

Cóc nhảy lồm chồm

Chó sủa

Cây lá hả hê.

Mưa làm mát dịu trời đất mùa hè. Mưa làm cho cây lá xanh tươi, tốt tươi. Cây lá hả hê vui sướng đón cơn mưa. Ở đây mưa là nguồn gốc sự sống, mưa là niềm vui đợi chờ. Cuối bài thơ mới xuất hiện hình ảnh con người. Một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê xưa nay:

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Mọi thứ của vũ trụ như sấm chớp, mưa đều đội trên đầu bố em. Chữ đội được điệp lại 3 lần, không chỉ cực tả sự vất vả dãi nắng dầm mưa của bố em, của người dân cày Việt Nam xưa nay mà còn mang hàm nghĩa, người nông dân cày cấy trong bom đạn chiến tranh, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Sau vần thơ là lòng biết ơn, kính yêu của Khoa.

Mưa là một bài thơ hay. Thế giới thiên nhiên trong cơn mưa rào ở làng quê được cảm nhận và miêu tả tinh tế. Các câu thơ ngắn 1, 2, 3… chữ đan cài vào nhau, kết hợp với vần chân đã tạo nên nhạc điệu thơ, gợi tả tiếng mưa rơi, nghe rất vui. Phép nhân hóa và nghệ thuật sử dụng các từ láy (rối rít, cuồn cuộn, tần ngần, đu đưa, trọc lốc, khô khốc, khanh khách, ù ù, lộp bộp, chồm chồm, hả hê) đã tạo nên những vần thơ, những hình ảnh hồn nhiên, ngộ nghĩnh, thi vị. Mưa là một bài thơ đặc sắc của tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 2

Tác giả Trần Đăng Khoa là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thiếu nhi Việt Nam, các tác phẩm của ông không chỉ gần gũi, quen thuộc với đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn thể hiện được những nét hồn nhiên, trong sáng hiếm có. Bài thơ Mưa là một trong những bài thơ tiêu biểu của Trần Đăng Khoa, cũng là một trong những bài thơ đã vô cùng quen thuộc với thiếu nhi Việt Nam.

Bài thơ Mưa kể về cơn mưa mà tác giả đã chứng kiến tại nơi mà mình sinh sống. Cơn mưa là một hiện tượng rất bình thường trong tự nhiên nhưng khi đi vào trong sáng tác của Trần Đăng Khoa nó lại hiện lên với vẻ mới mẻ, độc đáo đến lạ lùng. Ngay đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về cơm mưa, mang lại cho người đọc cảm giác háo hức, mong chờ:

“Sắp mưa

Sắp mưa

Những con mối

Bay ra

Mối trẻ

Bay cao

Mối già

Bay thấp”

Ấn tượng đầu tiên của người đọc về bài thơ này đó chính là hình thức thơ rất ngắn gọn, tác giả đã sử dụng hình thức câu thơ tự do với những câu thơ ngắn gọn, tạo ra nhịp điệu vui tươi, hối hả cho bài thơ. Tác giả đã điệp ngữ hai lần từ “sắp mưa” vừa như lời nhắc nhở nhưng cũng như lời hô reo đầy hào hứng khi cơn mưa sắp kéo xuống.

Khi trời sắp mưa, những con mối trong tổ thường bay ra, đây là một hiện tượng rất phổ biến,đặc biệt là ở những vùng quê. Không chỉ tả về cảnh những con mối bay ra khỏi tổ mà Trần Đăng Khoa còn miêu tả chi tiết, cụ thể đến từng đối tượng “Mối trẻ/ Bay cao”; “mối già/ Bay thấp”.

“Gà con

Rối rít tìm nơi

Ẩn nấp

Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận”

Không chỉ có sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết các hiện tượng xảy ra khi trời mưa mà qua ngòi bút đầy sáng tạo của mình thì những hình ảnh quen thuộc cũng trở nên vô cùng mới lạ, độc đáo. Trời mưa, đàn gà con ríu rít chạy tìm đến nơi an toàn để ẩn nấp, tránh những giọt mưa.

Bầu trời khi trời mưa thường có mây đen giăng kín bầu trời. Nhưng trong sự cảm nhận của mình, Trần Đăng Khoa lại thấy sắc đen của bầu trời như một tấm áo giáp kiên cố, an toàn của những người tướng lĩnh mỗi khi ra trận “Ông trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận”. Ta có thể thấy được sự liên tưởng này vô cùng độc đáo, vừa có cái hài hước, vừa có cái mới lạ trong cảm nhận.

“Muôn nghìn cây mía

Múa gươm

Kiến

Hành quân

Đầy đường”

Không chỉ bầu trời mà mọi sự vật diễn ra xung quanh đều được Trần Đăng Khoa miêu tả như chuẩn bị vào một cuộc chiến thực sự. Những cây mía vì bị gió cuốn mà bay nghiêng ngả, trong cái nhìn của nhà văn, những cây mía như đang múa những đường gươm đầy uyển chuyển, điệu nghệ. Những con kiến cũng vội vã về tổ thì được nhà thơ hình dung ra một cuộc hành quân đông đảo, đầy sức mạnh.

“Lá khô

Gió cuốn

Bụi bay

Cuồn cuộn

Cỏ gà rung tai”

Khung cảnh xung quanh vô cùng náo nhiệt bởi những chiếc lá khô bị gió cuốn bay vào trong không gian, những bụi bẩn trên mặt đất cũng bị cuốn lên “cuồn cuộn”, cỏ gà thì rung tai đầy thú vị. Không chỉ có những sự vật mà ngay cả những con vật quen thuộc cũng bị náo loạn bởi trời mưa, có thì nhảy chồm chồm trên sân, tiếng chó sủa inh ỏi, cây lá hả hê:

“Cóc nhảy chồm chồm

Chó sủa

Cây lá hả hê”

Như vậy, bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa không chỉ miêu tả được khung cảnh khi trời sắp đổ mưa mà thông qua cái nhìn đầy độc đáo nhà thơ đã dựng lên được một cảnh tượng vô cùng độc đáo, náo nhiệt.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 3

Bài Mưa được Trần Đăng Khoa viết năm 1967, khi ấy tác giả mới lên chín tuổi. Thơ tuổi thơ của Trần Đăng Khoa thường viết về những cảnh vật và con người bình dị, gần gũi ở làng quê, nơi góc sân vườn nhà, nhưng lại từ chỗ đó mà nhìn ra được đất nước và mang khí thế của thời đại chống Mỹ cứu nước. Bài thơ Mưa cũng nằm trong mạch sáng tác ấy.

Bức tranh mưa rào được Trần Đăng Khoa miêu tả theo trình tự thời gian. Từ lúc sắp mưa đến trong cơn mưa.

Quang cảnh lúc trời sắp mưa được mở đầu bằng hai dòng thơ lặp lại:

Sắp mưa

Sắp mưa

Như lời báo động rất khẩn trương cho mọi người biết là cơn mưa rào đã đến. Quang cảnh được diễn ra bằng hàng loạt hình ảnh diễn tả sự hoạt động của cảnh vật rất sống động: cả họ hàng nhà mối rời tổ bay ra, bay cao, bay thấp, nhào lộn trong không trung, mối già, mối trẻ sao mà nhiều mối thế!

Đích xác là trời sắp mưa rồi! Dưới đất đàn gà con đang rối rít tìm nơi ẩn nấp. Vội vã quá! Kìa ông trời đã mặc áo giáp đen ra trận, mưa đã múa gươm, kiến đang hành quân, rồi bụi bay, gió cuốn… Tất cả, tất cả đều vội vã, khẩn trương hành động khi cơn mưa sắp tới. Còn có hình ảnh nào đẹp hơn:

Cỏ gà rung tai

Nghe Bụi tre

Tần ngần Gỡ tóc

Hàng bưởi Đu đưa

Bế lũ con thơ

Đầu tròn Trọc lốc

Từ động tác của cây cỏ gà và động tác rung rinh của nó trong cơn gió mà tác giả đã hình dung ra như cái tai cỏ gà rung lên để nghe âm thanh của những cơn gió mạnh lúc trời sắp mưa; những cành tre và lá tre bị gió thổi mạnh được hình dung như mớ tóc của bụi tre đang gỡ rối. Nhưng càng gỡ càng rối bởi gió mỗi lúc càng mạnh hơn. Một hình ảnh so sánh rất táo bạo của nhà thơ: những quả bưởi được ví như lũ trẻ con, đầu không có tóc đang ẩn náu trong những cành lá bưởi đang đưa đi, đưa lại trước gió…

Nhà thơ phải quan sát thật kĩ và vô cùng tinh tế, qua cảm nhận bằng mắt và tâm hồn của trẻ thơ, kết hợp với sự liên tưởng phong phú, mạnh mẽ mới có được những vần thơ hồn nhiên và độc đáo đến như vậy!

Cơn mưa được miêu tả theo cấp độ tăng dần. Nếu như quang cảnh khi trời sắp mưa là sự hoạt động và trạng thái khẩn trương, vội vã của cây cối và loài vật thì trong cơn mưa, khung cảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả dữ dội hơn, sự hoạt động của sự vật và có cả con người nữa có phần mạnh mẽ hơn.

Chớp

Rạch ngang trời

Khô khốc.

Từ rạch có sức gợi sự hoạt động của tia chớp quá nhanh và mạnh đến nỗi như người cầm dao rạch đứt đôi bầu trời để từ vết rạch đó tóe ra những tia lửa điện báo hiệu trời mưa đã đến nơi rồi. Kèm theo chớp là sấm sét, một sự liên tưởng hợp với lô-gíc tự nhiên.

Biện pháp nhân hóa được sử dụng liên tiếp trong đoạn thơ: Sấm cười, cây dừa sải tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa. Những vật vô tri vô giác vào thơ của Trần Đăng Khoa đều có hồn. Bức tranh sống động, rộn ràng hơn khi tác giả miêu tả âm thanh:

Mưa

Mưa

Ù ù như xay lúa

Lộp bộp

Lộp bộp.

Cả không gian đất trời mù trắng nước. Nước sủi bọt bong bóng phập phồng dưới mái hiên. Cây lá được uống mưa, tắm mưa tươi tỉnh “hả hê” sung sướng. Hình ảnh con người được hiện lên trong bức tranh thiên nhiên rất đẹp. Trong cơn mưa dữ dội, con người đã bất chấp:

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Ở đây có sự đối lập giữa thiên nhiên và con người. Một bên là mưa, sấm, chớp dữ dội, một bên là sự chủ động bình tĩnh của con người. Phải chăng tác giả đã sử dụng thiên nhiên như là một cái nền tôn cao tư thế của con người. Con người ở đây là Người cha đi cày về.

Đi cày là một công việc bình thường và quen thuộc ở làng quê đã được hiện lên, nổi bật với dáng vẻ lớn lao, với tư thế vững vàng giữa khung cảnh thiên nhiên dữ dội của trận mưa như là bất chấp tất cả, vượt lên tất cả để tự tin, chiến thắng. Điệp từ đội được sử dụng liên tiếp trong ba dòng thơ cuối bài đã làm cho con người trở thành điểm sáng giữa bức tranh thiên nhiên.

Với thể thơ tự do, với cách sử dụng câu ngắn, nhịp điệu nhanh và dồn dập, phép nhân hóa được sử dụng rộng rãi và chính xác, với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế, năng lực liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú, cách cảm nhận thiên nhiên rất sâu sắc và trẻ thơ, Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác và sinh động cảnh tượng trước và trong cơn mưa rào ở làng quê qua những hoạt động và trạng thái của nhiều cảnh vật, loài vật và con người. Nổi bật lên trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người được nâng lên lớn lao, có sức mạnh to lớn để sánh với thiên nhiên và vũ trụ.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 4

Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê ở huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Năng khiếu thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở rất sớm. Từ lúc còn là học sinh tiểu học, lúc đó tác giả mới chín tuổi đang là cây bút thiếu nhi nổi tiếng. Góc sân và khoảng trời, tập thơ đầu tay của tác giả được in 1968. Bài Mưa được rút ra từ tập thơ đó. Người đọc đã cảm nhận một cơn mưa rào ở một làng quê qua những nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.

Cái thú vị của bài thơ là tác giả không chỉ trực tiếp tả cơn mưa với sấm, chớp, nước mưa… mà chủ yếu là tập trung miêu tả hoạt động và trạng thái của các loài vật, cây cối, con người trước và trong cơn mưa. Chính cách miêu tả này mà người đọc nhận ra được cảnh tượng cụ thể và sinh động của cơn mưa.

Nét nghệ thuật đặc sắc thứ nhất là nhà thơ đã xây dựng hình ảnh sáng tạo, độc đáo và có giá trị phát hiện rất mới lạ nhưng vẫn đảm bảo được độ chính xác:

Cỏ gà rung tai

Nghe Bụi tre

Tần ngần Gỡ tóc

Từ hình dáng của cây cỏ gà và động tác rung rinh của nó trong cơn gió mà tác giả hình dung ra như cái tai cỏ gà rung lên để nghe; còn những cành tre và lá tre bị gió thổi mạnh thì được hình dung như mớ tóc của bụi tre đang gỡ rối. Và còn nhiều những hình ảnh khác nữa xuất hiện liên tiếp trong bài thơ gợi lên sự thích thú cho người đọc.

Không phải ai cũng hình dung được như vậy mà đó là sự liên tưởng rất phong phú của tâm hồn trẻ thơ mới có được hình ảnh ngộ nghĩnh đến như vậy! Nét đặc sắc thứ hai được nổi bật trong nghệ thuật miêu tả của bài thơ là phép nhân hoá được sử dụng rộng rãi và chính xác:

Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

Muôn nghìn cây mía

Múa gươm

Kiến Hành quân đầy đường

Những hình ảnh nhân hóa đã tạo nên cảnh tượng một cuộc ra trận dữ dội với khí thế mạnh mẽ, khẩn trương Ông trời – mặc áo giáp đen là cảnh những đám mây đen che phủ cả bầu trời như một lớp áo giáp của một dũng tướng ra trận. Còn Muôn nghìn cây mía lá nhọn, sắc quay cuồng trong cơn gió được hình dung như những lưỡi gươm khua lên trong tay các chiến sĩ của một đội quân đông đảo; kiến đi từng đàn vội vã có hàng lối như một đoàn quân đang hành quân khẩn trương.

Phép nhân hóa ở đây- được sử dụng thành công là nhờ sự quan sát tinh nhạy cùng với sức tưởng tượng và khả năng liên tưởng mạnh mẽ của nhà thơ. Tài tình hơn là hình ảnh nhân hóa được “liệt kê” nối tiếp nhau nhưng không nhàm chán mà càng làm cho bức tranh Mưa hiện lên sống động như thật. Người đọc có thể thấy và cảm nhận được ngay.

Nét đặc sắc thứ ba là nghệ thuật miêu tả người của tác giả trong bức tranh Mưa. Hình ảnh người cha đi cày được xây dựng theo lối ẩn dụ khoa trương. Dưới cái nhìn của Trần Đăng Khoa, người lao động đã hiện lên với dáng vẻ lớn lao, với tư thế vững vàng giữa khung cảnh thiên nhiên dữ dội đầy sấm, đầy chớp của trận mưa như là bất chấp tất cả, vượt lên tất cả để tự tin, chiến thắng.

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa

Một tư thế thật hào hùng, dũng mãnh. Đúng như ca dao xưa đã ca ngợi:

Trời mưa thì mặc trời mưa

Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi.

Câu thơ của Trần Đăng Khoa hôm nay còn tự tin và mạnh mẽ, hồn nhiên. Nó dựng lên được hình ảnh con người có tầm vóc lớn lao, tư thế hiên ngang và sức mạnh to lớn, con người không bị thiên nhiên vũ trụ che lấp, trái lại, nó trở thành điểm sáng giữa bức tranh thiên nhiên.

Hình ảnh đối lập giữa thiên nhiên và con người đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động bình thường (đi cày) trước cái dữ dội của cơn mưa rào. Đúng hơn, tác giả đã sử dụng thiên nhiên như là một cái nền để tôn cao tư thế con người. Có phải thiên nhiên là cái nền đã tôn cao vẻ đẹp của con người lên? Hay còn vì cách nhìn sáng tạo, độc đáo và thái độ trân trọng trong cách tả cảnh và tả người tinh tế của tác giả. Chính vì thế mà cả bài thơ có 63 dòng, 59 dòng tả cảnh thiên nhiên, tác giả chỉ dành 4 dòng cuối để tả con người, nhưng con người hiện lên vẫn rất đẹp.

Bài thơ tả cảnh mưa thành công bởi thể thơ và nhịp điệu thơ. Với thể thơ tự do, những câu thơ ngắn, từ một đến năm tiếng, số câu ngắn chiếm rất nhiều. Trong bài chỉ có hai câu thơ năm tiếng: câu 48 và câu 60, phần lớn là câu hai tiếng, và đặc biệt có tới 10 dòng thơ một tiếng. Các câu thơ ngắn, không đều nhau đã tạo ra nhịp nhanh, mạnh, dồn dập, diễn tả sinh động từng đợt dồn dập, dữ dội của cơn mưa rào mùa hè.

Mưa của Trần Đăng Khoa là sự kết tinh của những nét nghệ thuật đặc sắc, thể hiện qua tài năng quan sát và miêu tả tinh tế, năng lực liên tưởng phong phú của tác giả. Cách cảm nhận thiên nhiên ở bài thơ vừa hồn nhiên vừa sâu sắc. Bài thơ đã miêu tả chính xác và sinh động cảnh tượng cơn mưa rào ở làng quê qua những hoạt động và trạng thái của nhiều cảnh vật, loài vật, con người trước và trong cơn mưa.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 5

Bài thơ Mưa cũng nằm trong mạch cảm hứng ấy. Bức tranh về cơn mưa rào mùa hạ được miêu tả thông qua cảm nhận tinh tế và đôi mắt hồn nhiên, thơ ngây của cậu bé Khoa.

Thể thơ tự do với những câu ngắn, nhịp điệu nhanh, dồn dập kết hợp với hàng loạt động từ, tính từ tiêu biểu, chính xác đã vẽ nên toàn cảnh một trận mưa. Bài thơ gồm ba phần. Phần đầu tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, đoạn giữa tả cơn mưa. Bốn câu cuối là hình ảnh con người giữa cảnh dữ dội của cơn mưa.

Những biến chuyển của trời đất trước cơn mưa được miêu tả qua hàng loạt chi tiết và hình ảnh độc đáo được chọn lọc từ sự hiểu biết sâu sắc và trí tưởng tượng phong phú, bay bổng lạ thường của nhà thơ.

Cảnh vật quen thuộc trong đời sống hằng ngày được Trần Đăng Khoa đưa vào thơ, trở nên rất sinh động: sắp mưa – Sắp mưa – Những con mối – Bay ra – Mối trẻ – Bay cao – Mối già – Bay thấp – Gà con – Rối rít tìm nơi – Ân nấp. Nhịp điệu thơ khẩn trương, gấp gáp như báo hiệu một cơn mưa lớn.

Nhìn đám cỏ gà rung rinh, chú bé hình dung ra: cỏ gà rung tai – Nghe. Nhìn những bụi tre đang vật vã trước cơn gió mạnh, chú bé thấy như Bụi tre – Tần ngần – Gỡ tóc.

Nét nổi bật nhất trong nghệ thuật miêu tả của bài thơ là phép nhân hóa được sử dụng rộng rãi và tài tình: Ông trời – Mặc áo giáp đen – Ra trận – Muôn nghìn cây mía – Múa gươm – Kiến – Hành quân – Đầy đường. Những đám mây đen che phủ cả bầu trời trông giống như lớp áo giáp uy nghi của một dũng tướng ra trận.

Còn Muôn nghìn cây mía lá nhọn sắc quay cuồng trong cơn gió mạnh được hình dung như những lưỡi gươm đang múa loang loáng trong tay các chiến binh. Kiến nối đuôi nhau đi thành từng đàn như một đoàn quân đang hành quân ra trận. Cách miêu tả cảnh vật của Trần Đăng Khoa thật lạ lùng, đặc sắc.

Từ cảnh cây bưởi trĩu quả: Hàng bưởi – Đu đưa – Bế lũ con – Đầu tròn – Trọc lốc đến cảnh Chớp – Rạch ngang trời – Khô khốc – Sấm – Ghé xuống sân – Khanh khách – Cười – Cây dừa – Sải tay – Bơi – Ngọn mùng tơi – Nhảy múa đều được miêu tả bằng trí tưởng tượng phong phú của trẻ thơ.

Bài thơ không chỉ miêu tả cơn mưa với sấm chớp, gió mưa… mà còn miêu tả hoạt động của vạn vật và con người. Thông qua đó, người đọc hình dung ra đầy đủ cảnh tượng một cơn mưa rào mùa hạ và tác động của nó đối với vạn vật trên mặt đất:

Mưa – Mưa – ù ù như xay lúa – Lộp bộp… – Rơi – Rơi… – Đất trời- Mù trắng nước – Mưa chéo mặt sân – Sủi bọt – Cóc nhảy chồm chồm – Chó sủa – Cây lá hả hê…

Khi trời chuyển mưa, mây đen vần vũ, gió thổi ù ù như tiếng cối xay lúa. Trời bắt đầu mưa. Mưa rơi Lộp bộp trên tàu cau, tàu chuối. Mưa nặng hạt hơn. Đất trời trắng xóa. Mưa to, gió lớn. Sau những ngày tháng khô hạn, đất gặp nước sủi bọt, bong bóng đầy sân.

Cóc sung sướng nhảy chồm chồm, sấm chớp đì đùng, chó sợ hãi sủa inh ỏi. Cây bưởi, cây na trong vườn hả hê vẫy lá đón những hạt mưa đầu mùa mát rượi. Trần Đăng Khoa tả thật khéo, thật đúng quang cảnh một trận mưa mà mình quan sát được từ ngôi nhà nhỏ bé.

Cái tài của Trần Đăng Khoa là đã biết lựa chọn những tình tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào bài thơ, làm cho bức tranh thiên nhiên có sức hấp dẫn lạ thường.

Hình ảnh con người ở cuối bài thơ được xây dựng theo lối ẩn dụ khoa trương. Người cha đi cày về dưới trời mưa tầm tã đã được nhìn bằng ánh mắt yêu thương, cảm phục của đứa con: Bô’ em đi cày về – Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa. Hình ảnh con người ở đây có tầm vóc lớn lao và tư thế hiên ngang, có thể sánh với thiên nhiên, vũ trụ.

Với thể thơ tự do phóng khoáng, nhịp thơ ngắn và nhanh, kết hợp với việc sử dụng rộng rãi phép nhân hóa, bài thơ đã miêu tả chính xác và sinh động khung cảnh trước và trong cơn mưa rào ở làng quê; thể hiện tài quan sát, miêu tả tinh tế và độc đáo của Trần Đăng Khoa.

Thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa có nhiều bài hay trong đó Mưa là một bài xuất sắc. Nhà thơ tí hon có tài quan sát tinh tế, kết hợp trí tưởng tượng phong phú, kỳ diệu, biết dùng từ ngữ hồn nhiên. Nhờ vậy cho đến nay, thơ Trần Đăng Khoa vẫn được lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng yêu thích.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 6

Trần Đăng Khoa có thể coi là một hiện tượng thi ca thần đồng của nền thơ Việt Nam một thời. Giản dị, tự nhiên và trong trẻo như khí trời, như ánh sáng, tiếng thơ của Khoa từ tuổi thiếu niên mộc mạc mà thấm vào lòng người rất sâu, bởi nó là tiếng nói chân thành, hồn hậu và dung dị từ một tâm hồn thơ trẻ, từ một trái tim giàu rung cảm.

Từ “góc sân và khoảng trời” của riêng mình, Khoa đã viết về gia đình, về mọi sự vật hiện tượng xung quanh em bằng con mắt “xanh non” và tư duy thơ của một cậu bé 10 tuổi. Hình tượng Mưa trong bài thơ cùng tên của Khoa cũng hiện lên thật sinh động, rõ nét.

Có thể thấy Trần Đăng Khoa viết về Mưa không nhằm để nhận thức, lý giải, cắt nghĩa một hiện tượng thiên nhiên, mà hình tượng Mưa trong thơ Khoa hiện lên theo một trật tự thời gian tuyến tính, đúng như quan sát của cậu bé Khoa. Tưởng như cuộc sống đời thường, tự nó, chảy vào trang thơ em, tan hòa cùng xúc cảm và tưởng tượng của Khoa, để tạo nên những hình ảnh ngộ nghĩnh, sống động.

Cơn mưa được tái hiện ngay từ tiếng reo hân hoan, náo nức đầu tiên: “Sắp mưa – Sắp mưa”, cho đến lúc “Mưa – Mưa – Ù ù như xay lúa…”. Cả một thế giới sự vật hiện lên rất sống, rất có hồn, tưởng như cựa quậy trên trang thơ. Tất cả đều trong sự vận động hối hả, nao nức trước và trong cơn mưa.

Liên tưởng của Khoa không ôm trùm, khái quát một cơn mưa kì vĩ, mà đi vào mỗi sự vật, hiện tượng giản dị, quen thuộc hàng ngày, quan sát chính xác, tinh tế vận động của chúng để tạo nên những hình ảnh thơ không kém phần bay bổng, thú vị và ngộ nghĩnh. Hoành tráng và sôi động thay là hình ảnh:

Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

Muôn ngàn cây mía

Múa gươm…”

Sống động và đáng yêu thay là liên tưởng:

“Cỏ gà rung tai

Nghe bụi tre

Tần ngần

Gỡ tóc

Hàng bưởi

bế lũ con

đầu tròn

trọc lóc…

Rồi có cả âm thanh của Sấm “ghé xuống sân – khanh khách cười”, của Mưa “ù ù như xay lúa – lộp bộp”… Rồi cả không khí xao xác, tan tác của mối, của gà con, của kiến, của “gió cuốn, bụi bay”… Cả thế giới sự vật đều hân hoan nhảy múa, reo ca trong mưa.

Có thể thấy, trong bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa, hình tượng cơn mưa hiện lên trong sự kết nối một thế giới sự vật hiện tượng quen thuộc, giản dị, gần gũi với cuộc sống và tâm hồn của Khoa. Đó là những cây mía, cây bưởi, bụi tre, cây dừa, ngọn mùng tơi, cỏ gà…; là những con mối, con kiến, con cóc, con chó; là những hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió… bình thường, thân thuộc.

Nó là không gian “góc sân và khoảng trời” của em, là mảnh đất nuôi dưỡng hồn thơ cậu bé Khoa với nguồn mạch ánh sáng, khí trời trong lành của một vùng nông thôn Việt Nam bình dị. Điều đặc sắc và thú vị là từ sự quan sát tinh tế và tình yêu máu thịt với thiên nhiên quê hương, Khoa đã làm sống dậy một thế giới nghệ thuật sinh động, “quen” mà “lạ”.

Những liên tưởng, tưởng tượng của Khoa rất hồn nhiên, bay bổng, linh động nhờ thấm nhuần trong cảm xúc và điểm nhìn tươi tắn của trẻ thơ, lại vừa thể hiện một tư duy nghệ thuật khá chững chạc và già dặn, biết đánh thức kho ấn tượng thẩm mỹ dồi dào trong tâm hồn mình và viết thành thơ.

Đặc biệt, bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa kết lại bằng hình ảnh:

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Một hình ảnh sáng tạo độc đáo và kì vĩ! Mưa trong thơ Trần Đăng Khoa khơi dậy sự sống sinh động quanh em. Và hiện lên như khắc, như tạc trên trang thơ là hình ảnh con người vừa bình dị, vừa phi thường. Cái phi thường ẩn sâu trong cái giản dị bề ngoài. Câu thơ đọc lên ngỡ như đơn giản, không có gì mới lạ, vậy mà lại là cả một sự phát hiện thú vị và tinh tế của nhà thơ nhỏ tuổi Trần Đăng Khoa.

Hình tượng Mưa thơ của Trần Đăng Khoa là hình tượng thẩm mỹ mang phẩm chất nghệ thuật cao, là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, hồn nhiên, khoáng đạt đến kì lạ. Cơn Mưa của Trần Đăng Khoa cụ thể, sống động, và gắn với cái nhìn thơ trẻ mà tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. Mưa của Khoa mang đậm chất thơ gợi cảm, mộc mạc và vô cùng hấp dẫn.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 7

Tài năng thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở từ rất sớm và ngay năm mới lên mười tuổi, tập thơ đầu tay của cậu bé thần đồng đã được ra đời. Góc sân và khoảng trời thể hiện một thế giới tuổi thơ vừa hồn nhiên, tươi trẻ nhưng nhiều khi cũng hết sức tinh tế, góc cạnh. Có thể nói, với năng lực ngôn ngữ ưu trội, lại có óc quan sát tài tình, trái tim giàu mẫn cảm, thơ Trần Đăng Khoa đem lại những xúc cảm hết sức tươi trẻ về cuộc sống.

Sắp mưa

Sắp mưa

Hai câu thơ mở đầu được lặp lại cùng một thông báo như đem đến niềm háo hức rất trẻ thơ: niềm vui được đón cơn mưa, được giỡn đùa với nước. Nhưng ngay sau lời thơ như một tiếng thầm reo vui, là một sự quan sát rất tinh tế. Chỉ trong vài hình ảnh, cảnh trời sắp mưa đã được hiện lên rõ nét.

Bài thơ được miêu tả theo trục tuyến tính của thời gian: mây đen, giông gió, sấm chớp, mưa; nhưng trong bối cảnh chung ấy, sự phát hiện về các trạng thái và hoạt động của muôn loài lại rất ngẫu hứng, tưởng như mỗi lần lia mắt từ hàng hiên, ánh mắt trẻ thơ vội chộp lấy một hình ảnh này rồi lại nhanh chóng bị hình ảnh khác thu hút, khiến những đối tượng quan sát liên tục thay đổi.

Dưới bầu trời mây đen ùn ùn kéo đến, cây cối và loài vật hiện lên rất sinh động. Các loài vật được thu vào tầm mắt: mối, gà con, kiến, cóc,…; và các loài cây; mía, cỏ gà, tre, bưởi, dừa, mùng tơi,… Sự vật không chỉ phong phú, mà quan trọng hơn, chúng đều được “cắt nghĩa, lý giải” bằng cảm nhận rất trẻ thơ. Đàn mối có con bay cao, con bay thấp bởi chúng có con già, con non.

Gà con thì sợ sệt, rối rít tìm nơi trú ẩn. Kiến vội vàng hành quân tránh nước. Và khi mưa xuống, những con cóc nhảy chồm chồm từ trong bờ cây bụi cỏ ra đón làn nước mát… Cây cối cũng vậy. Khi “ông trời mặc áo giáp đen ra trận” thì cây mía trở thành vũ khí, không ngừng “múa gươm”trong gió bụi cuồn cuộn. Sát dưới mặt đất, cỏ gà ngơ ngác rung tai nghe sự chuyển động khác lạ ở trên cao.

Bụi tre phiền não, tần ngần bởi cứ phải gỡ mái tóc bị gió xoáy tạt liên hồi về mọi phía. Hàng bưởi phải chuyển động khéo léo, đu đưa nhịp nhàng với ngọn gió để che chở cho chùm quả. Các tàu lá dừa to lớn phải gắng nhịp nhàng lay động trong khi ở phía dưới gốc, những ngọn mùng tơi lại tha hồ nhảy múa vui tươi… Mỗi một trạng thái, một hoạt động đều tìm được một sự giải thích “hợp tình hợp lí” trong cơn mưa.

Và mưa đã đến:

Mưa

Mưa

Giống như cách lặp từ “sắp mưa” ở đầu đoạn miêu tả trước cơn mưa, cách lặp từ “mưa” ở đầu đoạn miêu tả trong cơn mưa hiện lên như tiếng reo vui của đứa trẻ: trời đã mưa! Một cơn mưa giông thật to. Ban đầu là ào ạt những nước, tiếng mưa “ù ù như xay lúa”. Sau mưa thành từng cơn, khi mưa thưa với những hạt to: lộp bộp/ lộp bộp…, khi mưa mau với những hạt nhỏ: rơi/rơi…

Cứ như thế, trên trời cao, màu xám đen của mây mưa đã chuyển sang màu xám bạc của nước mưa; còn dưới đất, mặt sân đầy ăm ắp nước. Rồi gió thổi làm cơn mưa xiên chéo, hạt mưa làm nổi bong bóng khắp sân… Cơn mưa ào đến đã đem lại sức sống mới khiến cho vạn vật đều được hả hê tắm làn nước mát.

Có thể nói, một miêu tả về cơn mưa như vậy là sinh động và tài tình. Vạn vật đều được nhân cách hóa, biểu hiện những phẩm tính của con người trong khát khao đón trận mưa xóa tan đi không khí oi nồng ngột ngạt. Thể thơ tự do đã thật sự đắc dụng trong việc thể hiện niềm vui này, đồng thời cũng có giá trị tạo hình trong việc khắc họa cơn mưa theo nhịp điệu ngắn và nhanh của các câu thơ.

Tuy nhiên, niềm vui bao trùm không vì thế mà át được những lo lắng bởi những tai ương bất ngờ có thể xảy đến. Đàn gà con gặp cảnh huống lạ lẫm rối rít tìm nơi ẩn nấp. Đàn kiến lo tổ ngập úng vội vàng hành quân chuyển nhà lên trên cao. Hàng bưởi thì hết sức nhẹ nhàng khéo léo đung đưa cành lá để bao bọc cho những quả non tơ… Đâu đâu cũng thấy ánh lên phẩm chất của con người. Ngay cả cơn mưa cũng mang trong mình phẩm chất ấy, khi quyết liệt, nghiêm nghị, khi vui vẻ, hồn nhiên:

Chớp

Rạch ngang trời

Khô khốc

Sấm

Ghé xuống sân

Khanh khách

Cười

Rõ ràng, đứa trẻ đã thổi hồn mình vào tạo vật, ban phát cho tạo vật những đặc điểm, tính chất của bản thân mình. Khám phá và tham dự vào trò chơi với thiên nhiên tạo vật, chỉ tâm hồn trong trắng thơ ngây của trẻ thơ mới có được những cảm nhận vô tư và phi vụ lợi như thế. Cái tài của Trần Đăng Khoa đọng lại một cách sâu sắc ở điểm này.

Và chính trong niềm vui hồn nhiên thơ trẻ như đang được kéo dài, được lan tỏa thỏa thuê trong cơn mưa, bài thơ đột ngột kết lại bằng một hình ảnh có sức biểu trưng cao:

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Cái độc đáo của bài thơ chính là sự xuất hiện không hề khiên cưỡng của hình tượng người cha. Cứ như thể đang mải mê nghịch nước, chú bé luống cuống khi thấy người cha đội mưa trở về. Nhưng ngay sau đó, nỗi lo sợ có thể bị trách phạt vì ham chơi, nghịch dại nhường chỗ cho sự phát hiện, cảm nhận về sự kỳ vĩ trong hình ảnh của người cha, sự toả ấm bởi sức mạnh và tấm lòng người cha.

Một cách rất tự nhiên, người cha đã vụt hiện lên trên nền trời mưa ảm đạm, xoá tan đi vẻ lạnh lẽo của đất trời, sưởi ấm tấm lòng con trẻ bởi chính tư thế hiên ngang “đội trời đạp đất” ấy. Vì vậy, có thể nói, bên cạnh những vần thơ rất đỗi tinh tế: “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” (Đêm Côn Sơn); hay những câu thơ mang chứa sự suy tư sâu sắc: “Góc sân nho nhỏ mới xây/ Chiều chiều em đứng nơi này em trông/ Thấy trời xanh biếc mênh mông/ Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy” (Góc sân và khoảng trời),…

Những vần thơ hồn nhiên, dung dị mà vẫn đẹp lấp lánh như bài thơ Mưa là một bộ phận không nhỏ góp vào thành công lớn của thơ Trần Đăng Khoa thời thơ ấu.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 8

Bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa là bài thơ tả cảnh độc đáo. Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh vạn vật đất trời bị biến đổi bởi cơn mưa rào bất chợt. Và nổi bật trên cái phông nền nghiêng ngả vì mưa của hài thơ, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp.

Hình ảnh con người trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh “Bố em đi cày về” xuất hiện ở phía cuối bài thơ:

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa

“Bố em” chỉ là một người nông dân bỗng nhiên trở nên lớn lao khác thường. Ông “Đội sấm”, “đội chớp”, “đội cả trời mưa”. Ba ý thơ được tách riêng thành ba dòng, điệp từ “đội” được lặp lại ba lần, điều đó vừa thể hiện cái dữ dội của trời mưa vừa bộc lộ tư thế hiên ngang của người cha.

Ông đi cày về, trên vai còn vác chiếc cày, bàn tay còn dắt con trâu; hình ảnh ấy bước ra từ cái dữ dội, ì ầm đáng sợ của cơn mưa rào. Đó là hình ảnh người nông dân có tầm vóc lớn lao, tư thế vững vàng, hiên ngang như một vị thần đội trời đạp đất có sức mạnh có thể sánh với thiên nhiên. Trong con mắt nhìn của một em bé chín tuổi, người cha đi cày quả là hình ảnh của một tráng sĩ có vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ.

Người bố trong bài thơ “Mưa” còn là đại diện cho hình ảnh con người trước sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên. Cơn mưa ập xuống, tất cả vạn vật biến đổi: mía nghiêng ngả, kiến rời tổ, mối vỡ tổ,… Chỉ duy con người vẫn vững vàng với công việc khai thác, chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ mình (đi cày).

Hình ảnh con người trong bài thơ thật kiêu hãnh!

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 9

Cuối bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa, chúng ta mới thấy xuất hiện hình ảnh con người. Một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê xưa nay:

“Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…”

Mọi thứ của vũ trụ như sấm chớp, mưa đều “đội” lên đầu “bố em”.Chữ “đội” được điệp lại 3 lần, không chỉ cực tả sự vất vã dãi nắng dầm mưa của “bố em”, của người dân cày Việt Nam xưa nay mà còn mang hàm nghĩa, người nông dân cày cấy trong bom đạn chiến tranh, vừa sản xuất vừa chiến đấu.

Sau vần thơ là lòng biết ơn, kính yêu của bé Khoa. Đọc bài thơ “Hạt gạo làng ta”, ta biết thêm hình ảnh người mẹ, người chị sau lũy tre xanh đã chân lấm tay bùn, hai sương một nắng… để làm nên “hạt vàng làng ta” gửi ra chiến trường:

… “Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy…”

“Mưa”là một bài thơ hay. Thế giới thiên nhiên trong cơn mưa rào ở làng quê được cảm nhận và miêu tả tinh tế. Các câu thơ ngắn 1, 2, 3… chữ đan cài vào nhau, kết hợp với vần chân đã tạo nên nhạc điệu thơ, gợi tả tiếng mưa rơi, nghe rất vui.

Phép nhân hóa và nghệ thuật sử dụng các từ láy (rối rít, cuồn cuộn, tần ngần, đu đưa, trọc lốc, khô khốc, khanh khách, ù ù, lộp bộp, chồm chồm, hả hê) đã tạo nên những vần thơ, những hình ảnh hồn nhiên, ngộ nghĩnh, thi vị. “Mưa” là một bài thơ đặc sắc của tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ.

Bài văn phân tích bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa số 10

Bài thơ “Mưa” của tác giả Trần Đăng Khoa sáng tác 1967 khi ông lên chín tuổi. Bài thơ thể hiện cảnh vật và con người bình dị, gần gũi với con người.

Tác giả đã tinh tế khi phác họa bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động, Từ lúc thời tiết sắp đổ cơn mưa cho tới lúc trời mưa và khi cơn mưa đi qua.

Sắp mưa

Sắp mưa

Cỏ gà rung tai

Nghe

Bụi tre

Tần ngần

Gỡ tóc

Hàng bưởi

Đu đưa

Bế lũ con

Đầu tròn

Trọc lốc

Những câu thơ mở đầu như một lời báo động cho con người và vạn vật xung quanh biết đất trời đang thay đổi, sắp có một cơn mưa rào đang tới.

Những cơn gió đu đưa những cây cỏ gà rung rinh làm cho tác giả liên tưởng tới cái taiMột sự nhân cách hóa so sánh vô cùng độc đáo táo bạo của nhà thơ nhí của chúng ta. Những quả bưởi thì được ví như những đứa trẻ con.

Điều này thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả với thiên nhiên của chúng ta có như thế tác giả mới cho ra những vần thơ vô cùng sinh động, gần gũi với con người như vậy.

Chớp

Rạch ngang trời

Khô khốc.

Cơn mưa mỗi lúc một gần hơn. Những tia chớp lóe lên như một con dao sáng lóa rạch ngang trời những vét chém tóe lửa, khiến cho con người và cảnh vật phải khiếp sợ.Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa tự nhiên giống như đã từng miêu tả trong đoạn thơ

”Sấm cười, cây dừa sải tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa”

Tác giả đã cho những vật vô tri, những vật tưởng chừng như vô hồn đó được sống như con người. Có tâm hồn, suy nghĩ và hành động giống như con người.

Mưa

Mưa

Ù ù như xay lúa

Lộp bộp

Lộp bộp.

Cả không gian bao la mênh mông bỗng ngập tràn trong nước.Trên những mái hiên những cơn mưa thi nhau rơi xuống, những bong bóng mưa sủi bọt rồi vỡ tan trong không trung. Trong cái nắng oi nồng của mùa hè, nếu chúng ta được đón nhận một cơn mưa rào thì thật hạnh phúc biết bao.

Nó xóa tan đi cơn khát của cỏ cây hoa lá, giúp cả người tắm mát tâm hồn, cảm thấy hả hê sung sướng trước cơn mưa mùa hạ, mát lành.

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Trong những câu thơ cuối này tác giả Trần Đăng Khoa không miêu tả cảnh vật thiên nhiên nữa mà đã phác họa lên hình ảnh của một con người. Một bên là sấm chớp, mưa gió dữ dội. Một bên là con người chủ động bình tĩnh, hiên ngang đội sấm , đội chớp, đội cả mưa trên đầu để đi làm về.

Hình ảnh con người hiện lên thật hiên ngang, kiên cường không hề có sự lo lắng, hoảng sợ nào trong đây.Những câu thơ cuối của bài thơ đã làm cho bức tranh ” Mưa” trở nên sinh động hơn bao giờ hết khi có sự xuất hiện của con người trong một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ như thế nào.

Bài thơ này được tác giả viết với thể thơ vô cùng phóng khoáng, tự do, nhịp điều lúc nhanh, lúc gấp gáp tạo thành sự nhịp nhàng cho bài thơ. Nghệ thuật nhân cách hóa của tác giả đã khiến cho những cỏ cây hoa lá cũng có tâm hồn, làm người đọc cảm thấy vô cùng thú vị.

Bài thơ là bức tranh miêu tả thiên nhiên trước và trong cơn mưa rào ở làng quê Việt Nam thật đẹp, thật đáng yêu. Hi vọng bài viết trên giúp bạn cảm nhận và phân tích tốt hơn bài thơ này. Chúc các bạn học tốt.