Phần cuối cùng trong Chùm bản thơ dịch tác giả khác của Bùi Hạnh Cẩn phần 8 chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn bản dịch các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Đây là những tác phẩm hay nhất của nhà thơ này. Tuy nhiên để dễ hiểu và nắm được các ý chính của các bài thơ này chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn bản dịch tốt nhất. Do ảnh hưởng của bối cảnh xưa nên các bài thơ này được làm theo một phong cách riêng và ngôn ngữ riêng. Hãy cùng đọc và cảm nhận bạn nhé!
Nội Dung
Hơi may cồn biển khí lâng lâng,
Nhẹ dóng buồm thơ lướt Bạch Đằng.
Ngạc đứt kình phanh bao núi lớn,
Giáo chìm kích gãy mấy bờ giăng.
“Trăm hai” sông núi do trời đặt,
Hào kiệt công danh đất vốn từng.
Chuyện cũ quay đầu ôi đã thế,
Giữa dòng ngắm bóng ý rưng rưng.
Trào xuân cửa biển ngập sau mưa,
Gió nổi đầy trời sóng nở hoa.
Cây khói nửa rừng lồng nắng xế,
Làng trăng cách bến dóng chuông trơ.
Ưa nhìn phong cảnh thơ vào vẽ,
Đầy mắt non sông rượu ắp vò.
Chuyến chuyến chơi xưa mình vẫn nhớ,
Lại tìm chuyện cũ chỉ còn mơ.
Góc biển chân trời mặc ý chơi,
Bút thơ trời đất thoả nơi nơi.
Hát chài ba lượt lan hồ khói,
Sáo mục vừa vang vút nguyệt trời.
Đêm vắng dựa không coi vũ trụ,
Gió thu nhân hứng cưỡi ngao voi.
Lâng lâng muôn việc tình quên cả,
Lẽ nhiệm màu nên chuốc rượu rồi.
Côn Sơn có núi,
Tiếng chảy nghe thì thầm.
Ta cho là đàn cầm,
Côn Sơn có đá,
Mưa sạch rêu phô thắm.
Ta lấy làm chiếu đệm,
Trong núi có thông.
Muôn dặm biếc trập trùng,
Ta nhân thế ghỉ ngơi ở trong.
Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu in dâm lục.
Ta nhân thế ở bên ngâm đọc,
Hỏi anh sao không quay về đi.
Nửa đời bụi trần mãi vướng vít,
Muôn chung chín vạc chả cần gì.
Nước lã cơm rau cũng sung túc,
Anh chẳng thấy
Đổng Trác chứa vàng đầy một thành
Nguyên Tái hồ tiêu tám trăm hộc
Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề,
Thú Dương chết đói không ăn thóc.
Hiền ngu hai phía không giống nhau,
Cũng đều tự tìm điều mình ước.
Đời người trong trăm năm,
Rồi cũng như thảo mộc.
Vui sướng thường lo đổi thay nhau,
Một tươi một héo lại kế tục.
Núi gò lầu hoa đều tình cờ,
Sau chết ai vinh lại ai nhục.
Người đời nếu có bọn Sào, Do
Khuyên họ nghe ta Sơn Trung khúc
Núi tiên ở cửa biển,
Năm trước luôn qua chơi.
Bông sen nổi mặt nước,
Cảnh tiên giữa cõi đời.
Bóng tháp trâm ngọc giắt,
Ánh sóng tóc mây soi.
Nhớ sao Trương Thiếu Bảo,
Bia đá chớm rêu rồi
Ngu xuẩn man tù dám quấy biên,
Chứa càn chất ác đã nhiều niên.
Chín lần ơn lớn thương dân lạ,
Muôn dặm xe loan vượt chướng yên.
Đồn núi từng nghe thu Nguỵ Bác,
Chữ vàng lại thấy khắc Yên Nhiên.
Từ nay bốn biển chung xe sách,
Công đức so xưa gấp vạn nghìn.
Tôi gian con giặc tội khôn dung,
Lưới pháp rồi ra chẳng thoát vòng.
Đâu để hơi tàn lâu đất hẹp,
Đã giờ hội nhạc rộn tâu công.
Muôn trùng tiếng ốc lay tràng núi,
Nghìn đỉnh cờ bay động gió rừng.
Bốn biển từ đây yên định mãi,
Phù tang cây ấy sớm treo cung.
Thánh triều thương xót kẻ hôn ngu,
Sao lũ vô tri tự chuốc lo.
Thù hận truyền đời biên giới oán,
Dối trời tội lớn quỷ thần trừ.
Đừng đem việc trước so điều mới,
Chẳng muốn tôi trung muốn nghịch tù.
Để nhủ sau này phiên trấn đó,
Vết xe đổ trước hãy chưa mờ.
Dối trời lại mượn cớ trời cao,
Trời lưới bao la tránh được nào.
Ngoài cửa núi non suông hiểm trở,
Quanh rừng chim chóc tổ không vào.
Khe man lối thẳm vòng loan giả,
Trướng ngọc mưu sâu tỏ lược thao.
Bốn biển ngày nay yên lặng cả,
Nhàn sau bởi trước có gian lao.
Một biệt sông hồ mấy chục thu,
Đêm nay cửa biển buộc thuyền thơ.
Mênh mang làn sóng ghềnh trăng sáng,
Thấp thoáng hình cây bãi khói mờ.
Khó kiếm chuyện xưa thời dễ lỡ,
Chưa đền ơn nước xót thân già.
Bình sinh mang mãi niềm lo trước,
Ngồi quấn chăn hàn ngủ chẳng cho.
Hồ biển bao năm hứng chửa tàn,
Đất trời chốn chốn ý thênh thang.
Màu xuân quanh mắt xui người đắm,
Tiếng sóng bên chăn khiến mộng hàn.
Năm tháng vô tình hai mái bạc,
Quân thân đau đáu tấc son mang.
Một đời sự nghiệp nên cười quá,
Được cái danh hờ giữa thế gian.
Thảnh thơi không việc lại ngâm nga,
Ngoài cõi phong lưu tự một nhà.
Ngọc bích nghìn trùng non nối mãi,
Pha lê muôn khoảnh sóng lan xa.
Ven rừng chim rộn câu đàn sáo,
Giữa xóm hoa thơm vẻ lụa là.
Đầy mắt tứ thơ giàu một thuở,
Người đời ai với bạn thơ ta.
Buồn sao “cha chả” viết lên không,
Trời đất bao la ngán phận bồng.
Việc thế quay nhìn đầu đốm bạc,
Mặt gầy nhờ rượu má hơi hồng.
Nhìn trời kêu sáng làm chim phượng,
Tránh nạn xa tên học cánh hồng.
Lưu lạc chân trời đều kiếp khách,
Lâu nay xuất xử lẽ cùng chung.
Non Bồng nước Nhược mấy bao la,
Cõi tục loay hoay tóc nửa hoa.
Chốn cũ ngoài mây suông trướng huệ,
Cơn mơ dưới nguyệt dạo non nhà.
Lòng như hạc nội tung trời rộng,
Dấu tựa chim hồng dặm tuyết nhoà.
Động núi ngày nao nương náu nhỉ,
Cửa trời quay lại ráng mây xa.
Mang sách đeo gươm khí vẫn hùng,
Biển non muôn dặm lẻ buồm dong.
Dọc đường ngày tháng ba dòng trải,
Dặm khách bà con một chữ không.
Cảnh lạ mỗi e ngày tháng mới,
Thuyền con nhớ lại mọi hồ sông.
Bốn phương chí lớn bình sinh sẵn,
“Trò mệt” phen này chối chả xong.
Buồng văn cửa đóng suốt ngày nhàn,
Ngoài ngõ không hề khách tục sang.
Xuân chuyển muộn dần trong tiếng cuốc,
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan.
Giữa động Thanh Hư trúc một ngàn,
Phơ phơ thác đổ bóng gương hàn.
Đêm qua trăng sáng trời như nước,
Mơ tới đài tiên cỡi hạc vàng.
Mừng được thân nhàn quan việc rảnh,
Suốt ngày cửa đóng ít ai qua.
Đầy nhà mây toả mai thiêu trắc,
Quanh gối thông reo tối nấu trà.
Rèn luyện chỉ hay làm tốt đấy,
Lập thân đâu hẳn đọc nhiều a?
Viển vông thực bệnh ta từ trẻ,
Cách chữa đà không tuổi lại già.
Cuộc thế kê vàng tỉnh giấc mơ,
Xem ra muôn việc thảy không hư.
Như nay chỉ thích vào non ở,
Dựng quán bên hoa đọc sách xưa
Biển Bắc năm xưa đã diệt kình,
Yên hàn còn nghĩ luyện quân binh.
Tinh kỳ phấp phới mây liền sắc,
Chiêng trống ầm vang đất động mình.
Hùm gấu oai nghi ngời vạn giáp,
Ngỗng ngan dàn trận dẹp nghìn mành.
Lòng trên muốn với dân cùng nghỉ,
Văn trị rồi nên nếp thái bình.
Cọc gỗ trùng trùng trước sóng khơi,
Ngang sông khoá sắt uổng mà thôi.
Lật thuyền mới biết dân là nước,
Cậy hiểm khôn xoay mệnh tại trời.
Hoạ phúc có nguồn đâu một buổi,
Anh hùng để hận mấy nghìn đời.
Càn khôn nay trước vô cùng ý,
Lại ở khơi xa cây khói vời.
Bềnh bồng trôi dạt ngán mười thu,
Nao nức về vui tựa mở cờ.
Bao gửi mộng hồn tìm xóm cũ,
Suông đem máu lệ tưới mồ xưa.
Búa rìu khôn dứt sau binh lửa,
Sông núi tình nay chốn khách hờ.
Đau đáu tấc lòng sao được nhỉ,
Khoang đò dằn dọc tới tinh mơ.
Nghèo ốm ta thương bác,
Ngông cuồng bác giống ta.
Đều là khách nghìn dặm,
Cùng đọc sách vài tờ.
Dông dài dùng sao nhỉ?
Nương náu đã có thừa.
Nhị Khê hẹn xuân khác,
Nón ngắn vác vai bừa.
Những từ luân lạc chốn làng xa,
Bấm đốt thanh minh mấy dạo qua.
Nghìn dặm mộ phần lơi cúng bái,
Mười năm thân thuộc thảy tiêu ma.
Mưa rào chợt tạnh trời đang tiết,
Tê cú hoa bừng xuân nửa già.
Tạm chuốc một ly đành tự gượng,
Sớm hôm đừng để khổ mong nhà.
Nước cũ lòng về theo cánh nhạn,
Lá thuyền cửa biển gió thu reo.
Kình phun sóng sấm vang nam bắc,
Giáo dựng non liền ngọc trước sau.
Trời đất nhiều tình khơi vụng lớn,
Công danh gặp hội nhớ năm nao.
Dựa chèo sững đứng ngang trời xế,
Sông lạnh ngăm ngăm nổi khói chiều.
Lặng lẽ trong phòng vắng,
Tiếng mưa suốt đêm thanh.
Đìu hiu kinh gối khách,
Rả rích đếm tàn canh.
Cách trúc luôn khua sổ,
Theo chuông vào mơ lành.
Ngâm rồi mãi chẳng ngủ,
Rả rích tới bình minh.
Vang sông chày nện vọng nơi đâu,
Trăng sáng riêng e nỗi khách lâu.
Mờ mịt ải xa sầu vợ lính,
Dồn niềm ly hận gửi lời thu.
Lá đỏ đầy sân ngõ trúc chen,
Qua chiều trăng sáng dọi đầy thềm.
Chín tầng sương gió ba canh ướt,
Dế rét tứ bề suốt tối rên.
Gió báo tin thu cây cỏ sợ,
Ngọc nghiêng sông Hán đất trời chuyền.
Phòng cao ngồi lẻ không sao ngủ,
Viết mới vần thơ tỏ chí thêm.
Gió tây xào xạc động cây cành,
Rộn điệu thương bi chạnh khách tình.
Lá úa đầy sân thu quá nửa,
Đèn xanh mưa hắt đêm ba canh.
Bệnh nhiều gầy vóc đành khan ngủ,
Quan rảnh thân nhàn mộng cũng thanh.
Một nỗi dứt xong nghìn nỗi dứt,
Gà sâu từ đó hết tranh giành.
Cuồn cuộn rồng bay thuyền vạn hộc,
Yên lành vẫn sợ lật ngang dòng.
Việc đành ứa lệ thôi lời lẽ,
Vận gặp phong ba há mẹo khôn.
Danh hão ngoài thân xa gác Khói,
Hoa chim giữa mộng vắng quê hương.
Ân cần tạ bạn nơi làng xóm,
Tạm mượn thơ nay tả nỗi buồn.
Phòng sâu tỉnh giấc mãi mơ màng,
Lòng khách lâng cùng huơng khói tan.
Im lặng đất trời e vạn biến,
Thảnh thơi ngày tháng đáng ngàn vàng.
Nếp nho hờ hững tình đời bạc,
Đất thánh dong chơi vị đạo tràn.
Truyện sách đọc xong không bộn việc,
Bên song mai cũ dạo cung đàn.
Đầy sân lá rụng tiếng lao xao,
Cơn ốm vừa qua khí lại hào.
Từ cổ đất trời văn vốn trọng,
Thu sang hồ núi hứng càng cao.
Trong guơng tóc bạc già theo đến,
Cõi thế danh hờ nghĩ mệt sao.
Mong nhớ vườn xưa ba luống cúc,
Đò về tối tối gửi chiêm bao.
Thái bình thiên tử trọng văn chương,
Mừng thấy phân minh giữa ngói vàng.
Ngọc tốt chả lo treo giá đắt,
Lan tươi rồi tự ngát mùi hương.
Bác mừng phượng múa trên cung điện,
Ta thẹn mây chưa khỏi núi rừng.
Hai mắt hoa mờ đầu lại bạc,
Chưa gì đền đáp nghĩa quân vương.
Một lòng báo quốc chí còn say,
Dựng túp lều tranh tạm tự khuây.
Vi sảnh lui về hoa chuyển bóng,
Cửa vàng tỉnh mộng giọt canh chầy.
Sách đàn vui thú ưng ham chuộng,
Thông cúc thề xưa vẫn vẹn đầy.
Chừng biết “vui sau” rành có ý,
Trăm năm sự nghiệp đợi mai này.
Dọc sông nghìn dặm đuốc hồng dâng,
Cỡi gió thuyền hoa lướt sóng gầm.
Mười trượng lâu đài tan khí ảo,
Ba canh còi trống mạnh oai quân.
Trăng dằm sóng biếc ngọc nghìn khoảnh,
Mây duổi hèo tiên trời chín tầng.
Khuya khoắt song bồng mơ tỉnh giấc,
Ngờ chuông Trường Lạc cách hoa ngân.
Thuyền nhỏ buộc nắng xế,
Xăm xăm tới Phật đài.
Mây về giường sư lạnh,
Hoa rụng suối huơng trôi.
Ngày tối tiếng vượn gấp,
Núi quang bóng trúc dài.
Nơi đây bao tình ý,
Muốn nói chợt quên rồi.
Mưa thưa khói nhạt tối mơ hồ,
Sắc nước màu trời nửa thực hư.
Muôn thuở càn khôn tươi cảnh sắc,
Vì ta non biển mới dư đồ.
Nhớ từng giảng học quá mười niên,
Nay lại cùng nhau ngủ một đêm.
Vừa thú trong mơ quăng thói tục,
Lại tìm trên núi kể tiền duyên.
Đò về Linh Phố chèo mai sớm,
Nghe suối Côn Sơn hẹn có phen.
Chớ trách ta già ngông lối nói,
Chia tay ta cũng sẽ tham thiền.
Cỏ xuân đầu bến xanh như khói,
Thêm nữa mưa xuân nước vỗ trời.
Vắng lạnh đường quê hành khách ít,
Thuyền trơ gác bãi suốt ngày ngơi.
Lãm Thuý đình đông rừng kín trúc,
Cửa sài sớm quét lặng như tờ.
Ánh sông lụt rút thanh lòng tục,
Màu núi sau mưa đẹp mắt thơ.
Ngoài cửa chim kêu hay khách đến,
Bên sân lá rụng biết thu già.
Song trưa tỉnh giấc thôi không ngủ,
Tựa ghế thiêu hương động phím tơ.
Nhỏ nhỏ hiên song nhà thấp thấp,
Dinh quan nơi ẩn giống vô ngần.
Buông câu thong thả dòng sông biếc,
Đọc sách thư nhàn bóng lá râm.
Mưa tạnh hơi non luồn cửa sổ,
Gió về sóng tuyết múa thềm sân.
Song trưa lặng sạch không trần luỵ,
Một tấm lòng thanh vượt chín tầng.
Ngõ hẻm nhà sâu khổ quạnh hiu,
Khăn thâm gậy trúc dạo chơi chiều.
Nắng tà thôn vắng cây vương ráng,
Người ít đường quê nước ngập cầu.
Nay trước không cùng… sông bát ngát,
Anh hùng có hận… lá lao xao.
Quay về ngồi lẻ lan can dựa,
Trời biếc gương thiềm một tấm treo.
Trời xa man mác nước mông mênh,
Thu muộn vàng gieo khắp núi ghềnh.
Ao ước bên hoa đôi nhạn trắng,
Luỵ đời không gợn bến sông xanh.
Đường tới Vân Đồn núi núi lan,
Trời cao đất dựng cảnh kỳ quan.
Một vùng lam biếc gương trong sáng,
Muôn mớ xanh đen tóc mượt tràn.
Vũ trụ chợt lâng non biển bụi,
Phong ba không động dạ gan vàng.
Nhìn ra bờ cỏ xanh mươn mướt,
Nghe nói thuyền Phiên đậu bán hàng.
Vọng Doanh chiều tới buộc thuyền thơ,
Thơ hứng trêu nhau khó hững hờ.
Dục Thuý tan mưa non tựa ngọc,
Đại An sóng dậy nước không bờ.
Cây xa tăm tắp ngang hơi biếc,
Bãi cát mênh mông trước cánh cò.
Ba chục năm xưa hồ biển trải,
Chuyến này vui thú vượt ông Tô.
Trên đây là các bản thơ dịch tác giả khác của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn mà chúng tôi muốn giới thiệu tới bạn. Qua đó bạn sẽ hiểu thêm về phong cách và khuynh hướng sáng tác của các nhà thơ này. Hy vọng với các tài liệu hữu ích này sẽ bổ trợ cho bạn trong việc nắm các nội dung thơ cũng như phong cách sáng tác lúc bấy giờ.