Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng với kho tàng thơ ca đặc sắc, với lối thơ giản dị nhưng thấm đẫm tính triết lý. Thể hiện lòng yêu đất nước vô bờ bên. Nhắn nhủ thế hệ sau phải bảo vệ đất nước mình. Hãy cùng tiếp nối BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát phần 2 chúng ta đón xem phần 3 tại đây nhé!
Nội Dung
Song mấn tiêu tiêu bất tự tri,
Hương thôn chỉ điểm thị quy kỳ.
Mộc Miên điếm lý sương thu tảo,
Thiên Mã hồ biên nhật thướng trì.
Lân hữu hốt phùng kinh sác vấn,
Mẫu thân sạ kiến hỷ giao bi.
Bình sinh đa nạn kim trường hối,
Uý hướng gia nhân ngữ biệt ly.
Tác giả tự chú: “Ngã hương lộ nhập Trung Nghĩa lý môn tức quá Thiên Mã hồ bạn, vọng ngã gia cách viên nhĩ” (Đường về làng ta đi qua cổng làng Trung Nghĩa thì đến bờ hồ Thiên Mã, đứng đấy trông về nhà ta chỉ cách một khu vườn).
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Để ngụ bệnh trung giản chư hữu
Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian,
Phiền lung thê điểu vị tri hoàn.
Phùng thì dĩ hạnh ninh từ phú,
Nhập thế do đa cảm vọng nhàn.
Lão Đỗ khách tâm liên Cẩm thuỷ,
Tử Sơn thi hứng động giang quan.
Cựu du hảo tại liên đồng bệnh,
Phong vũ tương qua nhất phá nhan.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Long môn dược thuỷ tam thiên túng,
Bắc hải du côn vọng nhi khấp.
Bán nguyệt hồ đầu nhất dạ tiêu,
Sạ giác tiềm lân trạo ba lập.
Sứ quân diệu đắc Tôn gia pháp,
Mạo thuỷ hữu thần chỉ do thấp.
Tín thủ niêm thành hoạt lý ngư,
Sỉ khẩu ngang đằng ngưỡng thiên hấp.
Phiên thân dục dược thế như cấp,
Song nhãn huỳnh huỳnh nhĩ tập tập.
Mê ly nguyệt ảnh dạng bích y,
Tảo giám thiên trùng xuất kỳ liệp.
Ngư long biến hoá sự an tri,
Tứ hải phong vân hội hữu kỳ.
Như kim mạc trục cầm cao khứ,
Lưu dữ nhân gian tác vũ sư.
Sứ quân là tên gọi khác của chức thứ sử ngày xưa, là quan cai trị một quận, châu hoặc huyện. Phụng Tá hiện chưa rõ ở đâu.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Đề sát viện Bùi công “Yên Đài anh ngữ” khúc hậu
Hành, Nhạc, Thái Hàng thiên hạ sơn,
Hoàng Hà, Giang, Hán thiên hạ thuỷ.
Thuỳ khiển tam xích thằng sàng gian,
Điệp điệp trùng trùng kiến lưu trĩ.
Thử trung vô số thánh hiền hào,
Dữ ngã lai vãng tận tri kỷ.
Bệnh trung hốt toạ, toạ hốt khỉ (khởi),
Hạp ngô lưỡng mục, bế ngô nhĩ.
Trừng thần địch lự mặc dĩ du,
Nhược thân ngô lịch, túc ngô lý.
Khởi dư giả thuỳ? Bùi sứ quân!
Cước để giang sơn vạn dư lý.
Quy lai mãn phúc trữ đồ thư,
Đốt đốt nam nhi chân khoái sự!
Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự.
Hữu như xích hoạch lượng thiên địa,
Tự tòng phiếm hải lịch Ba Sơn.
Thuỷ giác lục hợp hà mang mang!
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí!
Thế gian thuỳ thị chân nam tử,
Uổng cá bình sinh độc thư sử.
Yên Đài sứ giả lão thế đồ,
Thượng học anh ngôn dục hà xĩ?
Quân bất kiến:
Cao ngoạ thất trung quyện du sĩ,
Tứ bích danh sơn lạn như ỷ.
Cầm, Hướng cao tung mịch bất phan,
Nhất danh cơ bạn trường như thử!
Ô hô!
Nhất danh cơ bạn trường như thử,
Bạch phát, thanh bào, ngô lão hĩ!
Bùi công tức Bùi Ngọc Quý (1769-1861), người huyện Tiên Lữ, trấn Sơn Nam (nay là Hải Hưng), đỗ cử nhân khoa Mậu Tí (1828), tiến sĩ khoa Kỷ Sửu đời Minh Mệnh (1829), làm tổng đốc Bình Phú, năm Tự Đức thứ nhất (1848) đi sứ nhà Thanh. Ông để lại tập Yên Đài anh ngữ và nhiều văn thơ khác.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Húc nhật ái cao tễ,
Xuân phong phiến vi hoà.
Ấp nãi tây tịch quang,
Huống tại thanh hưng đa.
Cư thử dĩ vong lự,
Khách lai thìn hạo ca.
Chủ nhân năng bất yếm,
Ngã diệc sổ tương qua.
Trần Thận Tư học quán là nơi dạy học của Trần Văn Vi, tự Thận Tư, bạn thân của tác giả. Ông người làng Đông Các, huyện Thọ Xương, Hà Nội, đỗ cử nhân khoa Ất Dậu đời Minh Mệnh (1825), có tập thơ “Hoài ông thảo”.
Phương Đình là hiệu của Nguyễn Văn Siêu (1796-1872), còn có hiệu Thọ Xương cư sĩ, tự Tốn Ban, người xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, sau ở phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương. Ông đỗ phó bảng năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), từng giữ các chức Hàn lâm viện kiểm thảo, Viên ngoại lang bộ Lễ, Nội các thừa chỉ, Thị giảng học sĩ.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Nhị hy ngự bất khả hệ,
Tang du hàng phục tà.
Ư thì bất tự thưởng,
Nại thử đình tiền hoa.
Xuất môn giai hữu dịch,
Đắc ý chính vô nhai.
Đối cảnh thả di duyệt,
Ninh luân thuỳ thị gia?
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Tần tần danh vị liễu,
Cốt cốt ý hà cùng.
Đường tứ phi cầu mã,
Si hao kỳ tại lung.
Thân tâm tứ dân lý,
Bần phú bách niên trung.
Đắc thú bản vô thú,
Tương ưng bỉ thị đồng.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Lão thụ toàn giai cổ,
Hồng liên ỷ bích sơ.
Hướng phong chi thuý cán,
Đắc nguyệt tả kim cừ.
Thắng chính lục quan sắt,
Tranh danh thiên lý ngư.
Khu khu tương thưởng thích,
Hữu mỹ khả hoạt chư.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Bất vũ xuân giang dạ,
Vô vân thuỷ thượng thôn.
Cố nhân ưng đắc nguyệt,
Trĩ tử thả nghinh môn.
Xán xán cao trai yến,
Sân sân quân tử ngôn.
Tri phi hình dịch giả,
Tảo lý vị vu viên.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Toạ hữu bằng lai lạc,
Tôn vô tửu tận sầu.
Chủ nhân đa khoản khúc,
Giáp đệ tối phong lưu.
Thuỳ tiện thiên kim tán,
Tương khan nhất tuý hưu.
Chỉ kim lai vãng thục,
Do tác mộng trung du.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Thử gian hữu tùng cúc,
Nhật tịch thuỳ dư âm.
Tích văn Đào Bành Trạch,
Ký hứng thanh ngoại cầm.
Đình kha hoàn độc miện,
Thi bằng thìn hạp trâm.
Tà Xuyên đắc thanh diểu,
Tích ngụ tương dữ ngâm.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Phi lai nhất phong tú,
Tiêm tước thuỳ không đình.
Bích tuyền trạm bất lưu,
Gia mộc phân dĩ thanh.
Đối thử phục tự thích,
Hoan thưởng na khả đình.
Độc du hứng vị hợp,
Cánh quy tầm túc minh.
Dịch nghĩa
Một chóp núi rậm đẹp bay đến
Nhọn hoắt rũ xuống sân trống trơn
Khe biếc dừng không chảy
Lộn xộn cây họ mộc khe màu xanh tươi tốt
Trước cảnh ấy lại tự thích nghi
Vui mừng thưởng ngoạn dừng sao được?
Đi chơi một mình hứng thú chưa nhiều
Theo lời hẹn lại tìm đến bạn ngủ một tối
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Liên diệp tư công tử,
Mai hoa đãi thuỷ tào.
Phương Đình lai dã vị,
Thi tửu dục thô hào.
Độc chước nan vi tuý,
Tân ca bất yếm cao.
Thìn thìn năng kiến quá,
Hà thí thắng thuần dao.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Hoàng hoàng thuỷ tinh trản,
Chiếu kiến thốn tâm minh.
Thiếp tính nhậm sở tao,
Phi thủ bạc thế vinh.
Tú sắc mãn tường hoa,
Xảo ngôn chi thượng oanh.
Khủng nhĩ biến phương tiết,
Toạ hữu xuân phong sinh.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Đắc hữu hân giai thưởng,
Truy phan sấn tiện đồng.
U lan sinh toạ phức,
Tân mính nhập bôi hồng.
Thất tĩnh đương trung ẩn,
Tân thanh tự tiểu đồng.
Bồi hồi chung nhật ý,
Thi hứng dục phiên không.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Tích du vô kế phục đăng lâu,
Tà ỷ lan can vọng bích lưu.
Quân diệc đa tình đáo yên thuỷ?
Ngã do di hận mãn đinh châu!
Nhật tà thiên địa song bồng mấn,
Xuân tĩnh giang hồ nhất bạch âu.
Dao tưởng đương niên hành lạc xứ,
Tàn hoa do tự cố cung đầu…
Nguồn: Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, 1968
Đề Trấn Vũ quán thạch bi
“Sản khước đông biên quách cánh nghi”,
Tuý lai ngô tự vịnh ngô thi.
Tráng du vô ná thương xuân mục,
Thế sự hà kham một tự bi.
Trúc Bạch hồ đầu vân mịch mịch,
Thái Hoà cung ngoại thảo ly ly.
Vãn phong tà chiếu bất quy khứ,
Tản phát nguy kiều tiếu tự tri.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Cưỡng niêm tôn tửu uỷ phương triêu,
Giang quốc đoan dương chính tịch liêu.
Mạc mạc gia hương lưỡng thân cách,
Thê thê ky hoạn nhất huynh dao.
Cát y vị tứ niên không trưởng,
Hao ngải trùng lai mộng ám tiêu.
Dục điếu Tương luy hà xứ vấn,
Lữ hồn phiêu bạc định thuỳ chiêu.
Đoan dương tức tết đoan ngọ. Xưa Khuất Nguyên gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn, sau cứ đến ngày này người ta làm lễ chiêu hồn ông.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Bắc vọng thiên dư lý,
Nam lai ngũ lục niên.
Khách tâm kinh tuế nguyệt,
Quy mộng trở sơn xuyên.
Chẩm khúc duy tu tuý,
Tư lan dã tự nghiên.
Tương tỳ uổng tri thức,
Tiết nhật cánh lưu liên.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Nhất phong tân mính sổ hàng thư,
Điều đệ nhân nhân ký trích cư.
Báo đạo tiên sinh do kiện tại,
Nam song vân nguyệt tiếu đàm dư.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Vị tử tương phùng thị hạnh nhân,
Cánh vi thử biệt lệ triêm cân.
Cố ưng kê hạc đồng lâu địa,
Cộng chứng phong ba hiện tại thân.
Dữu Lý tháo thành di khổ điệu,
Tỳ bà khúc bãi tỉnh cô thần.
Lạc hoa thì tiết quân tu ký,
Xuân mãn Giang Nam vô hạn xuân.
Nguyên chú: “Tính cố để hạ lê viên xung thị vệ, đắc trích” (Ông Tính nguyên là phường hát cũ trong cung vua, xung chức thị vệ, bị lỗi phải đổi đi xa).
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Vũ sắc phong khan chân tác thái,
Thảo trường vân viễn mạn sinh sầu.
Cố hương tưởng động kinh niên biệt,
Dị khách phiên đa thử địa du.
Ngạn thế phách sơn liên bắc khứ,
Giang hồ tiếp hải nhập tây phù.
Thanh khan nhất khả yên ba ngoại,
Hà thí nhân gian vạn hộ hầu.
Sông Chế chảy qua làng Tam Chế, Nghệ An.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Giang tận My Luân khẩu,
Thiên phân Trực Lệ doanh.
Mộ phong thương hải lập,
Tà nhật loạn sơn hành.
Đoản tiếu di hoa thái,
Vi ngâm kích điểu thanh.
Quá quan hồn dục tận,
Bán giảm cố hương tình.
Các địa danh My Luân và Trực Lệ hiện chưa rõ ở đâu.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Nhật nhật duy sầu thử,
Tiêu tiêu khước phạ hàn.
Đồ thư di bất định,
Khâm chẩm ngoạ thường đan.
Sương ám thiên thôn lý,
Phong hào vạn mộc đoan.
Tục tình nan tự khiển,
Đa bệnh độc bàn hoàn.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Thành thị huyên ty địa,
Càn khôn lão bệnh phu.
Tê cung thành nhũng thặng,
Bích tích thả nê đồ.
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỷ vi nho.
Dịch nghĩa
Thành thị ở nơi thấp mà ồn,
Một gã già ốm giữa trời đất.
Tí vụn tự trở nên thừa thãi rầy rà,
Che dấu vết hãy chịu bôi bùn.
Rét và lụt phát sinh liên tiếp,
Cảnh huống dân đen chịu tai ương chưa hồi phục.
Đời thái bình (mà) không một sách lược,
(Chịu) tầm thường hổ thẹn làm nhà nho.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Tân trướng sinh tàn dạ,
Sơ hàn tống miểu thu.
Tuế thời song bệnh nhãn,
Thiên địa nhất thi tù.
Ỷ chẩm khan trường kiếm,
Hô đăng kiểm tệ cừu.
Cưỡng liên tâm lực tại,
Cơ ngoạ bất câm sầu
Bình sinh tính tích tự đam ngâm,
Du biến thiên nhai mỗi bất câm.
Phế lộc ngẫu phi thường phủ bễ,
Tiêu đồng thuỳ thưởng độc luân tâm.
Nhàn đa trọc tửu tiêu ma dị,
Khách cửu danh sơn mộng mị thâm.
Vị tạ cô đăng cựu tương chiếu,
Nhất xuân nhân sự đáo như câm (kim).
Dịch nghĩa
Cả đời tính ưa cô tịch lại đam mê ngâm vịnh,
Mỗi việc không cấm nổi là dạo chơi khắp chân trời.
Ngẫu nhiên lục bồ sách cũ thường vỗ đùi,
Ai thưởng thức tiếng gỗ ngô đồng cháy sém chỉ bàn tâm sự.
Rảnh rỗi chén rượu chưa lọc cũng dễ làm khuây khỏa (nỗi niềm),
Sống lâu nơi đất khách, các núi nổi tiếng đã in sâu vào mộng mị.
Cảm tạ ngọn đèn lẻ loi soi nhau từ xưa,
Người và việc một mùa xuân (nữa) lại đến như lúc này.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Tàn canh vô thuỵ lậu trầm trầm,
Úng để dư phôi tuý hựu châm.
Đoản kỷ độc khan tam phú thảo,
Cô đăng tự chiếu thập niên tâm.
Bệnh liên Lão Đỗ cùng thiên sấu,
Học ái Xương Lê vãn cánh thâm.
Khước thiểu bằng song tối u ý,
Khởi chiêm tinh hán lạc đình âm.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Hỗn tích phong trần lý,
Viện thâm trường bế quynh.
Dưỡng ngã thủ chuyết tâm,
Khoáng nhược viễn thế hình.
Tịch mịch Tử Vân cư,
Không sàng lão nhất kinh.
Triển chuyển ngã sở tứ,
Như tuý phục như tinh.
Niệm thiện phú “Tang hỗ”,
Hoài hiền ca “Thấp linh”.
Thiên tải thuỳ tự âm,
Khái dục vọng điển hình.
Nhật nhập quần động tức,
Thiên cao dạ mịch mịch.
Hạ hữu bất miên nhân,
Thượng hữu dục lạc tinh.
Kê thê uý bà sa,
Cô lan ám kỳ hinh.
Liêu vị không ngoại âm,
U hưởng dục thuỳ thinh.
Bạch á hoàng dao nhiễu tửu bôi,
Vũ thoa tranh khán đạo nhân lai.
Y nhiên cựu kiến giao tân kiến,
Tích dã năng khai thả bán khai.
Phủ Lý yên ba thu tiệm lão,
Huệ Châu sương tuyết khách sơ hồi.
Cố viên bắc vọng tri vô ná,
Do ký đình tiền tự thủ tài.
Chuyết Hiên họ Nguyễn, bạn của tác giả. Cao Bá Quát có 9 bài thơ nhắc tới.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Bạo vũ khuynh thiên lậu,
Phi đào táp địa lai.
Thế liên giang sắc tráng.
Thanh nhập dạ phong ai.
Xích nhật hành hà đạo?
Thương sinh thán kỷ hồi?
Khách tình ngâm vọng viễn,
Thu khí chính tương thôi.
Dịch nghĩa
Mưa dữ như nghiêng trời đổ nước xuống
Sóng tung toé tràn ngập mặt đất
Một màu liền với dòng sông, thế trông rất mạnh
Tiếng reo hoà với gió đêm nghe càng ai oán
Mặt trời đỏ lẩn đi đằng nào
Để dân đen than thở mãi
Nỗi lòng khách chỉ những ngâm nga và ngóng trông
Chính là lúc hơi thu đang giục giã
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Đối vũ kỳ nhị tiễu bích thê tu dẫn,
Cao giai phún phục tuyền.
Bạch minh không ngoại điểu,
Thanh phá vãn lai yên.
Tuế nguyệt vi trường toạ,
Giang sơn bế độc miên,
Âm vân thuỳ xúc nhữ?
Thiên bán thượng du nhiên.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Đài cổ báo sơ canh,
Sa biên túc khả hoành.
Viễn phong do hải khí,
Quá vũ phục giang thanh.
Ỷ trạo khán vân quyển,
Hàm bôi đãi nguyệt minh.
Khách tâm dữ xuân ý,
Vô hạn nhất thì sinh.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Nhược lãm nguy can tố lãng trì,
Cao sư thôi hoán bạc tiền ky.
Sa hồi giang tự sầu trường khúc,
Mộ tĩnh phong như tửu lực vi.
Dị địa bất cầm Vương Xán cảm,
Đương niên thuỳ phóng Thái Ung quy.
Đồng du mạn thán tương phùng vãn,
Tiễn chúc luận tâm lệ tiễn y.
Bùi nhị Minh Trọng tức tôn thất Bùi Minh Trọng, bạn thân của tác giả. Sông Trà tức sông Trà Khúc, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Thiên đáo Trà sơn hiểu,
Nhân như Điện thuỷ thanh.
Thi hoài thiên lý cộng,
Phong lực nhất phàm khinh.
Hồ hải thuỳ đồng mộng,
Yên ba ngã thử hành.
Ứng Chân động lý thạch,
Khả đắc chứng tam sinh.
Dịch nghĩa
Đến Trà sơn trời mới sáng ra,
Người trong (sáng) như nước sông Vĩnh điện.
Thơ ôm theo lòng từ nghìn dặm,
Sức gió làm nhẹ một lá buồm.
Ai cùng mộng hồ hải?
Ta thuộc hàng khói sóng.
Đá trong động Ứng chân,
Có khả năng được chứng quả ba kiếp.
Trên đây, Chúng tôi đã cập nhận được một phần nào đó kho tàng thơ ca của Cao Bá Quát. Mời các bạn đón xem phần 4. Xin cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!