Nhà thơ Nam Trân và trọn bộ những bài thơ dịch đặc sắc nhất phần 2

山外青山樓外樓,
西湖歌舞幾時休?
暖風熏得遊人醉,
直把杭州作汴州。

Đề Lâm An để

Sơn ngoại thanh sơn, lâu ngoại lâu,
Tây Hồ ca vũ kỷ thời hưu?
Noãn phong huân đắc du nhân tuý,
Trực bả Hàng Châu tác Biện Châu.

Dịch nghĩa

Núi xanh trùng điệp, lầu tầng tầng lớp lớp,
Bên Tây Hồ tiếng ca múa có khi nào ngớt chăng?
Gió ấm thổi làm say lòng khách,
Cứ ngỡ rằng Hàng Châu là Biện Châu.

Dịch

Lớp lớp non xanh, lớp lớp lầu
Tây Hồ múa hát đến bao lâu?
Gió êm đã ngấm say lòng khách
Dám bảo Hàng Châu cũng Biện Châu

朔風千里驚,
漢月五更青。
縱有還家夢,
猶聞出塞聲。

Tòng quân hành

Sóc phong thiên lý kinh,
Hán nguyệt ngũ canh thanh.
Túng hữu hoàn gia mộng,
Do văn xuất tái thanh.

Dịch nghĩa

Gió bấc thổi qua ngàn dặm lạnh ghê người
Trăng đất Hán suốt năm canh trong sáng
(Người lính thú đóng nơi biên ải) dù có được giấc mơ quay về nhà
Thì lại nghe thấy tiếng truyền phải đi ra cửa ải

Dịch

Bắc phong ngàn dặm ghê người,
Vầng trăng đất Hán sáng ngời năm canh.
Về quê, dù giấc mộng thành,
Vẫn cần nghe lệnh xuất binh cửa ngoài.

千山鳥飛絕,
萬徑人蹤滅。
孤舟簑笠翁,
獨釣寒江雪。
Giang tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt.
Cô chu thoa lạp ông,
Độc điếu hàn giang tuyết.
Dịch nghĩa
Giữa ngàn non, chim bay tắt bóng
Trên đường muôn ngả, dấu người vắng tanh
Thuyền trơ trọi, ông già nón lá áo tơi
Một mình ngồi thả câu trong tuyết trên sông lạnh

Dịch

Ngìn non, bóng chim tắt
Muôn nẻo, dấu người không
Thuyền đơn, ông tơi nón
Một mình câu tuyết sông.

對蕭蕭暮雨灑江天,
一番洗清秋,
漸霜風淒緊,
關河冷落,
殘照當樓。
是處紅衰綠減,
冉冉物華休。
惟有長江水,
無語東流。
不忍登高臨遠,
望故鄉渺邈,
歸思難收。
歎年來蹤跡,
何事苦淹留?
想佳人、妝樓長望,
誤幾回、天際識歸舟。
爭知我、倚欄杆處,
正恁凝愁。

Bát thanh Cam Châu

Đối tiêu tiêu mộ vũ sái giang thiên,
Nhất phiên tẩy thanh thu,
Tiệm sương phong thê khẩn,
Quan hà lãnh lạc,
Tàn chiếu đương lâu.
Thị xứ hồng suy lục giảm,
Nhiễm nhiễm vật hoa hưu.
Duy hữu Trường Giang thuỷ,
Vô ngữ đông lưu.
Bất nhẫn đăng cao lâm viễn,
Vọng cố hương diểu mạc,
Quy tứ nan thu.
Thán niên lai tung tích,
Hà sự khổ yêm lưu?
Tưởng giai nhân, trang lâu trường vọng,
Ngộ kỷ hồi, thiên tế thức quy chu.
Tranh tri ngã, ỷ lan can xứ,
Chính nhẫm ngưng sầu.

Dịch

Nhìn mưa chiều sầm sập xuống sông,
Một phen gột rửa trời thu,
Dần gió gào sương lạnh,
Núi sông tẻ ngắt,
Bóng xế ngang lầu.
Khắp nơi hồng rơi lục rụng,
Cảnh vật đã phai màu.
Chỉ có con sông Dương Tử,
Về đông lặng chảy làu làu.
Không nỡ lên cao trông với,
Nhìn quê xưa vời vợi,
Nỗi nhớ rầu rầu.
Ôi! Bao năm phiêu bạt,
Quê người chạnh nỗi buồn đau.
Người đẹp tựa lầu xa ngóng,
Tưởng thuyền về, lầm trước lẫn sau.
Biết đâu nơi lan can đứng tựa,
Lòng ta chung một mối sầu.

靈臺無計逃神矢,
風雨如磐暗故園。
寄意寒星荃不察,
我以我血荐軒轅。

Tự đề tiểu tượng

Linh đài vô kế đào thần thi,
Phong vũ như bàn ám cố viên.
Ký ý hàn tinh thuyên bất sát,
Ngã dĩ ngã huyết tiến hiên viên

Dịch

Con tim khôn tránh mũi tên thần
Vườn cũ mưa tuôn lại gió vần
Dù tấm lòng son trên chửa thấu
Ta đem máu đỏ hiến nhân dân

寒蟬淒切,
對長亭晚,
驟雨初歇。
都門帳飲無緒。
留戀處、
蘭舟催發。
執手相看淚眼,
竟無語凝噎。
念去去。
千里煙波,
暮靄沉沉楚天闊。
多情自古傷離別,
更那堪、
冷落清秋節!
今宵酒醒何處?
楊柳岸、
曉風殘月。
此去經年,
應是良辰。
好景虛設。
便縱有千種風情,
更與何人說?

Vũ lâm linh

Hàn thiền thê thiết,
Đối trường đình vãn,
Sậu vũ sơ yết.
Đô môn trướng ẩm vô tự.
Lưu luyến xứ,
Lan chu thôi phát.
Chấp thủ tương khan lệ nhãn,
Cánh vô ngữ ngưng ế.
Niệm khứ khứ.
Thiên lý yên ba,
Mộ ái trầm trầm Sở thiên khoát.
Đa tình tự cổ thương ly biệt,
Cánh na kham,
Lãnh lạc thanh thu tiết!
Kim tiêu tửu tỉnh hà xứ?
Dương liễu ngạn,
Hiểu phong tàn nguyệt.
Thử khứ kinh niên,
Ưng thị lương thần,
Hảo cảnh hư thiết.
Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,
Cánh dữ hà nhân thuyết?

Dịch nghĩa

Ve lạnh kêu buồn thảm,
Trước trường đình lúc trời tối,
Mưa rào vừa tạnh.
Tiệc rượu tiễn đưa nơi cửa thành, không gỡ được mối sầu.
Đang lúc lưu luyến,
Thuyền lan giục giã ra đi.
Nắm tay nhìn nhau, mắt rưng rưng lệ,
Rồi không nói nghẹn ngào.
Nghĩ người ra đi,
Khói sóng trải dài ngàn dặm,
Mây chiều man mác, trời Sở bao la.
Kẻ đa tình xưa nay vẫn buồn chuyện biệt ly,
Lại chịu thêm sao nổi,
Tiết thu lạnh hiu hắt.
Đêm nay khi tỉnh rượu sẽ ở nơi nào?
Bờ dương liễu,
Gió sớm trăng tàn.
Từ nay năm này qua năm khác,
Hẳn là tiết lành,
Hay cảnh đẹp thì cũng thấy trống rỗng mà thôi.
Dù cho có ngàn loại phong tình,
Cũng biết thổ lộ cùng ai được?

Dịch

Tiếng ve thảm thiết,
Quan trạm chiều tà,
Trận mưa vừa dứt.
Ngoài thành rượu tiễn khôn khuây,
Đang lưu luyến,
Dưới thuyền vội giục,
Tay nắm, mắt nhìn, lệ nhỏ,
Chưa nói ra đã ngắt.
Người đi,
Sóng khói dặm nghìn,
Trời Sở mây chiều thêm bát ngát.
Khách đa tình vốn đau lòng ly biệt,
Lại khổ nỗi,
Lúc trời thu trong mát,
Đêm nay tỉnh rượu nơi nao?
Bến liễu,
Lúc trăng tàn, gió rét!
Biền biệt ra đi!
Thôi, cảnh đẹp ngày vui ấy,
Lời rỗng tuếch.
Sau dù có trăm mối chung tình,
Khôn ngỏ cùng ai biết?

黃金錯刀白玉裝,
夜穿窗扉出光芒。
丈夫五十功未立,
提刀獨立顧八荒。
京華結交盡奇士,
意氣相期共生死。
千年史策恥無名,
一片丹心報天子。
爾來從軍天漢濱,
南山曉雪玉嶙峋。
嗚呼!楚雖三戶能亡秦,
豈有堂堂中國空無人!

Kim thác đao hành

Hoàng kim thác đao bạch ngọc trang,
Dạ xuyên song phi xuất quang mang.
Trượng phu ngũ thập công vị lập,
Đề đao độc lập cố bát hoang.
Kinh hoa kết giao tận kỳ sĩ,
Ý khí tương kỳ cộng sinh tử.
Thiên niên sử sách sỉ vô danh,
Nhất phiến đan tâm báo thiên tử.
Nhĩ lai tòng quân thiên Hán Tân,
Nam Sơn hiểu tuyết ngọc lân tuân.
Ô hô! Sở tuy tam hộ năng vong Tần,
Khởi hữu đường đường Trung Quốc không vô nhân!

Dịch

Thanh gươm mạ vàng dát ngọc trắng
Ban đêm sáng quắc dọi qua song
Trai năm mươi tuổi công chưa lập
Xách gươm đứng nhìn khắp tám phương
Kinh thành bạn hữu đều hào kiệt
Khảng khái hẹn nhau cùng sống chết
Nghìn năm sử sách thẹn không tên
Một tấm lòng son đền nợ nước
Mới rồi hành quân đến Hán Tân
Nam Sơn tuyết sớm ngọc xây tầng
Than ôi! Sở tuy ba hộ diệt được Tần
Oai hùng Trung Quốc há không kẻ nên thân

死去原知萬事空,
但悲不見九州同。
王師北定中原日,
家祭無忘告乃翁。

Thị nhi

Tử khứ nguyên tri vạn sự không,
Đãn bi bất kiến cửu châu đồng.
Vương sư bắc định Trung Nguyên nhật,
Gia tế vô vong cáo nãi ông.

Dịch nghĩa

Chết rồi muôn việc đều là không
Chỉ buồn không thấy chín châu về một mối
Ngày mà quân vua phương bắc định được Trung Nguyên
Lúc nhà cúng đừng quên khấn với cha

Dịch

Vốn biết chết rồi là hết chuyện,
Chín châu chỉ tiếc chửa sum vầy.
Ngày nào thu lại miền trung thổ,
Cúng bố đừng quên khấn bố hay.

梅雪爭春未肯降,
騷人評比費思量。
梅須遜雪三分白,
雪卻輸梅一段香。

Tuyết mai kỳ 1

Mai tuyết tranh xuân vị khẳng hàng,
Tao nhân bình tỷ phí tư lường.
Mai tu tốn tuyết tam phân bạch,
Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.

Dịch nghĩa

Mai và tuyết giành xuân với nhau chẳng bên nào chịu nhịn,
Làm cho thi nhân phải gác bút vì mất công bình phẩm.
Mai nên nhường ba phần trắng cho tuyết,
Tuyết phải chịu thua mai một phần về hương thơm.

Dịch

Giành xuân mai tuyết cứ tranh hoài
Bình phẩm nhà thơ những tốn lời
Sắc trắng vài phân mai kém tuyết
Hương thơm một bậc tuyết nhường mai.

有梅無雪不精神,
有雪無詩俗了人。
日暮詩成天又雪,
與梅並作十分春。

Tuyết mai kỳ 2

Hữu mai vô tuyết bất tinh thần,
Hữu tuyết vô thi tục liễu nhân.
Nhật mộ thi thành thiên hựu tuyết,
Dữ mai tịnh tác thập phần xuân.

Dịch nghĩa

Có mai mà không có tuyết thì cũng thiếu cái thần,
Có tuyết mà không có thi nhân thì cũng thành cõi tục.
Ngày tàn thơ vừa làm xong thì tuyết lại rơi nữa,
Cùng mai (thơ và tuyết) góp lại làm cho sắc xuân trọn vẹn.

Dịch

Có mai không tuyết thiếu tinh thần
Có tuyết không thơ tục khách xuân
Chiều tối thơ xong trời lại tuyết
Với mai, xuân vẹn cả mười phân.

蒼蒼竹林寺,
杳杳鐘聲晚。
荷笠帶斜陽,
青山獨歸遠。

Tống Linh Triệt thượng nhân

Thương thương Trúc Lâm tự,
Diểu diểu chung thanh vãn.
Hạ lạp đới tà dương,
Thanh sơn độc quy viễn.

Dịch nghĩa

Chùa Trúc Lâm xanh xanh
Chuông chiều nghe văng vẳng
Vai mang chiếc nón lá nhuộm ánh nắng xế
Một mình trở về núi xanh.

Dịch

Chùa xanh xanh rừng trúc
Chiều văng vẳng chuông kình
Nón sen vương bóng xế
Núi thẳm về một mình

回樂峰前沙似雪,
受降城外月如霜。
不知何處吹蘆管,
一夜征人盡望鄉。

Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I)

Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương
Bất tri hà xứ xuy lô quản
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.

Dịch nghĩa

Trước núi Hồi Nhạc cát trắng như tuyết
Ngoài thành Thụ Hàng ánh trăng như sương
Không biết tiếng sáo lau thổi ở nơi nào
Làm một đêm nay tất cả các kẻ chinh nhân đều nhớ về quê nhà.

Dịch

Cát in trước núi ngời như tuyết,
Trăng rọi bên thành trắng tựa sương.
Ai thổi sáo lau nghe văng vẳng,
Canh chầy chiến sĩ ngóng quê hương.

君問歸期未有期,
巴山夜雨漲秋池。
何當共翦西窗燭,
卻話巴山夜雨時。

Dạ vũ ký bắc

Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.

Dịch nghĩa

Bạn hỏi ngày về, chưa hẹn được ngày,
Mưa đêm núi Ba đầy tràn ao thu.
Bao giờ ở cửa sổ hướng tây, cùng nhau chong đèn,
Lại cùng trò chuyện về lúc mưa đêm ở núi Ba.

Dịch

Ngày về khó hẹn cho nhau,
Ba Sơn mưa tối hồ thu nước đầy
Bao giờ chung bóng song tây
Còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm!

桑條無葉土生煙,
簫管迎龍水廟前。
朱門幾處看歌舞,
猶恐春陰咽管弦。

Quan kỳ vũ

Tang điều vô diệp thổ sinh yên,
Tiêu quản nghênh long thuỷ miếu tiền.
Chu môn kỷ xứ khan ca vũ,
Do khủng xuân âm yết quản huyền.

Dịch nghĩa

Cành dâu trụi lá, đất bốc hơi
Trước miếu thờ thần nước, tiếng sáo nghênh đón long vương
Nhưng ở những nơi giàu có, ăn chơi, người ta mải múa hát
Lại sợ cái mát dịu ngày xuân làm lơi tiếng đàn sáo

Dịch

Trơ trụi cành dâu, khói đất xông
Cầu mưa mứa hát trước đền Rồng
Cửa son bao kẻ vào nghe nhạc
Sợ nhỡ trời râm, tiếng mất trong

適與野情愜,
千山高復低。
好峰隨處改,
幽徑獨行迷。
霜落熊升樹,
林空鹿飲溪。
人家在何許?
雲外一聲雞。

Lỗ Sơn sơn hành

Thích dữ dã tình khiếp,
Thiên sơn cao phục đê.
Hảo phong tuỳ xứ cải,
U kính độc hành mê.
Sương lạc hùng thăng thụ,
Lâm không lộc ẩm khê.
Nhân gia tại hà hứa?
Vân ngoại nhất thanh kê.

Dịch nghĩa

Vừa hay rất hợp với hứng rừng núi
Hàng nghìn đỉnh núi trập trùng
Đỉnh đẹp tuỳ nơi đứng mà thay đổi
Đường vắng đi một mình lòng lâng lâng
Sương xuống gấu trèo lên cây
Rừng vắng hươu xuống khe uống nước
Nhà dân ở đâu vậy?
Ngoài mây nghe tiếng gà gáy

Trên đây, phongnguyet.info đã dành tặng bạn những bài thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Nam Trân . Hy vọng các bạn sẽ hài lòng với bài viết này của chúng tôi. Hãy đồng hành cùng phongnguyet.info để cập nhật những bài viết hấp dẫn khác nhé! Thân Ái !

Viết một bình luận