Văn thơ Victor Hugo với nhiều chủ đề khác nhau mang tính đạo đức và chính trị của cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại. Cùng chúng tôi tham khảo các tập thơ nổi tiếng của ông nhé.
Nội Dung
Ngày 13-3-1871, con trai 44 tuổi của tác giả là Charles mất, ít lâu sau vợ của Charles cũng qua đời. Tác giả trở thành người chăm nuôi các cháu Georges và Jeanne Hugo. Tập thơ bao gồm các tác phẩm ông viết trong những năm cuối đời.
Bruxelles. – Nuit du 27 Mai
 Je regardai.
 Je vis, tout près de la croisée,
 Celui par qui la pierre avait été lancée;
 Il était jeune; encor presque un enfant, déjà
 Un meurtrier.
Jeune homme, un dieu te protégea,
 Car tu pouvais tuer cette pauvre petite!
 Comme les sentiments humains s’écroulent vite
 Dans les coeurs gouvernés par le prêtre qui ment,
 Et comme un imbécile est féroce aisément!
 Loyola sait changer Jocrisse en Schinderhanne,
 Car un tigre est toujours possible dans un âne.
 Mais Dieu n’a pas permis, sombre enfant, que ta main
 Fit cet assassinat catholique et romain;
 Le coup a manqué. Va, triste spectre éphémère,
 Deviens de l’ombre. Fuis! Moi, je songe à ta mère.
 Ô femme, ne sois pas maudite! Je reçois
 Du ciel juste un rayon clément. Qui que tu sois,
 Mère, hélas ! quel que soit ton enfant, sois bénie!
 N’en sois pas responsable et n’en sois pas punie!
 Je lui pardonne au nom de mon ange innocent!
 Lui-même il fut jadis l’être humble en qui descend
 L’immense paradis, sans pleurs, sans deuils, sans voiles,
 Avec tout son sourire et toutes ses étoiles.
 Quand il naquit, de joie et d’amour tu vibras.
 Il dormait sur ton sein comme Jeanne en mes bras;
 Il était de ton toit le mystérieux hôte;
 C’était un ange alors, et ce n’est pas ta faute,
 Ni la sienne, s’il est un bandit maintenant.
 Le prêtre, infortuné lui-même, et frissonnant,
 À qui nous confions la croissance future,
 Imposteur, a rempli cette âme d’imposture;
 L’aveugle a dans ce coeur vidé l’aveuglement.
 À ce lugubre élève, à ce maître inclément
 Je pardonne; le mal a des pièges sans nombre;
 Je les plains; et j’implore au-dessus de nous l’ombre.
 Pauvre mère, ton fils ne sait pas ce qu’il fait.
 Quand Dieu germait en lui, le prêtre l’étouffait.
 Aujourd’hui le voilà dans cette Forêt-noire,
 Le dogme! Ignace ordonne; il est prêt à tout boire,
 Le faux, le vrai, le bien, le mal, l’erreur, le sang!
 Tout! Frappe ! il obéit. Assassine! il consent.
 Hélas ! comment veut-on que je lui sois sévère ?
 Le sommet qui fait grâce au gouffre est le Calvaire.
 Mornes bourreaux, à nous martyrs vous vous fiez;
 Et nous, les lapidés et les crucifiés,
 Nous absolvons le vil caillou, le clou stupide;
 Nous pardonnons. C’est juste. Ah! ton fils me lapide,
 Mère, et je te bénis. Et je fais mon devoir.
 Un jour tu mourras, femme, et puisses-tu le voir
 Se frapper la poitrine, à genoux sur ta fosse!
 Puisse-t-il voir s’éteindre en lui la clarté fausse,
 Et sentir dans son coeur s’allumer le vrai feu,
 Et croire moins au prêtre et croire plus à Dieu!
 Ta mải nhìn. Bỗng gần ngã ba
 Một hòn đá lớn quăng vụt qua
 Tên ném đá còn như thằng nhóc
 Ly nữa là giết cháu Jan ta
Cậu bé! Hẳn được thần linh phù hộ
 Nếu không, cháu ta giờ đã yên trong mộ!
 Mới biết tình người sụp đổ rất mau
 Trong trái tim mà thầy tu dối trá đỡ đầu
 Mới biết kẻ ngu dễ thành hung hãn!
 Thánh Loay-ô-la có phép màu biến tên hề thành tàn nhẫn
 Bởi con lừa luôn có nguy cơ hoá chúa núi rừng
 Cậu bé tối tăm! Chúa lòng lành chẳng thể ưng
 Để bàn tay ngươi nhúng vào tội ác
 Ngươi ném trượt. Hỡi bóng ma thoáng hiện, bước ngay chỗ khác
 Ngươi hãy là bóng đêm. Biến ngay. Ta nghĩ tới mẹ ngươi
 Hỡi bà mẹ, với bà không ai nỡ tâm nguyền rủa nặng lời!
 Từ trời đất công minh, ta nhận được ánh quang dung thứ
 Dù bà là ai, con bà ra sao, ta vẫn vì bà mà cầu Chúa!
 Nhân danh thiên thần trong trắng cháu ta
 Ta tha thứ cho thằng con quý nhà bà!
 Trước đây, nó cũng là sinh linh hèn mọn
 Mang xuống cõi trần một thiên đường mênh mông không lệ, không tang, không khăn mạng
 Cùng với nụ cười và trọn trời sao
 Khi bé con ra đời, lòng yêu thương vui sướng dạt dào
 Bà ru con, như trong tay cháu Jan ta vẫn ngủ
 Trong nhà bà lúc đó, nó là người khách mang ẩn số
 Khi ấy nó là thiên thần
 Hay bây giờ suýt thành kẻ sát nhân
 Lầm lỗi đâu ở nó?
 Lầmm lỗi ở bà ư? Đâu có!
 Gã tu hành được trao thế hệ tương lai
 Cũng là người bất hạnh sợ run hoài
 Quen lừa phỉnh, y dạy con bà lừa phỉnh
 Tên mù quáng làm tim con bà cạn sạch ngại ngần suy tính
 Ta tha thức cho cả thầy trò nghiệt ngã thảm sầu
 Điều ác thiếu chi cạm bẫy nhiệm mầu
 Ta thương chúng và cầu xin bóng râm ngự trên trần giới
 Bà mẹ đáng thương ơi, con bà đâu biết việc mình làm là tội lỗi
 Chúa gieo mầm trong trẻ, kẻ tu hành đã triệt mầm liền
 Thấy không, còn bà lạc lõng chốn Rừng-đen
 Ôi giáo lý! Thánh I-nhát phán truyền, con bà sẵn sàng uống tất
 Thật, giả, sai lầm, máu đỏ và những điều thiện ác!
 Đánh tất cả! Nó làm theo. Giết người đi! Nó thừa hành
 Ôi! Ta nghiệt với nó sao đành?
 Đỉnh tha thứ cho vực thẳm là nơi Chúa bị đóng đinh vì truyền giáo
 Lũ đao phủ tối tăm, bay rình mò người tuẫn đạo
 Còn chúng ta, bị đóng đinh hay bị ném càn
 Chúng ta tha cho chiếc đinh ngớ ngẩn, cho hòn đá thấp hèn
 Chúng ta tha thyứ. Vâng, đúng thế. Con bà ném trộm
 Ta vẫn cầu cho bà. Phận ta giữ trọn
 Mong một ngày kia bà sẽ thấy, lúc lìa trần
 Bên nấm mồ con bà đấm ngực, quỳ lê sám hối ăn năn!
 Mong ánh sáng giả trong y rồi sẽ tắt
 Trong tim y sẽ bùng lên tia lửa thật
 Y giảm tim gã tu hành để tin Chúa nhiều hơn!
Le pot cassé
 Ô ciel! toute la Chine est par terre en morceaux!
 Ce vase pâle et doux comme un reflet des eaux,
 Couverts d’oiseaux, de fleurs, de fruits, et des mensonges
 De ce vague idéal qui sort du bleu des songes,
 De ce vase unique, étrange, impossible, engourdi,
 Gardant sur lui le clair de lune en plein midi,
 Qui paraissait vivant, où luisait une flamme,
 Qui semblait presque un monstre et semblait presque une âme,
 Mariette, en faisant la chambre, l’a poussé
 Du coude par mégarde, et le voilà brisé!
 Beau vase! Sa rondeur était de rêves pleine,
 Des bœufs d’or y broutaient des prés de porcelaine.
 Je l’aimais, je l’avais acheté sur les quais,
 Et parfois aux marmots pensifs je l’expliquais.
 Voici l’Yak; voici le singe quadrumane;
 Ceci c’est un docteur peut-être, ou bien un âne;
 Il dit la messe, à moins qu’il ne dise hi-han;
 Ça c’est un mandarin qu’on nomme aussi kohan;
 Il faut qu’il soit savant, puisqu’il a ce gros ventre.
 Attention, ceci, c’est le tigre en son antre,
 Le hibou dans son trou, le roi dans son palais,
 Le diable en son enfer; voyez comme ils sont laids!
 Les monstres, c’est charmant, et les enfants le sentent.
 Des merveilles qui sont des bêtes les enchantent.
 Donc, je tenais beaucoup à ce vase. Il est mort.
 J’arrivai furieux, terrible, et tout d’abord:
 — Qui donc a fait cela? criai-je. Sombre entrée!
 Jeanne alors, remarquant Mariette effarée,
 Et voyant ma colère et voyant son effroi,
 M’a regardé d’un air d’ange, et m’a dit: — C’est moi.
Trời! Cả xứ Giang Tây giờ trăm mảnh!
 Trên nền gạch, bình vỡ tan tành!
 Khi dọn buồng, Mari vô tình đụng mạnh
 Chiếc bình mờ dịu như ánh nước xanh
 Chiếc bình vẽ chim muông, hoa quả, và những điều bịa đặt
 Rút từ ý mơ hồ những giấc mơ tím ngát
 Chiếc bình vô song, lạ kỳ, vô lý, đẫn đờ
 Toả ánh trăng vào lúc đang trưa
 Bình dường đang sống, đang bừng lửa cháy
 Gần như một linh hồn, lại gần như ma quái
 Bình tuyệt đẹp! Nét cong đầy giấc mơ
 Những bò vàng gặm đồng cỏ sứ mờ
 Tôi thích nó và mua tại hiệu bên sông lớn
 Đây là đại bàng, đây là khỉ bốn tay
 Cái này có lẽ là ông tiến sĩ, hay con lừa đây
 Y giảng đạo hay làm trò gì đó
 Cái này là viên quan cũng gọi là cu-an, âm rất lố
 Chắc y là bác học vì có bụng phình
 Chú ý, đây con hổ trong hang một mình
 Con cú trong tổ, tên vua nơi lâu đài tráng lệ
 Con quỷ trong địa ngục, quả chúng nom xấu tệ!
 Quái vật thật mê ly, bọn trẻ cũng hiểu lờ mờ
 Chúng thích những con quái là động vật to
 Vậy thì tôi quý chiếc bình lắm lắm!
 Giờ nó đã ra ma! Tôi hầm hầm quát mắng:
 “Ai làm vỡ!” Quả là căng thẳng!
 Nhận thấy Mari sợ hết hồn
 Mà tôi thì giận dữ tới mất khôn
 Jeanne nhìn tôi, thiên thần nơi ánh mắt:
 “Cháu! Cháu xin ông!”
Georges et Jeanne (extrait)
 Moi qu’un petit enfant rend tout à fait stupide,
 J’en ai deux; George et Jeanne; et je prends l’un pour guide
 Et l’autre pour lumière, et j’accours à leur voix,
 Vu que George a deux ans et que Jeanne a dix mois.
 Leurs essais d’exister sont divinement gauches;
 On croit, dans leur parole où tremblent des ébauches,
 Voir un reste de ciel qui se dissipe et fuit;
 Et moi qui suis le soir, et moi qui suis la nuit,
 Moi dont le destin pâle et froid se décolore,
 J’ai l’attendrissement de dire: Ils sont l’aurore.
 Leur dialogue obscur m’ouvre des horizons;
 Ils s’entendent entr’eux, se donnent leurs raisons.
 Jugez comme cela disperse mes pensées.
 En moi, désirs, projets, les choses insensées,
 Les choses sages, tout, à leur tendre lueur,
 Tombe, et je ne suis plus qu’un bonhomme rêveur.
 Je ne sens plus la trouble et secrète secousse
 Du mal qui nous attire et du sort qui nous pousse.
 Les enfants chancelants sont nos meilleurs appuis.
 Je les regarde, et puis je les écoute, et puis
 Je suis bon, et mon coeur s’apaise en leur présence;
 J’accepte les conseils sacrés de l’innocence,
 Je fus toute ma vie ainsi; je n’ai jamais
 Rien connu, dans les deuils comme sur les sommets,
 De plus doux que l’oubli qui nous envahit l’âme
 Devant les êtres purs d’où monte une humble flamme;
 Je contemple, en nos temps souvent noirs et ternis,
 Ce point du jour qui sort des berceaux et des nids.
Một cháu đủ làm tôi thành ngốc
 Tôi có hai: Cháu Georges, cháu Jeanne
 Jeanne mười tháng, Georges hai năm
 Một làm hướng đạo, một làm đèn soi
 Khi các cháu gọi tôi, tôi đến
 Đường tuổi thơ tập tễnh chơi vơi
 Bi bô nói chửa nên lời
 Tưởng trong lời nói mảng trời đang tan
 Tôi là buổi chiều tàn bóng tối
 Số phận đang lạnh tái, mờ phai
 Lòng vui khi được cất lời:
 Các cháu là ánh mặt trời hừng đông!
 Lời các cháu, tuy không nghe rõ
 Làm cho tôi thấy mở chân trời
 Nghe ra hợp ý hiểu lời
 Mà lòng tôi thấy thảnh thơi nhường nào!
 Bao ý nghĩ, ước ao, suy tính
 Dù đúng sai, cũng biến thành tro
 Dưới tia sáng dịu tuổi thơ
 Ông già mơ mộng, thẫn thờ là tôi
 Mặc số phận cuộc đời oan trái
 Tôi chẳng còn nhiều nỗi bi ai
 Các cháu tuy bước chơi vơi
 Lại là chỗ dựa tuyệt vời cho tôi
 Nhìn các cháu, nghe lời chúng nói
 Hồn thơ ngây đem lại lời khuyên
 Đời tôi trở lại bình yên
 Tâm hồn thanh thản, con tim hiền hoà
 Dù ở đỉnh vinh quang tột bậc
 Hay ở trong tang tóc thương đau
 Bao giờ vơi được sầu bi
 Như là ông cháu bên nhau lúc này
 Hồn các cháu ngây thơ trong trắng
 Bừng lên như tia nắng dịu êm
 Tôi nhìn trong lúc tối đen
 Vầng hồng mọc tự tổ chim nôi người
La sieste
 Elle fait au milieu du jour son petit somme;
 Car l’enfant a besoin du rêve plus que l’homme,
 Cette terre est si laide alors qu’on vient du ciel!
 L’enfant cherche à revoir Chérubin, Ariel,
 Ses camarades, Puck, Titania, les fées,
 Et ses mains quand il dort sont par Dieu réchauffées.
 Oh! comme nous serions surpris si nous voyions,
 Au fond de ce sommeil sacré, plein de rayons,
 Ces paradis ouverts dans l’ombre, et ces passages
 D’étoiles qui font signe aux enfants d’être sages,
 Ces apparitions, ces éblouissements!
 Donc, à l’heure où les feux du soleil sont calmants,
 Quand toute la nature écoute et se recueille,
 Vers midi, quand les nids se taisent, quand la feuille
 La plus tremblante oublie un instant de frémir,
 Jeanne a cette habitude aimable de dormir;
 Et la mère un moment respire et se repose,
 Car on se lasse, même à servir une rose.
 Ses beaux petits pieds nus dont le pas est peu sûr
 Dorment ; et son berceau, qu’entoure un vague azur
 Ainsi qu’une auréole entoure une immortelle,
 Semble un nuage fait avec de la dentelle;
 On croit, en la voyant dans ce frais berceau-là,
 Voir une lueur rose au fond d’un falbala;
 On la contemple, on rit, on sent fuir la tristesse,
 Et c’est un astre, ayant de plus la petitesse;
 L’ombre, amoureuse d’elle, a l’air de l’adorer;
 Le vent retient son souffle et n’ose respirer.
 Soudain, dans l’humble et chaste alcôve maternelle,
 Versant tout le matin qu’elle a dans sa prunelle,
 Elle ouvre la paupière, étend un bras charmant,
 Agite un pied, puis l’autre, et, si divinement
 Que des fronts dans l’azur se penchent pour l’entendre,
 Elle gazouille… – Alors, de sa voix la plus tendre,
 Couvrant des yeux l’enfant que Dieu fait rayonner,
 Cherchant le plus doux nom qu’elle puisse donner
 À sa joie, à son ange en fleur, à sa chimère:
 – Te voilà réveillée, horreur ! lui dit sa mère.
Mỗi ngày Jan ngủ trưa một giấc
 Bởi so người lớn, bé cần mơ hơn
 Địa cầu xấu xí, mà Jan tới từ trời xanh biếc
 Trong mơ, bé tìm gặp lại các nàng tiên
 Khi bé ngủ, Chúa sưởi ấm đôi bàn tay xinh xắn
 Ôi, ngạc nhiên xiết bao nếu ta được ngắm
 Qua giấc nồng thiêng của bé, đầy sắc và âm
 Những thiên đường mở trong bóng râm
 Những chòm sao lấp lánh nhắc trẻ ngoan hơn
 Những hiện hình, những hào quang chói loá
 Và khi ánh mặt trời soi êm ả
 Khi thiên nhiên trầm lặng lắng nghe
 Khi các tổ chim dừng khúc mê ly
 Thú đu đưa tạm dừng ở lá cây đa cảm
 Thì bé Jan quen ngủ trưa một loáng
 Cho mẹ em đôi chút nghỉ ngơi
 Dầu là được chăm nom một đoá hồng tươi
 Đôi chân trần chập chững đang ngủ yên
 Quanh nôi lờ mờ toả ánh thanh thiên
 Như hào quang chiếu một người bất tử
 Như đám mây thêu ren thanh tú
 Nhìn bé ngủ trong chiếc nôi xinh
 Ta ngỡ ánh hồng từ bức hoạ nổi danh
 Nhìn bé, ta cười, ta nguôi sầu khổ
 Bé là ngôi sao, lại thêm là bé
 Bóng mát quý Jan, tha thiết đắm say
 Gió nín hơi nhìn bé ngất ngây
 Bỗng trong chiếc nôi xuềnh xoàng trong trắng
 Ánh con ngươi long lanh như buổi sáng
 Jan mở mắt, duỗi cánh tay trần
 Một chân đụng đậy, rồi chân nữa, đẹp vô ngần
 Trên cao xanh, các thiên thần hướng về em để nghe thêm rõ
 Tiếng Jan líu lô… Khi ấy, với lòng dịu dàng hơn cả
 Trìu mến nhìn bé em Chúa ban rạng rỡ
 Tìm tên xinh đẹp nhất để đặt cho Jan
 Cho ảo tưởng, cho thiên thần vui sướng ngập tràn
 Mẹ nói: Đã dậy hả con, nỗi ưu tư của mẹ!
Jeanne était au pain sec
 Jeanne était au pain sec dans le cabinet noir,
 Pour un crime quelconque, et, manquant au devoir,
 J’allai voir la proscrite en pleine forfaiture,
 Et lui glissai dans l’ombre un pot de confiture
 Contraire aux lois. Tous ceux sur qui, dans ma cité,
 Repose le salut de la société,
 S’indignèrent, et Jeanne a dit d’une voix douce:
 – Je ne toucherai plus mon nez avec mon pouce;
 Je ne me ferai plus griffer par le minet.
 Mais on s’est récrié: – Cette enfant vous connaît;
 Elle sait à quel point vous êtes faible et lâche.
 Elle vous voit toujours rire quand on se fâche.
 Pas de gouvernement possible. À chaque instant
 L’ordre est troublé par vous ; le pouvoir se détend;
 Plus de règle. L’enfant n’a plus rien qui l’arrête.
 Vous démolissez tout. – Et j’ai baissé la tête,
 Et j’ai dit: – Je n’ai rien à répondre à cela,
 J’ai tort. Oui, c’est avec ces indulgences-là
 Qu’on a toujours conduit les peuples à leur perte.
 Qu’on me mette au pain sec. – Vous le méritez, certe,
 On vous y mettra. – Jeanne alors, dans son coin noir,
 M’a dit tout bas, levant ses yeux si beaux à voir,
 Pleins de l’autorité des douces créatures:
 – Eh bien, moi, je t’irai porter des confitures.
Jan bị bố mẹ phạt
 Nhốt trong buồng tối tăm
 Phải ăn bánh mì nhạt
 Vì phạm một lỗi lầm
Tôi bỏ lơi nhiệm vụ
 Đến thăm kẻ tội nhân
 Tội trạng thật đã rõ
 Trong bóng tối, đưa thầm
Cho cháu mứt, một lọ
 Trái phép luật rõ ràng
 Mọi người có nhiệm vụ
 Ở trong nhà, trị an
Đều nổi lên công phẫn
 Bé Jan nhẹ nhàng thưa:
 “Lấy tay ngoáy mũi bẩn
 Từ nay cháu xin chừa
Và không để mèo cắn”
 Nhưng người lớn la rầy
 Con bé này ranh lắm
 Nó biết ông xưa nay
Yếu đuối và nhát, hèn
 Khi mọi người giận dữ
 Thì ông lại cười lên
 Không còn giữ được nữa
Trật tự ở trong nhà
 Mỗi lần ông phá vỡ
 Chính quyền bỏ lơ là
 Không luật lệ nào cả
Không còn gì cản ngăn
 Được con bé bất trị
 Tất cả ông phá tan
 Tôi cúi đầu nhận cả
“Chính cái lối khoan hồng
 Như thế, xưa nay dắt
 Đến thảm hoạ diệt vong
 Của bao nhiêu dân tộc”
Tôi cũng xin chịu phạt
 Cho tôi ăn bánh không”
 “Như thế cũng đáng thật
 Rồi sẽ đến lượt ông”
Bé Jan se sẽ nói
 Từ chỗ cháu, với tôi
 Ngẩng lên trong bóng tối
 Đôi mắt xinh tuyệt vời
Của tuổi thơ dịu hiền
 Nhưng mà đầy quyền lực
 “Đừng sợ, cháu sẽ đem
 Đến cho ông lọ mứt”
L’exilé satisfait
 Solitude! silence! oh! le désert me tente.
 L’âme s’apaise là, sévèrement contente;
 Là d’on ne sait quelle ombre on se sent l’éclaireur.
 Je vais dans les forêts chercher la vague horreur;
 La sauvage épaisseur des branches me procure
 Une sorte de joie et d’épouvante obscure;
 Et j’y trouve un oubli presque égal au tombeau.
 Mais je ne m’éteins pas; on peut rester flambeau
 Dans l’ombre, et, sous le ciel, sous la crypte sacrée,
 Seul, frissonner au vent profond de l’empyrée.
 Rien n’est diminué dans l’homme pour avoir
 Jeté la sonde au fond ténébreux du devoir.
 Qui voit de haut, voit bien; qui voit de loin, voit juste.
 La conscience sait qu’une croissance auguste
 Est possible pour elle, et va sur les hauts lieux
 Rayonner et grandir, loin du monde oublieux.
 Donc je vais au désert, mais sans quitter le monde.
Parce qu’un songeur vient, dans la forêt profonde
 Ou sur l’escarpement des falaises, s’asseoir
 Tranquille et méditant l’immensité du soir,
 Il ne s’isole point de la terre où nous sommes.
 Ne sentez-vous donc pas qu’ayant vu beaucoup d’hommes
 On a besoin de fuir sous les arbres épais,
 Et que toutes les soifs de vérité, de paix,
 D’équité, de raison et de lumière, augmentent
 Au fond d’une âme, après tant de choses qui mentent?
Mes frères ont toujours tout mon cœur, et, lointain
 Mais présent, je regarde et juge le destin;
 Je tiens, pour compléter l’âme humaine ébauchée,
 L’urne de la pitié sur les peuples penchée,
 Je la vide sans cesse et je l’emplis toujours.
 Mais je prends pour abri l’ombre des grands bois sourds.
Oh! j’ai vu de si près les foules misérables,
Les cris, les chocs, l’affront aux têtes vénérables,
 Tant de lâches grandis par les troubles civils,
 Des juges qu’on eût dû juger, des prêtres vils
 Servant et souillant Dieu, prêchant pour, prouvant contre,
 J’ai tant vu la laideur que notre beauté montre,
 Dans notre bien le mal, dans notre vrai le faux,
 Et le néant passant sous nos arcs triomphaux,
 J’ai tant vu ce qui mord, ce qui fuit, ce qui ploie
 Que, vieux, faible et vaincu, j’ai désormais pour joie
 De rêver immobile en quelque sombre lieu;
 Là, saignant, je médite; et, lors même qu’un dieu
 M’offrirait pour rentrer dans les villes la gloire,
 La jeunesse, l’amour, la force, la victoire,
 Je trouve bon d’avoir un trou dans les forêts,
 Car je ne sais pas trop si je consentirais.
Quạnh hiu! Tĩnh mịch! Ôi, ta thích nơi hoang vắng!
 Nơi ấy, rất đỗi hài lòng, tâm hồn dịu lắng
 Nơi ấy, ngỡ mình như tia nắng rọi bóng râm
 Ta tới rừng sâu tìm nỗi gian truân
 Tán lá dày mang đến cho ta
 Niềm sống vui và lo sợ mờ ảo bao la
 Ta thấy trong rừng lãng quên gần như nấm mộ
 Nhưng ta không tắt. Trong đêm ta muốn vẫn là lửa đỏ
 Dưới trời xanh, nơi hầm mộ thiêng liêng
 Vẫn rung rinh trước gió lộng thiên nhiên
 Chẳng gì giảm bớt ở con người kiên nhẫn
 Dám thăm dò tận đáy sâu nơi bổn phận
 Từ cao nhìn dễ bao trùm; từ xa, dễ trông tường tận
 Lương tâm biết tìm lên những đỉnh uy nghiêm
 Để lớn thêm và toả sáng xa chốn lãng quên
 Ta tìm đến hoang vu nhưng không rời hạ giới
Kẻ mơ mộng không lánh đời, khi chiều tối
 Y ngồi im trong miệt rừng sâu
 Hay dưới chân vách đá trời chiều
 Lặng lẽ suy tư về bát ngát
 Sao không hiểu qua bao lớp người ta đã gặp
 Nên tìm nơi ẩn dưới tán dày
 Và sau bao điều dối trá, đặt bày
 Lòng khao khát chân lý, yên bình
 Lương tri, ánh sáng và công minh đang tăng lên gấp bội?
Anh em sẽ luôn có tấm lòng ta sôi nổi
 Tuy xa xôi, nhưng luôn có mặt, quan chiêm và phán xét mệnh đời
 Để hoàn thiện tâm linh con người
 Ta nghiêng bình chứa tình thương về nơi dân chúng
 Dốc cạn và nạp bình không phút giây hờ hững
 Nhưng ta vẫn ẩn nơi rừng to yên tĩnh
Ôi! mắt ta nhìn tận nơi dân chúng bần cùng
Những va chạm, tiếng kêu, sự lăng nhục người sống thuỷ chung
 Bao kẻ đe hèn leo trong rối ren loạn xạ
 Bọn thẩm phán và bôi nhọ Chúa, nói trắng làm đen
 Bao lần ta thấy nét xấu trong vẻ đẹp hồn nhiên
 Ác trong thiện, và giả nằm trong thật
 Hư vô đã qua cổng khải hoàn cao ngất
 Ta đã nhìn bao cảnh cắn xé, mưu hại, trốn xa
 Nên giờ đây trong cảnh chiến bại, yếu già
 Ta thấy vui mơ màng nơi bóng râm, bất động
 Nơi ấy, tim rớm máu, ta ngẫm tối tăm số phận
 Nếu một vị thần đem tình yêu, sức mạnh, tuổi trẻ và quang vinh
 Đổi nơi ẩn náu này hòng ta trở lại đô thành
 Thì theo ta, làm chủ xó rừng còn hay biết mấy
 Và chưa chắc ta đã bằng lòng xa nơi nương cậy
La lune
 Jeanne songeait, sur l’herbe assise, grave et rose;
 Je m’approchai: — Dis-moi si tu veux quelque chose,
 Jeanne? — car j’obéis à ces charmants amours,
 Je les guette, et je cherche à comprendre toujours
 Tout ce qui peut passer par ces divines têtes.
 Jeanne m’a répondu: — Je voudrais voir des bêtes.
 Alors je lui montrai dans l’herbe une fourmi.
 — Vois! Mais Jeanne ne fut contente qu’à demi.
 — Non, les bêtes, c’est gros, me dit-elle.
Leur rêve,
 C’est le grand. L’Océan les attire à sa grève,
 Les berçant de son chant rauque, et les captivant
 Par l’ombre, et par la fuite effrayante du vent;
 Ils aiment l’épouvante, il leur faut le prodige.
 — Je n’ai pas d’éléphant sous la main, répondis-je.
 Veux-tu quelque autre chose? ô Jeanne, on te le doit!
 Parle. — Alors Jeanne au ciel leva son petit doigt.
 — Ça, dit-elle. — C’était l’heure où le soir commence.
 Je vis à l’horizon surgir la lune immense.
Chanson (Proscrit, regarde les roses)
 Proscrit, regarde les roses;
 Mai joyeux, de l’aube en pleurs
 Les reçoit toutes écloses;
 Proscrit, regarde les fleurs.
– Je pense
 Aux roses que je semai.
 Le mois de mai sans la France,
 Ce n’est pas le mois de mai.
Proscrit, regarde les tombes;
 Mai, qui rit aux cieux si beaux,
 Sous les baisers des colombes
 Fait palpiter les tombeaux.
– Je pense
 Aux yeux chers que je fermai.
 Le mois de mai sans la France,
 Ce n’est pas le mois de mai.
Proscrit, regarde les branches,
 Les branches où sont les nids;
 Mai les remplit d’ailes blanches
 Et de soupirs infinis.
– Je pense
 Aux nids charmants où j’aimai.
 Le mois de mai sans la France,
 Ce n’est pas le mois de mai.
Bài thơ rút từ tập “Les quatre vents de l’esprit”.
Khách ly hương hãy lặng trông
 Sương mai
 nở cánh bông hồng Tháng Năm
 Khách ly hương hãy ngắm trông
Tôi đang tưởng tới
 Những bông hồng tôi xới năm xưa
 Tháng Năm nước Pháp lìa xa
 Thì sao có thể gọi là Tháng Năm
Khách ly hương ngắm mộ phần
 Tháng Năm trời sáng thanh tân một màu
 Ngắm tình chung thuỷ chim câu
 Còn như rung động bề sâu nấm mồ
Tôi đang tưởng vọng
 Những người thân khuất bóng khi xưa
 Tháng Năm nước Pháp lìa xa
 Thì sao có thể gọi là Tháng Năm
Khách ly hương ngắm cành xuân
 Tổ chim đầm ấm treo nằm cành mây
 Tháng Năm cánh trắng nở đầy
 Chim trời than thở trong bầy say sưa
Tôi đang tưởng nhớ
 Yêu đương tổ ấm năm xưa
 Tháng Năm nước Pháp lìa xa
 Thì sao có thể gọi là Tháng Năm
Rencontre d’une belle fagotière
 Enfant au teint brun, aux dents blanches,
 Ton petit bras derrière toi
 Tire un tremblant faisceau de branches.
 O doux être d’ombre et d’effroi,
Dans la clairière aux vertes routes,
 Tu passes ; nous nous regardons,
 Moi, plein de songes et de doutes,
 Toi, les pieds nus dans les chardons.
A nous deux, seuls dans la rosée,
 Nous ferions sourire un cagot ;
 Car, moi, je porte la pensée,
 Et toi, tu traînes le fagot.
Em gái da sạm đen, răng trắng
 Cánh tay bé nhỏ quắt sau lưng
 Kéo lê run rẩy một bó củi
 Dịu dàng, em, chiếc bóng của hãi hùng.
Tôi gặp em giữa khoảng rừng trống
 Trên con đường bóng cây lồng
 Tôi đầy suy nghĩ và tư lự
 Em đầy củi gai đi chân không
Chỉ hai chúng tôi trong sương sớm
 Chắc làm cười mỉm kẻ tò mò
 Tôi mang trong đầu chồng ý nghĩ
 Em kéo sau mình đống củi to
Promenades dans les rochers – Troisieme promenade
 Le soleil déclinait; le soir prompt à le suivre
 Brunissait l’horizon; sur la pierre d’un champ
 Un vieillard, qui n’a plus que peu de temps à vivre,
 S’était assis pensif, tourné vers le couchant.
C’était un vieux pasteur, berger dans la montagne,
 Qui jadis, jeune et pauvre, heureux, libre et sans lois,
 À l’heure où le mont fuit sous l’ombre qui le gagne,
 Faisait gaîment chanter sa flûte dans les bois.
Maintenant riche et vieux, l’âme du passé pleine,
 D’une grande famille aïeul laborieux,
 Tandis que ses troupeaux revenaient de la plaine,
 Détaché de la terre, il contemplait les cieux.
Le jour qui va finir vaut le jour qui commence.
 Le vieux pasteur rêvait sous cet azur si beau.
 L’océan devant lui se prolongeait, immense
 Comme l’espoir du juste aux portes du tombeau.
Ô moment solennel! Les monts, la mer farouche,
 Les vents, faisaient silence et cessaient leur clameur.
 Le vieillard regardait le soleil qui se couche;
 Le soleil regardait le vieillard qui se meurt.
Bài thơ trên được rút từ tập Bốn hướng gió tinh thần.
Mặt trời xế bóng non đoài
 Ráng nâu thoắt phủ chân trời đàng xa
 Trên phiến đá, một ông già
 Giữa đồng ngồi ngắm chiều tà, trầm ngâm
Chăn cừu ở chốn sơn lâm
 Xưa nghèo nhưng sướng, muôn phần tự do
 Mỗi khi bóng toả non mờ
 Lòng vui thổi sáo chan hoà rừng xanh
Nay ông nghĩ lại đời mình
 Về già giàu có gia đình đông vui
 Dẫu rằng gần đất xa trời
 Vẫn còn cần mẫn sáng ngời tấm gương
Cừu về lững thững trên đồng
 Hồn ông siêu thoát theo dòng mây xanh
 Hoàng hôn xứng với bình minh
 Lão nông ngồi dưới trời xanh mơ màng
Xa xa biển rộng mênh mang
 Như là hy vọng Thiên đàng sắp lên!
 Này đây giây phút uy nghiêm
 Gió ngàn, sóng biển trở nên hiền hoà
 Ông già ngắm cảnh chiều tà
 Chiều tà ngắm bóng ông già cáo chung
Tenez, mon président
 – Tenez, mon président, je vous le dis d’aplomb,
 Je trouve, en vérité, que cela devient long.
 Cela finit par être un triste dialogue.
 Nous faisons à nous deux une lugubre églogue.
 Vrai, vous me fatiguez; mon juge du bon Dieu.
 Si nous renouvelions la causerie un peu?.
 Parlons d’astronomie ou bien d’hippiatrique.
 Oui, c’est vrai, je me suis servi de cette trique
 Assomme-t-on les gens avec! des éventails?
 Quand vous répéterez sans fin tous ces détails?
 Après? Bon, j’en conviens, c’est affreux, c’est infâme,
 Ce n’est pas bien du tout, j’ai tué cette femme;
 Dans l’ombre, en guet-apens, si vous le préférez.
 J’ai de ses cheveux blancs à mes souliers ferrés;
 On voit ces choses-là dans tous les mélodrames.
 Est-ce donc bien joli, mon juge, à dire aux dames?
 Nous devrions changer de conversation.
 Je l’ai mise en un trou, la belle invention!
 Et j’ai pillé la caisse et débouclé la bâche.
 Connu. C’est vieux! D’honneur, mon président rabâche;
 Il faudrait varier dans l’intérêt de 1’art.
 Vous ressassez toujours: – C’était dans le brouillard.
 – En décembre.- Au sortir.d’un bois. – Un jour de pluie… –
 Eh bien, je vous le dis tout net, cela m’ennuie.
 Vous n’avez vraiment pas d’imagination.
 Et puis, vous y mettez beaucoup de passion.
 Cette femme était vieille et j’étais pauvre. En somme,
 Là, ne pourrait-on pas, quand mai réjouit l’homme,
 Quand les petits oiseaux chantent au fond du bois,
 Quand les champs sont pleins d’ombre et d’amour et de voix,
 Et puisque nous voilà dans la saison des roses,
 Rire un moment, que diable! et parler d’autres choses! –
Et le juge répond, triste comme la loi
– Ta mère assassinée est là, derrière toi!
Bài thơ trên được rút từ tập “Trọn tiếng đàn”.
– Đây, thưa Ngài chánh án, tôi xin trình bày thẳng thắn
 Quả thực tôi thấy câu chuyện kéo dài
 Rút cục đối thoại trở nên buồn chán
 Quan toà của Chúa, Ngài làm tôi đến nẫu người
 Hay là ta đổi đề tài đối thoại?
 Bàn tới thiên văn hoặc nghề chữa ngựa
 Vâng, đúng, tôi đã dùng chiếc gậy to
 Vì ai giết người bằng quạt giấy bao giờ?
 Ngài nhắc hoài các tình tiết đó
 Rồi sau đấy? Tôi nhận thật là tởm kinh và ghê sợ
 Quả là đồi bại, tôi đã giết bà ta
 Trong bóng tối, nơi mai phục, nếu Ngài thích tôi bịa ra
 Gót giày sắt của tôi dính đầy tóc trắng
 Như trong mọi vở tuồng giàu kịch tính
 Có phải điều này lý thú để kể cho các bà?
 Nhưng hãy nói việc khác, thưa quý quan toà
 Tôi chôn bà trong hố; thật là đầy sáng tạo
 Tôi đã cướp két tiền, mở bạt che và sục sạo
 Biết. Điều ấy đã cũ. Quan toà lảm nhảm viện thanh danh
 Vì nghệ thuật, ta nói chuyện muôn vẻ muôn hình
 Ngài lải nhải: – Một buổi sương dày đặc
 – Một ngày mưa. – Lối cửa rừng. – Vào tháng chạp
 Này, thú thật là tôi đã chán rồi
 Về trí tưởng tượng, Ngài quả rất tồi
 Nhưng mà Ngài lấy thế làm thích thú
 Tóm lại, bà ấy đã già, còn tôi thì nghèo khổ
 Lúc này đây, niềm vui xuân nở rộ
 Tiếng líu lo chim hót rừng hoang
 Nơi đồng nội, bóng mát, tình yêu và âm sắc ngập tràn
 Cũng là mùa hoa hồng khoe sắc
 Quỷ thật! Sao không cười một lát và nói sang chuyện khác
Quan toà phán, vẻ buồn như luật pháp
– Mẹ hiền mà mi đã giết hiện đứng phía sau mi!
Misère
 Partout la force au lieu du droit.
 L’écrasement Du problème, c’est là l’unique dénoûment.
 Partout la faim. Roubaix, Aubin, Ricamarie.
 La France est d’indigence et de honte maigrie.
 Si quelque humble ouvrier réclame un sort meilleur,
 Le canon sort de l’ombre et parle au travailleur.
 On met sous son talon l’émeute des misères.
 L’Afrique agonisante expire dans nos serres.
 Là tout un peuple râle et demande à manger.
 Famine dans Oran, famine dans Alger.,
 – Voilà ce que nous fait cette France superbe .!
 Disent-ils. – Ni maïs, ni pain. Ils broutent l’herbe.
 Et l’arabe devient épouvantable et fou.
 On rencontre, une femme au fond de quelque trou,
 Accroupie, et mangeant avec un air étrange. .
 – Qu’est-ce que tu, fais là? . Hé bien, j’ai faim, je mange.
 – Ton chaudron sur le feu fume, qu’as-tu dedans?
 Ces os, que l’on entend crier entre tes dents,.
 Cette chair qu’en grondant ronge ta bouche amère, Qu’est-ce?
 C’est un enfant que j’avais, dit la mère.
Les déclamations ne prouvent rien; soyons
 Impartiaux; cette ombre est-elle sans rayons?
 Vous passez votre à dire que l’on souffre
 Partout, et que partout on pleure, et qu’en un gouffre
 On gémit, comme un tas d’affamés sur l’écueil,
 Et vous criez: Tout est misère et tout est deuil
 Tout est misère et deuil?
 Quelle erreur- est la vôtre!
 Ah çà, vous ne voyez qu’un côté! Voyez l’autre.
 Soyons justes. Voyez. Plaisirs, bals, volupté,
 Luxe, et l’hiver le Louvre, et Compiègne l’été:
 Oui, faites approcher vos vers les plus féroces:
 Oseront-ils nier ces palais, ces carrosses,
 Ces festins? Est-ce là de la misère enfin?
 Est-ce qu’en cette fête éternelle on a faim?
 En ‘ne montrant jamais que l’indigence, on triche.
 Vous étalez le pauvre, eh ‘bien, voyons ce riche. Qu’en dites-vous?
 Parlez. Est-il assez complet?
 Il a ce qu’il convoite, il fait ce qui lui plaît.
 Ses désirs sont noyés dans le faste lyrique.
 Ah! je voudrais bien voir que- votre rhétorique
 Contestât cette aisance auguste, et s’escrimât
 A prouver que ce luxe est d’un mince format,
 Que cette argenterie est reprochable, et manque
 Du poids qui la ferait recevoir à la banque,
 Que ces, cochers ne sont point gras, que ces jockeys
 Montent, mal galonnés, des chevaux peu coquets,
 Et que ces millions, ruisselant sur ces tables
 En ivresses sans fin, ne sont pas véritables?
 Reconnaissez qu’ici l’on ne manque de rien.
 On s’est fait tout-puissant pour être épicurien.
 On est un homme heureux. C’est doux. Pas de rebelles.
 On est le Jupiter d’un Olympe de belles.
 On a Biarritz; veut-on varier le tableau?
 Après la mer, les bois; on a Fontainebleau.
 Chasses, danses, galas, petits jeux sous les.treilles,
 Rougissantes beautés sous les grappes vermeilles;
 Puis course au bois; on fut en décembre vainqueur,
 Et l’on rêve, et l’on sent pénétrer dans son cœur
 Le pur soleil des champs, des fleurs, des prés, des vignes,
 L’azur des clairs étangs et la blancheur des cygnes.
Khắp nơi, bạo lực thay cho pháp luật
 Xoá bỏ nạn này là giải pháp vô song
 Nước Pháp gầy đi vì đói nghèo và sỉ nhục
 Đói khắp nơi, Roubaix, Ricamarie và Aubin
 Nếu công nhân nghèo đòi cải thiện
 Thì họng súng từ bóng tối ra sẵn sàng nói chuyện
 Gánh nặng khốn cùng đè cổ công nhân
 Châu Phi hấp hối đang trút hơi dưới gót Pháp-Lan
 Đói ở Alger, đói ở Oran
 Cả một dân tộc xin ăn đang nghẹt thở
 Họ nói: “Đó công tích nước Pháp-Lan rực rỡ!”
 Không ngô, không gạo. Họ gặm cỏ vàng
 Người Ả Rập thành kinh khủng và điên gàn
 Một thiếu phụ ngồi xổm đáy sâu một hố
 Đang ăn với vẻ lạ lùng dễ sợ
 – Mụ làm gì đó? – Tôi đói, tôi đang ăn
 – Có gì trong chiếc chảo nóng ran?
 Thế những xương mụ nhai sào sạo
 Và những miếng thịt răng nghiền trệu trạo?
 – Đó là xương thịt con tôi đã lìa trần
Ở đây hoa mỹ chẳng ăn nhằm
 Cần vô tư; phải chăng bóng đen kia không mang tia sáng?
 Các ngươi để hết thời gian nói khắp nơi con người đau đớn
 Khắp nơi than khóc, rên rỉ dưới vực sâu
 Như lũ đói ăn trên ghềnh đá thảm sầu
 Các người kêu: Tất cả đều khốn cùng và tang tóc!
 Tất cả đều khốn cùng và tang tóc!
 Ôi, sai lầm thảm khốc
 Các người chỉ nhìn một phía! Phía khác là đây
 Này xem, hãy công bằng! Khoái lạc, vũ hội, thú vui
 Xa hoa, dịp đông tới cung Louvre, ở Compiègne mùa nực
 Phải chi hướng đúng mục tiêu những vần thơ trung thực
 Chúng đâu dám chối những xe ngựa, lâu đài
 Tiệc tùng? Đó phải chăng là nghèo khổ ở trần ai?
 Phải chăng nơi lễ hội vĩnh hằng con người bị đói?
 Vậy nếu chỉ mô tả khốn cùng, các người cam tâm lừa dối
 Các người nói kẻ nghèo, vậy thử nghĩ gã giàu sang
 Các người nói sao? Y không sung túc đầy tràn?
 Y có những gì y muốn, y làm điều y thích
 Ước mong của y ngập trong trữ tình tuyệt đích
 A! Ta muốn các ngươi dùng lý thuyết
 Chối phăng sự sung túc uy nghiêm
 Chứng minh rằng xa hoa ấy chỉ mong manh
 Rằng châu báu đó xoàng và thiếu đi trọng lượng
 Để nhà băng chấp thuận và chuyển nhượng
 Rằng những tên xà ích quả gầy nhom
 Giô kề cưỡi những con ngựa kém huy hoàng
 Rằng bạc triệu chảy trên chiếc bàn say tuý luý
 Không là tiền thật đáng phần chú ý
 Lao theo vât chất, người ta sống thoả quyền hành
 Sung sướng, dịu êm, không kẻ phản mình
 Là chúa tể, trong cung đầy mỹ nữ
 Người ta có Biarritz, ai muốn rời số đỏ?
 Đi biển về, đã có rừng sâu, đã có Fontainebleau
 Đi săn, vũ hội, lễ to, trò chơi nhỏ dưới giàn nho
 Nhan sắc rực rỡ bên chùm nho đỏ thắm
 Rồi đến buổi chơi rừng. Đang tháng mười hai chiến thắng
 Người ta mơ, trái tim thấm đượm cảnh rộn ràng
 Của mặt trời thanh khiết đồng quê, hoa tươi, nho thắm, cỏ vàng
 Hồ xanh trong vắt và thiên nga trắng muốt
Pourquoi les grands hommes sont malheureux?
 Une nuit, j’écoutais, seul, parmi des décombres;
 Et j’entendis parler les Évènements sombres:
Nous sommes les forgeurs; et les grands hommes sont
 Les enclumes que Dieu met dans l’antre profond,
 Prêtes au dur travail de créer d’autres races.
 Car les hommes sont vils, méchants, lâches, voraces,
 Monstrueux, et-le temps est venu de changer.
 C’est à force de coups qu’on parvient à forger.
 Donc les hommes, sans frein, sans loi, sans coeur, sans flamme,
 Sans joie, avaient besoin qu’on leur fit une autre âme,
 Et que quelqu’un de grand sur eux étincelât.
 Il fallait faire à l’Homme une âme ayant l’éclat,
 Le rayon, la puissance et la douceur, une âme
 Paternelle à l’enfant, fraternelle à la femme,
 Une âme juste. -Un jour, Dieu nous dit: Forgez-leur
 Cette âme, et nous donna pour marteau le malheur;
 Les grands hommes pensifs étant là, nous conclûmes
 Que nous pouvions frapper sur ces sombres enclumes.
Có đêm, một mình, tôi nghe trong đổ nát
 Những Biến động lớn lao cất tiếng thì thầm:
– Chúng ta, những thợ rèn, còn các vĩ nhân
 Là chiếc đe, Thượng đế người sắp đặt
 Để sẵn sàng làm công việc gian nan
 Tạo ra một giống loài khác ở thế gian
 Bởi con người hiện nay đang sống
 Độc ác, dối lừa, xấu xa, hèn kém
 Cắn xé nhau vì chút lợi nhỏ nhen
 Chẳng luật lệ và không hiểu biết
 Chẳng kiềm chế và không biết đến niềm vui
 Đã đến lúc rồi. Cần phải đổi thay
 Hãy giáng mạnh vào đe
 Cho loé lên những gì cao thượng
 Mới luyện được con người có tâm hồn toả sáng
 Giàu niềm tin và sức mạnh của trái tim
 Mang tình cha con với các trẻ em
 Và tình anh em với bao phụ nữ
 Có ý thức và tràn đầy trí tuệ
 Một tâm hồn đúng nghĩa CON NGƯỜI
 Thượng đế bảo: Cần rèn ngay ra họ
 Chiếc búa ta trao là nỗi đau nhân thế
 Buộc các vĩ nhân phải ngẫm nghĩ suy tư
 Chúng ta tin: có thể đập mạnh vào đe
 Là những vĩ nhân đang ngồi kia trầm mặc
Trọn bộ tác phẩm để đời của nhà văn, nhà thơ Victor Hugo hi vọng sẽ mang đến cho độc giả yêu thơ những giây phút cảm nhận thơ Victor hugo thú vị nhất. Cùng chúng tôi chia sẻ những áng thơ, tập thơ của cây bút văn học vĩ đại người Pháp này nhé.
