Qua Đèo Ngang là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Bà huyện Thanh Quan. Bài thơ là sự miêu tả cảnh đẹp Đèo Ngang hoang sơ, vắng vẻ qua đó ta thấy được tâm trạng thầm kín, niềm yêu nước thương dân của tác giả trước sự đổi thay của thời cuộc.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Bài thơ Qua Đèo Ngang của bà huyện Thanh Quan được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ được nhà thơ viết vào khoảng thời gian … tác giả đang trên đường vào Phú Xuân đi qua đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào và Bà huyện Thanh Quan đã sáng tác bài thơ này.
Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà thương nước của một người con hiến mình cho tổ quốc.
Bài thơ Qua đèo Ngang là một bài thơ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, qua đó bộ lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếng về một thời kì xã hội đang suy tàn.
Mở đầu bài thơ là hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Ở câu thơ đầu tác giả đã miêu tả khái quát toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian của toàn bài thơ. Với cách mở đầu vô cùng tự nhiên, không hề gượng ép. Đây chính là “tức cảnh sinh tình” trước khung cảnh Đèo Ngang – một địa danh non nước hữu tình ở nước ta. Bài thơ miêu tả khung cảnh “chiều tà” gợi lên một khung cảnh hoàng hôn thật đẹp, nhưng cũng thật buồn.
Thời gian của một ngày khắp trôi qua, nhưng nổi bật trên khung cảnh ấy là một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “cỏ cây” “hoa”. Với việc sử dụng động từ “chen” vừa mạnh vừa mẹ cùng với phép liệt kê hàng loạt càng làm tăng thêm sự sinh động cho bức tranh phong cảnh đèo Ngang.
Hình ảnh cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.
Tiếp đến hai câu thực:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hai câu thơ thực của bài thơ là sự miêu tả bức tranh của đèo Ngang khi nhà thơ đang nhìn từ trên cao, phóng mắt về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người. Câu thơ là sự xuất hiện của hình dáng con người, nhưng được diễn tả vô cùng hiu hắt, lẻ loi. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.
Hai câu luận của bài thơ là sự khắc họa tâm trạng thê lương, não nề:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Nhà thơ lấy hình ảnh con “quốc quốc” để nói hộ lòng mình. Tiếng kêu của con chim nhỏ bé, càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Hai câu kết của bài thơ :
Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Là khép lại những cảm xúc về khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ, thật trùng điệp khiến cho tác giả không muốn rời chân đi. Vẻ đẹp bao la của non nước, mây trời níu chân người thi sĩ. Trước không gian cảnh vật rộng lớn ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn, lẻ loi trong mình. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc càng thêm sự xót xa.
Bài thơ Qua Đèo Ngang là một bài thơ “tức cảnh sinh tình” là lời nhắn gửi, nỗi niềm tâm sự của nhà thơ Bà huyện thanh quan gửi đến người đọc. Qua sự miêu tả bức tranh thiên nhiên, cảnh vật ở Đèo Ngang là sự thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân của nhà thơ.