Bài thơ Trường Tương Tư vang danh đi cùng năm tháng của nhà thơ Bạch Cư Dị

汴水流,
泗水流,
流到瓜州古渡頭。
吳山點點愁。
思悠悠,
恨悠悠,
恨到歸時方始休。
月明人倚樓。

Trường tương tư (I)

Biện thuỷ lưu,
Tứ thuỷ lưu,
Lưu đáo Qua Châu cổ độ đầu.
Ngô sơn điểm điểm sầu.
Tứ du du,
Hận du du,
Hận đáo quy thời phương thuỷ hưu.
Nguyệt minh nhân ỷ lâu.

Dịch nghĩa

Sông Biện chảy mãi,
Sông Tứ chảy mãi,
Chảy tới đầu bến đò cũ ở Qua Châu.
Núi non ở Giang Nam, nơi nào (nghĩ tới) cũng khiến lòng buồn.
Nỗi nhớ miên man,
Lòng hận miên man,
Hận này tới khi nào trở về (gặp nhau) mới bắt đầu nguôi được.
Người tựa lầu (một mình chờ đợi) dưới trăng sáng.

Bạch Cư Dị là một thi sĩ vang danh của Trung Quốc. Thật không lạ gì nếu những thi phẩm của ông đều được những nhà thơ khác dịch lại. Tiêu biểu nhất chính là bài thơ Trường Tương Tư của ông. Hãy đón xem và cảm nhận nhé!

Bài dịch của Nguyễn Chí Viễn

Biện chảy mau,
Tứ chảy mau,
Chảy tới châu Qua cổ độ đầu.
Non Ngô điểm điểm sầu.
Nhớ rầu rầu,
Hận rầu rầu,
Hết hận khi nào gặp lại nhau.
Sáng trăng người tựa lầu.

Bài dịch của Nguyễn Thị Bích Hải

Sông Biện trôi,
Sông Tứ trôi,
Về bến Qua Châu nước chảy xuôi.
Non Ngô mấy ngậm ngùi.
Nhớ chơi vơi,
Hận chơi vơi,
Hận đến ngày về mới tạm nguôi.
Tựa lầu, trăng sáng soi.

Bài dịch của Trương Việt Linh

Dòng sông Biện,
Tứ lững lờ
Qua Châu đầu bến hững hờ nước trôi
Non Ngô bao mấy ngậm ngùi
Nhớ chơi vơi,
Hận chơi vơi
Đến ngày về lại mới nguôi hận lòng
Tựa lầu trăng sáng đợi mong

Bài dịch của Lại Quảng Nam

Biện thả trôi,
Tứ thả trôi,
Ghé Qua bến cũ một thời.
Núi Ngô điểm điểm góc trời buồn tuênh
Nhớ thuênh thuênh,
Sầu mông mênh,
Sầu về dừng đúng thuở đầu,
Đêm đêm trăng sáng dựa lầu nhìn trăng.

Trên đây là bài thơ Trường Tương Tư đặc sắc của nhà thơ Bạch Cư Dị. Thi phẩm này đã gây nên một tiếng vang lớn trong nền văn học Trung Quốc. Bài thơ đã mang tên tuổi của ông đến gần hơn với những bạn đọc yêu thơ. Hãy theo dõi và cảm nhận ngòi bút tài hoa của ông nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Viết một bình luận