Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần 1

Nhật ký trong tù là một tập thơ chữ Hán của nhà thơ Hồ Chí Minh. Tập thơ này gồm có 133 bài được viết theo thể đường luật. Đó là những sáng tác trong thời gian nhà thơ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Châu Trung Quốc. Nó chính là những cảnh sinh hoạt trong tù cũng như mang ý nghĩa tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài thơ hấp dẫn này ngay nhé!

無題
身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề (I)
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。

Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.

在足榮街被扣留
足榮卻使余蒙辱,
故意遲延我去程。
間諜嫌疑空捏造,
把人名譽白犧牲。

Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình.
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo,
Bả nhân danh dự bạch hy sinh.

Dịch nghĩa
Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta.
Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của người.

入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân

Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.

世路難
走遍高山與峻岩,
那知平路更難堪。
高山遇虎終無恙,
平路逢人卻被監。

余原代表越南民,
擬到中華見要人。
無奈風波平地起,
送余入獄作嘉賓。

忠誠我本無心疚,
卻被嫌疑做漢奸。
處世原來非易易,
而今處世更難難。

Thế lộ nan
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham,
Na tri bình lộ cánh nan kham.
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng,
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân,
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân.
Vô nại phong ba bình địa khởi,
Tống dư nhập ngụ tác gia tân.

Trung thành ngã bản vô tâm cứu,
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian.
Xử thế nguyên lai phi dị dị,
Nhi kim xử thế cánh nan nan.

Dịch nghĩa
Đi khắp non cao và núi hiểm,
Nào ngờ đường phẳng lại khó qua;
Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì,
Đường phẳng gặp người lại bị bắt!

Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam,
Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu;
Không dưng đất bằng nổi sóng gió,
Đưa ta vào làm “khách quý” trong tù.

Vốn trung thực thành thật, ta không có điều gì thẹn với lòng,
Thế mà bị tình nghi là Hán gian;
Việc xử thế vốn không phải là dễ,
Lúc này, xử thế càng khó khăn hơn.


太陽每早從牆上,
照著龍門門未開。
籠裡現時還黑暗,
光明卻已面前來。

早起人人爭獵虱,
八鐘響了早餐開。
勸君且吃一個飽,
否極之時必泰來。

Tảo
Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng,
Chiếu trước lung môn môn vị khai.
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám,
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.

Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt,
Bát chung hưởng liễu tảo xan khai.
Khuyến quân thả ngật nhất cá bão,
Bĩ cực chi thì tất thái lai.

Dịch nghĩa
Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường,
Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở;
Giờ đây trong lao còn đen tối,
Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt.

Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận,
Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu;
Khuyên anh hãy cứ ăn no,
Khổ đến tột cùng, vui ắt tới.


獄中午睡真舒服,
一睡昏昏幾句鐘。
夢見乘龍天上去,
醒時才覺臥籠中。

Ngọ
Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục,
Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung.
Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ,
Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung.

Dịch nghĩa
Trong nhà lao, giấc ngủ trưa thật khoan khoái,
Một giấc say sưa suốt mấy tiếng liền;
Mơ thấy cưỡi rồng bay lên trời,
Khi tỉnh dậy mới biết mình vẫn nằm trong ngục.

問話
社會的兩極,
法官與犯人。
官曰你有罪,
犯曰我良民。
官曰你說假,
犯曰我言真。
法官性本善,
假裝惡狺狺。
要入人於罪,
卻假意慇懃。
這兩極之奸,
立著公理神。

Vấn thoại
Xã hội đích lưỡng cực,
Pháp quan dữ phạm nhân.
Quan viết: nhĩ hữu tội,
Phạm viết: ngã lương dân.
Quan viết: nhĩ thuyết giả,
Phạm viết: ngã ngôn chân.
Pháp quan tính bản thiện,
Giả trang ác ngân ngân.
Yếu nhập nhân ư tội,
Khước giả ý ân cần.
Giá lưỡng cực chi gian,
Lập trước công lý thần.

Dịch nghĩa
Hai cực của xã hội,
Quan toà và phạm nhân;
Quan bảo: anh có tội,
Phạm nhân thưa: tôi dân lành;
Quan bảo: anh nói dối,
Phạm nhân thưa: tôi nói thật;
Quan toà tính vốn thiện,
Lại hầm hầm giả làm bộ ác;
Muốn khép người vào tội,
Lại ra vẻ ân cần;
Giữa hai cực này,
Có thần công lý đứng.

午後
二點開籠換空氣,
人人仰看自由天。
自由天上神仙客,
知否籠中也有仙。

Ngọ hậu
Nhị điểm khai lung hoán không khí
Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên
Tự do thiên thượng thần tiên khách
Tri phủ lung trung dã hữu tiên.

Dịch nghĩa
Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí,
Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do;
Khách thần tiên trên trời tự do,
Biết chăng trong tù cũng có tiên?


晚餐吃了日西沉,
處處山歌與樂音。
幽暗靖西禁閉室,
忽成美術小翰林。

Vãn
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Dịch nghĩa
Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây,
Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc;
Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây,
Bỗng thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ.

囚糧
每餐一碗紅米飯,
無鹽無菜又無湯。
有人送飯吃得飽,
沒人送飯喊爺娘。

Tù lương
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn,
Vô diêm vô thái hựu vô thang.
Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão,
Một nhân tống phạn hám gia nương.

Dịch nghĩa
Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ,
Không muối, không rau cũng chẳng canh;
Có người đem cơm, được ăn no,
Không người đem cơm, đói kêu cha kêu mẹ.

難友吹笛
獄中忽聽思鄉曲,
聲轉淒涼調轉愁。
千里關河無限感,
閨人更上一層樓。

Nạn hữu xuy địch
Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.

Dịch nghĩa
Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương,
Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn.
Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn,
Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu.

腳閘
猙獰餓口似兇神,
晚晚張開把腳吞。
各人被吞了右腳,
只剩左腳能屈伸。

世間更有離奇事,
人憫爭先上腳鉗。
因為有鉗才得睡,
無鉗沒處可安眠。

Cước áp
Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần,
Vãn vãn trương khai bả cước thôn.
Các nhân bị thôn liễu hữu cước,
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.

Thế gian cánh hưu ly kỳ sự,
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm.
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thuỵ,
Vô kiềm một xứ khả an miên.

Dịch nghĩa
Miệng đói dữ tợn như một hung thần,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Người nào cũng bị nuốt chân phải,
Chỉ còn chân trái co duỗi được thôi.

Trên đời lại có chuyện thật là kỳ,
Mọi người tranh nhau đến trước để cùm chân;
Vì có cùm chân mới được ngủ,
Không cùm chân thì không chỗ ngủ yên.

學奕棋
閑坐無聊學奕棋,
千兵萬馬共驅馳。
進攻退守應神速,
高才疾足先得之。

眼光應大心應細,
堅決時時要進攻。
錯路雙車也沒用,
逢時一卒可成功。

雙方勢力本平均,
勝利終須屬一人。
攻守運籌無漏著,
才稱英勇大將軍。

Học dịch kỳ
Nhàn toạ vô liêu học dịch kỳ,
Thiên binh vạn mã cộng khu trì;
Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,
Cao tài tật túc tiên đắc chi.

Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế,
Kiên quyết thời thời yếu tấn công.
Thác lộ song xa dã một dụng,
Phùng thời nhất tốt khả thành công?

Song phương thế lực bản bình quân,
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu trước,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.

Dịch nghĩa
Ngồi trong giam cấm buồn tênh, học đánh cờ,
Nghìn quân muôn ngựa cùng rong ruổi;
Tấn công, lui giữ đều phải thần tốc,
Tài cao, chân nhanh mới được nước trước.

Tầm nhìn phải rộng, suy nghĩ phải sâu,
Phải kiên quyết, luôn luôn tấn công;
Lạc nước, hai xe cũng thành vô dụng,
Gặp thời, một tốt có thể thành công.

Thế lực hai bên vốn ngang nhau,
Kết cục thắng lợi thuộc về một người;
Tính kế đánh hay giữ không sơ hở,
Mới xứng là bậc đại tướng anh dũng.

望月
獄中無酒亦無花,
對此良宵奈若何。
人向窗前看明月,
月從窗隙看詩家。

Vọng nguyệt
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch nghĩa
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

分水
每人分得水半盆,
洗面烹茶各隨便。
誰要洗面勿烹茶,
誰要烹茶勿洗面。

Phân thuỷ
Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn,
Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện.
Thuỳ yếu tẩy diện vật phanh tra,
Thuỳ yếu phanh tra vật tẩy diện.

Dịch nghĩa
Mỗi người được chia nửa chậu nước,
Rửa mặt hoặc đun trà, tuỳ ý mình;
Ai muốn rửa mặt, đừng đun trà,
Ai muốn đun trà, thôi rửa mặt

中秋
中秋秋月圓如鏡,
照燿人間白似銀。
家裡團圓吃秋節,
不忘獄裡吃愁人。

獄中人也賞中秋,
秋月秋風帶點愁。
不得自由賞秋月,
心隨秋月共悠悠。

Trung thu
Trung thu thu nguyệt viên như kính,
Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân.
Gia lý đoàn viên ngật thu tiết,
Bất vong ngục lý ngật sầu nhân.

Ngục trung nhân dã thưởng trung thu,
Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu.
Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt,
Tâm tuỳ thu nguyệt cộng du du!

Dịch nghĩa
Trăng trung thu tròn như gương,
Chiếu rọi cõi đời, ánh trăng trắng như bạc;
Nhà ai sum họp ăn tết trung thu,
Chẳng quên người trong ngục nuốt sầu.

Người trong ngục cũng thưởng thức trung thu,
Trăng thu, gió thu đều vương sầu;
Không được tự do ngắm trăng thu,
Lòng theo cùng trăng thu vời vợi.


民間賭博被官拉,
獄裡賭博可公開。
被拉賭犯常嗟悔,
何不先到這裡來。

Đổ
Dân gian đổ bác bị quan lạp,
Ngục lý đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phạm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lý lai!

Dịch nghĩa
Ngoài dân đánh bạc thì bị quan bắt,
Trong tù đánh bạc có thể công khai;
Con bạc bị tù thường hối tiếc:
Sao không sớm vào quách chốn này!?

賭犯
公家不給賭犯飯,
欲令他們悔前非。
硬犯餚饌天天有,
窮犯飢涎共淚垂。

Đổ phạm
Công gia bất cấp đổ phạm phạn,
Dục linh tha mẫn hối tiền phi.
“Ngạnh” phạm hào soạn thiên thiên hữu,
Cùng phạm cơ diên cộng lệ thuỳ.

Dịch nghĩa
Nhà nước không phát cơm cho tù cờ bạc,
Muốn cho họ hối cải lỗi trước;
Nhưng bọn tù sừng sỏ ngày nào cũng có cơm thịt,
Còn tù nghèo, đói chảy dãi cùng với nước mắt.

難友幕某
富家子弟貧家教,
賭膽如天膽似鍼。
車代炮財真偉大,
在囚仍想喫人葠。

Nạn hữu Mạc mỗ
Phú gia tử đệ, bần gia giáo,
Đổ đảm như thiên, đảm tự châm;
“Xa đại pháo tài”, chân vĩ đại,
Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Dịch nghĩa
Con cái nhà giàu mà nghèo giáo dục,
Gan đánh bạc to như trời mà mật thì nhỏ như cái kim;
Cái tài huênh hoang khoác lác thật là vĩ đại,
Ở tù nhưng vẫn tơ tưởng ăn nhân sâm.

難友原主任L
國家重托鎮邊陲,
胡乃忘公只願私。
鉹礦常從邊界去,
金錢爐裡鑄囚詩。

Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L
Quốc gia trọng thác trấn biên thuỳ,
Hồ nãi vong công chỉ nguyện tư?
Thế khoáng thường tòng biên giới khứ,
Kim tiền lô lý chú tù thi.

Dịch nghĩa
Nhà nước giao cho trọng trách coi giữ biên thuỳ,
Sao lại quên việc công, chỉ lo việc tư?
Quặng “ăngtimoan” thường tuồn qua biên giới,
Bởi thế, lò đúc tiền mới đúc ra bài thơ tù.

雙十日解往天保
家家結綵與張燈,
國慶歡聲舉國騰。
我卻今天被綁解,
逆風有意阻飛鵬。

Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo
Gia gia kết thái dữ trương đăng,
Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng.
Ngã khước kim thiên bị bang giải,
Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.

Dịch nghĩa
Nhà nào nhà ấy kết hoa và treo đèn,
Cả nước reo vui, mừng ngày quốc khánh.
Thế mà hôm nay ta bị trói giải đi,
Ngọn gió ngược cố ý cản đôi cánh chim bằng.

走路
走路才知走路難,
重山之外又重山。
重山登到高峰後,
萬里與圖顧盼間。

Tẩu lộ
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian.

Dịch nghĩa
Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác;
Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót,
Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.


倦鳥歸林尋宿樹,
孤雲慢慢度天空。
山村少女磨包粟,
包粟磨完爐已烘。

Mộ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch nghĩa
Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ.

夜宿龍泉
白天雙馬不停蹄,
夜晚嘗嘗五味雞。
虱冷乘機來夾擊,
隔鄰欣聽曉鶯啼。

Dạ túc Long Tuyền
Bạch thiên “song mã” bất đình đề,
Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”.
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích,
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.

Dịch nghĩa
Suốt ngày “đôi ngựa” không ngừng vó,
Đêm đến, lại từng nếm món “gà năm vị”.
Rệp và rét thừa cơ xông vào tập kích,
Mừng nghe xóm bên, chim oanh hót báo sáng.

田東
每餐一碗公家粥,
肚子時時在嘆吁。
白飯三元不鉤飽,
薪如桂也米如珠。

Điền Đông
Mỗi xan nhất uyển công gia chúc,
Đỗ tử thì thì tại thán hu.
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão,
Tân như quế dã mễ như châu.

Dịch nghĩa
Mỗi bữa được một bát cháo của nhà nước,
Cái bụng luôn luôn than phiền;
Cơm không ba đồng chẳng đủ no,
Củi đắt như quế, gạo như châu.

初到天保獄
日行五十三公里,
濕盡衣冠破盡鞋。
徹夜又無安睡處,
廁坑上坐待朝來。

Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Nhật hành ngũ thập tam công lý,
Thấp tận y quan phá tận hài.
Triệt dạ hựu vô an thuỵ xứ,
Xí khanh thượng toạ đại triêu lai.

Dịch nghĩa
Ngày đi năm mươi ba cây số,
Ướt hết mũ áo, rách hết giày;
Suốt đêm lại không có chỗ ngủ yên,
Ngồi trên hố xí đợi trời sáng.

難友之妻探監
君在銕窗裡,
妾在銕窗前。
相近在咫尺,
相隔似天淵。
口不能說的,
只賴眼傳言。
未言淚已滿,
情景真可憐。

Nạn hữu chi thê thám giam
Quân tại thiết song lý,
Thiếp tại thiết song tiền.
Tương cận tại chỉ xích,
Tương cách tự thiên uyên.
Khẩu bất năng thuyết đích,
Chỉ lại nhãn truyền nghiên.
Vị ngôn lệ dĩ mãn,
Tình cảnh chân khả liên!

Dịch nghĩa
Chàng ở trong song sắt,
Thiếp ở ngoài song sắt.
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực.
Miệng không thốt lên lời,
Chuyển lời nhờ khoé mắt.
Chưa nói nước mắt tràn,
Tình cảnh thật đáng thương!

各報:歡迎威基大會
同是中國友,
同是要赴渝。
君為坐上客,
我為階下囚。
同是代表也,
待遇胡懸殊。
人情分冷熱,
自古水東流。

Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội
Đồng thị Trung Quốc hữu,
Đồng thị yếu phó Du.
Quân vi toạ thượng khách,
Ngã vi giai hạ tù.
Đồng thị đại biểu dã,
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt,
Tự cổ thuỷ đông lưu.

Dịch nghĩa
Cùng là bạn Trung Hoa,
Cùng phải đi Trùng Khánh.
Anh là khách ngồi trên,
Tôi là tù dưới thềm.
Cùng là đại biểu cả,
Đối đãi sao quá khác biệt?
Thói đời thường phân ấm lạnh,
Từ xưa nước vẫn chảy về đông!

自勉
没有冬寒憔悴景,
將無春暖的輝煌。
災殃把我來鍛鍊,
使我精神更健強。

Tự miễn
Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện,
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Dịch nghĩa
Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt,
Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng;
Tai ương rèn luyện ta,
Khiến cho tinh thần ta càng thêm hăng hái.

Trên đây là các bài thơ viết trong tập Nhật ký trong tù của nhà thơ Hồ Chí Minh. Chính tập thơ này đã làm nên tên tuổi và sự nổi tiếng của nhà thơ. Nó cũng thể hiện được một con người khác của Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của một nhà thơ. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu và cảm nhận các bài thơ trong tập thơ đặc sắc này nhé! Đừng quên theo dõi những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cập nhật thơ hay bạn nhé!

Viết một bình luận