Câu thơ tài hoa được nhiều người tìm đọc nhất hôm nay 29/03/2024

Em về suối tóc thành sông
Thả bao nhiêu sóng vào trong anh rồi !

Suối tóc - Nguyễn Hải Phương

Top 20 bài thơ có tổng lượt xem nhiều nhất hôm nay 29/03/2024

THÁNG BA CỦA MẸ

Con về bên mẹ một chiều tháng ba
Vào mùa hoa bưởi thi nhau toả ngát
Đôi mắt mẹ buồn trong chiều nắng nhạt
Dõi theo hương bưởi ngan ngát hiên nhà.

Con biết giờ mẹ đang nhớ về cha
Nhớ về người đã ra đi mãi mãi
Nhưng tấm chân tình vẫn còn khắc khoải
Gửi một loài hoa giữ lại cho mình.

Cha mẹ sinh ra vào thời chiến chinh
Tuổi đôi mươi cha quên mình ra trận
Bông bưởi tặng mẹ ngày tiễn bước chân
Bảo mẹ đợi ngày gần cha trở lại.

Chiến tranh khốc liệt ai biết ngày mai
Có trở lại không người trai thửa ấy
Tháng ba về có một người vẫn vậy
Nhìn cánh hoa thương nhớ người đi xa.

Cha trở về trong hành khúc ngân nga
Mẹ ra đón cũng là mùa hoa bưởi
Anh thương binh nở nụ cười thật tươi
Chỉ một cánh tay ôm người con gái.

Bông bưởi thơm mái tóc mẹ cha cài
Ngỡ hạnh phúc ngọt lành thuộc về mẹ
Biết đâu trời lại gieo những éo le
Mẹ mang thai con cha rời xa mãi.

Lần thứ hai cha đi chẳng trở lại
Hương bưởi không còn khắc khoải ngóng trông
Bông trắng nhỏ thơm ngát toả mênh mông
Ru mẹ trở về dòng sông kỉ niệm.

Hương bưởi thơm trái tim mẹ vĩnh viễn
Thuộc về cha dù cha mãi xa rồi.

Chiên Nguyễn

Tương Tư

Tương Tư

Tương Tư (Tản Đà)

Quái lạ, làm sao cứ nhớ nhau,
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu.
Bốn phương mây nước, người đôi ngả,
Hai chữ “tương tư” một gánh sầu.

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Tương Tư” của tác giả Nguyễn Khắc Hiếu. Thuộc tập Khối Tình Con > Quyển II (1918), danh mục Thơ Tản Đà trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Tội Giặc

Tội Giặc

Tội Giặc (Lưu Trọng Lư)

Từ chiến địa trở về
Ngủ một đêm Đèo gió
Trăng như vừng gương nhỏ
Trên tay em gái sàn
Nước máng từng giọt tràn
Như đàn tranh tưng tửng
Hương bưởi gần, thoang thoảng
Nằm nghe gió rúc xa
Dưới ánh lửa hồng cô giáo Thuỷ
Nhớ trò, nhớ lớp ngồi ngẩn ngơ.

(Cao Bằng 3-1979)

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Tội Giặc” của tác giả Lưu Trọng Lư. Thuộc danh mục Thơ Lưu Trọng Lư trong những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Khám phá 111 bài thơ hay về tình bạn thân được yêu thích nhất mọi thời đại

Những bài thơ hay về tình bạn thân da diết đi sâu vào tâm khảm của bạn đọc sâu sắc. Bạn thân luôn là người chia ngọt sẻ bùi và bảo vệ bạn trước những khó khăn trong cuộc sống, là người tuy chưa bao giờ nói lời ngọt ngào nhưng lại luôn quan tâm đến bạn từ những điều nhỏ nhặt nhất. Để bày tỏ sự trân trọng và tình cảm của mình đến người bạn tuyệt vời ấy thì hãy tham khảo những bài thơ hay về tình bạn này nhé! Đừng bỏ lỡ nha!

Những bài thơ hay về tình bạn thân luôn được nhiều bạn trẻ tìm đến để cảm nhận rõ hơn về thứ tình cảm thiêng liêng đặc biệt nhất của cuộc đời. Tình bạn đôi khi còn đẹp hơn tình yêu bởi sẽ không ai bỏ mặc bạn và cũng chẳng có sự chia ly. hãy cùng theo dõi những bài thơ hay về tình bạn này nhé!

1. Mình không gặp bạn hiền yêu dấu,
Hai đứa thân, từ thuở lớp ba.
Bây giờ bạn lấy chồng xa
Con thơ bận quá đôi ta khó gần.
Tôi khuya sớm chuyên cần làm việc
Và còn đang học miết bạn ơi
Về nhà mình chẳng nghỉ ngơi
Chồng con lo lắng đứng ngồi không yên.
Nhiều khi muốn hàn huyên một lúc
Nhưng quá xa bạn thức khuya cùng
Trên dòng lưu bút mình dùng
Viết lên nỗi nhớ ngày chung đến trường.
Kể sao hết tình thương ngày ấy
Bạn với tôi đều thấy niềm vui
Nụ cười luôn thắm trên môi
Đi đâu hai đứa sóng đôi chuyện trò.
Giờ xa bạn muốn cho gần lại
Để gặp nhau nhắc mãi tuổi thơ
Ngày xưa đôi bạn như mơ
Giờ đây xa cách mịt mờ nhớ nhung…

2. Dòng đời xuôi ngược gặp nhau
Tri giao tín nghĩa tình sâu giữ tròn
Hỡi ơi nước chảy đá mòn
Đổi thay mặn nhạt hàn ôn mấy người?
Thương nhau chín bỏ làm mười
Giữ cho cuộc sống thắm tươi mặn nồng
Dù rằng gặp cảnh gai chông
Chung tay tiếp sức đồng lòng vượt qua
Đắp bồi tình cảm nở hoa
Đẩy lùi tủi hận xót xa u hoài
Kiên trì hướng đến tương lai
Thẳng lưng tiến bước dặm dài nề chi
Bạn bè là nghĩa tương tri
Có duyên gặp mặt mấy khi trong đời
Trên môi hé nở nụ cười
Sống vui, mạnh khỏe làm người nghĩa nhân.
Chùm thơ hay nói về bạn bè đểu, chơi xấu nhau

3. Bước đường đời bao trắc trở gian nan
Đừng một mình cúi đầu đi lặng lẽ
Hãy chung tay mình cùng nhau san sẻ
Chút cơ hàn bớt nặng gánh đôi vai.
Vì cuộc sống đâu biết trước ngày mai
Nên hôm nay hãy cùng nhau cố gắng
Mình chia nhau những ngọt bùi cay đắng
Để dìu nhau mạnh mẽ bước vào đời.
Cùng sát cánh nhé bạn của tôi ơi
Những người bạn bên đời tôi thân mến
Nếu như cho tôi vạn lời ước nguyện
Tôi chỉ mong tình bạn mãi chân thành.
Hãy lưu giữ tình bạn của chúng mình
Trong thâm tâm và sâu nơi tiềm thức
Dù mai đây nơi trời xa cách biệt
Phút chạnh lòng lấy kỷ niệm tìm vui.

4. Nếu đau buồn bạn dựa vào vai tôi
Khóc lên đi khóc một hồi cho nhẹ
Là con người có ai luôn mạnh mẽ
Nếu có thể bạn hãy kể cho tôi.
Nỗi buồn nào cũng có thể phai phôi
Nỗi đau nào trước sau rồi cũng đỡ
Hãy đứng lên khi ta còn hơi thở
Đừng vì nó mà cản trở tương lai.
Con đường đời nhiều cạm bẫy chông gai
Gặp khó khăn cùng ghé vai san sẻ
Đừng e ngại mà một mình lặng lẽ
Vui hay buồn mình không thể quên nhau.
Là bạn tốt phải sống trước như sau
Giầu hay nghèo vẫn bền lâu tình bạn
Sang hay hèn chẳng bao giờ nghĩa cạn
Để tình bạn được trong sáng như gương!
Thơ tình bạn tốt đẹp

5. Nhớ xưa áo trắng tinh khôi
Học tan ở lớp sóng đôi đi về
Đôi bạn hẹn ước cùng thề
Thi vào đại học ta về trường chung
Sắp ngày đại học trường xa
Bạn xinh nên có người ta hỏi trầu
Thẹn thùng ngúng nguẩy vài câu
Rồi bạn cũng phải gật đầu người ta
Còn tôi tiếp tục học xa
Đến khi về lại bạn đà hai con
Gặp nhau nước mắt nỉ non
Ôn bao kỷ niệm thời còn hoa niên
Nhìn cảnh bạn cũng điền viên
Vui mừng hai đứa triền miên nói cười
Nhìn bạn lòng tôi bồi hồi
Mỗi người mỗi cảnh một thời vấn vương.

6. Tôi luôn nghĩ chúng ta là bạn
Nên tôi thường mạnh dạn nói ngay
Việc làm của bạn thế này
Thật là sai trái không hay chút nào
Tốt cho bạn mà sao chẳng hiểu
Chơi với nhau từ tiểu học mà
Khó khăn cứ việc nói ra
Bạn ơi tôi chẳng nề hà điều chi
Bạn có hiểu những gì tôi nói ?
Đừng vội vàng đối chọi với nhau
Hãy nên xét lại từ đầu
Chuyện gì cũng có trước sau bạn à
Tôi rất muốn chúng ta sẽ mãi
Ở bên nhau như lái với thuyền
Dù cho sóng gió truân chuyên
Đôi ta vẫn cứ vẹn nguyên thâm tình.

7. Bài thơ này tôi viết chắc không hay
Nhưng tôi viết vào một ngày vui nhất
Dòng thơ chảy từ trái tim chân thật
Bằng lời riêng.. chân chất.. tận đáy lòng.
Ở phương nào..bạn có hiểu được không?
Từ cái buổi.. chỉ đôi dòng tin nhắn
Tôi khuyên bạn đừng để lòng quạnh vắng
Trải lòng mình.. ánh nắng.. sẽ vào tim.
Hai tiếng “hi hi” sao thật quá êm đềm
Tôi với bạn.. xích gần thêm một chút
Chia sẻ cùng tôi.. dù chỉ thêm một phút
Để lòng nhẹ nhàng.. được một lúc bạn ơi !
Mình mong sao bạn luôn nở nụ cười
Nụ cười đẹp.. và tươi.. ngày xưa ấy
Nhạc và thơ.. làm cho ta vui đấy
Nhưng đừng nhốt mình.. những thứ ấy.. vô tri.
Những lúc buồn bạn vẫn cứ cười đi
Hay san sẻ.. những gì.. cho bè bạn
Sầu đau sẽ mờ dần theo năm tháng
Niềm vui lại tìm đến bên bạn.. bạn ơi!

8. Bao năm rồi tao mày chẳng gặp nhau
Thằng bạn thân thuở nào còn tấm bé
Chắc mày quên..nhưng tao còn nhớ nhé
Kỷ niệm một thời mãi sẽ khó quên
Bao năm rồi bởi cuộc sống lênh đênh
Dù xa nhau..tên mày tao vẫn gọi
Khi cô đơn giữ thị thành chật chội
Thằng bạn nghèo nơi mái ngói làng xưa
Nhớ không mày..ngày ấy những khi mưa
Đã trần truồn khi trời vừa rớt hạt
Hai đứa cười lúc mẹ lo và quác
Mưa đầu mùa chắc bệnh mất biết không
Bao năm rồi tao luôn vẫn ước mong
Dù xa xôi có nửa vòng trái đất
Tao với mày sẽ một lần gặp mặt
Ngồi chuyện trò lượm nhặt lại thời gian
Hãy luôn gìn giữ tình thứ tình cảm này nhé!

9. Sau những vui buồn mình phải chia xa
Bạn bè ơi, biết bao giờ gặp lại?
Đường đến tôi là con đường xa ngái
Nẻo tôi về dài hơn cả một chuyến bay
Yêu thương này tôi khắc lên bàn tay
Lằn chỉ tay nát nhàu ẩn hiện
Đường “bạn hữu” ở đâu, nào ai biết!
Nắm tay vào vẽ một nét bình yên
Ở nơi xa, khi băng giá triền miên
Tôi gắng giữ cho trái tim ấm áp
Da dẫu xạm đi, bàn tay khô ráp
Giữ trên môi trong trẻo một nét cười
Để mai này, lỡ bạn gặp tôi
Sẽ nhận ngay ra nụ cười thơ thuở ấy
Sẽ nghe trong ta ấm nồng lửa cháy
Nhóm lên bằng năm tháng, ngọt ngào ơi!

10. Mơ gì em một thời đã qua
Một thời ước mơ thành cổ tích
Một thời điểm năm là nước mắt
Giọt tím buồn rơi trên cánh hoa xinh
Em ngồi đây, nghĩ về bạn, về mình
Cửa sổ mở tung, phượng xoè năm cánh đỏ
Mực nhoè bẩn lần cuối cùng trên vở
Giữa sân trường một tiếng trống vương rơi
Biết bao giờ em trở lại, thày ơi
Ai sẽ thay em trên ghế vẫn ngồi
Ai sẽ ngắt trộm hoa trong vườn thắm
Gai hồng tươi, tay ngượng giấu sau lưng?
Ai sẽ bước vui trong nắng tưng bừng
Vừa hết tiết đã vội quên lời thày mắng?
Và ai sẽ khóc đắng cay… Hành lang vắng
Gió xôn xao, lời an ủi ngọt ngào?
Bài ca chia tay ai viết tự khi nào?
Ai đã hát và ai còn sẽ hát?
Khuông nhạc đổi thay nốt nhạc không hề khác
Nét chấm dôi cuối cùng… ngân mãi đến xa xôi

11. Tôi lớn lên cùng tuổi thơ của tôi
Cùng những con đường đạp xe không mệt mỏi
Những buổi chiều “dịu dàng không chịu nổi”
Những cái tên như khắc chạm trong đầu
Cứ ngỡ rằng mình đã lớn từ lâu
Sao càng lớn càng mơ về thơ ấu?
Lấy ngây thơ trèo me, nhặt sấu
Làm thước đo cho những quãng đời
Tôi như người của năm tháng xa vời
Nhặt nhạnh những cũ xưa gom góp về thực tại
Tập làm người với những điều khôn dại
Tập nhìn đời nhân hậu như trẻ thơ
Cô bé con hai bím tóc ngày xưa
Luôn nhìn tôi (thật buồn cười!) nghiêm nghị
Tôi có quên, có quên gì không nhỉ:
Ngôi nhà thân yêu nuôi lớn những ước mơ
Câu chuyện kể đêm mưa với kết thúc bất ngờ
Những trò chơi triền miên bên đống cát
Đêm lửa trại người đàn, người hát
Ngày ra trường nước mắt đẫm vai nhau…
Tôi bước đi về nơi đâu, nơi đâu
Cũng thấy mình bé hơn cô bé có hai bím tóc
Nhớ về tuổi thơ mình và khóc
Và lớn lên…

12. Mình với cậu chỉ là bạn thôi
Không thể hơn, suốt đời chỉ vậy!
Dù vắng cậu, mình có buồn thật đấy
Nhưng buồn – đâu phải đã cô đơn!
Mình với cậu chưa có phút giận hờn
Nhớ về cậu chưa bao giờ mình… khóc
Gặp nhau ở cầu thang, chỉ cười bằng mắt
Chỉ cười hoài… vì là bạn, không hơn!
Cậu ở bên, mình luôn thấy rất vui
Nhưng không bực nếu cậu đi cùng người khác
Và hồng trắng là hoa mình yêu nhất
Cậu biết rồi… Sao lại tặng hồng nhung?
Mình với cậu chỉ là bạn thôi!

13. Tình bạn là lá là hoa
tình bạn là cả bài ca trên đời
tình bạn trong sáng tuyệt vời
đẹp hơn tất cả bầu trời ban đêm
đời mỗi người chỉ là trang giấy nhỏ
chỉ xấu đi đâu có thể sáng ngời
ai biết ai trong cả cuộc đời
nhưng quen rùi xin đưng quên nhau nhé
Tình bạn là những vần thơ
Tối về đắp gối ngâm quơ vài lời
Tình bạn áo trắng một thời
Bây giờ áo bạc phai rồi vẫn treo
Tình bạn hạt giống mang theo
Suốt đời tri kỉ gieo được mấy cây!

Những bài thơ về tình bạn tri kỉ luôn ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào sâu sắc. Người bạn tri kỉ là người sẽ không bao giờ bỏ mặc chúng ta mỗi lúc khó khăn hay vấp ngã. Hãy nói lời cảm ơn thật chân thành đến người bạn tuyệt vời của mình bằng những bài thơ hay về tình bạn này nhé!

– Ừ thôi, trả phía sân trường
Dấu chân hai đứa thuở dường như yêu
Tháng năm chiếc lá rơi vèo
Hoa bằng lăng cứ tím cheo leo lòng
Sau này còn nhớ hay không
Mắt người hôm ấy điếng hồn của ta
Trái tim ngơ ngác ngã ba
Chúng mình sau rốt vẫn là bạn thôi
Đi qua cảm xúc một thời
Mới hay thuở ấy có người thầm thương
Bây giờ hai đứa ra trường
Vô tình thôi, có chút vương vấn nào
Bằng lăng tím đến xa nhau
Câu thơ không gửi cũng nhàu vệt mong
Ngày cuối nghe tiếng trống trường
Nghe nôn nao cả con đường học tan
Hái về một đoá bằng lăng
Đinh đem tặng
Lại lặng thầm cho thôi
Người ở đây – mai xa rồi
Ngoảnh đầu mình giấu những lời dấu yêu
Một chiếc lá nữa rơi vèo
Thế là đã đủ để neo lòng mình…

– Một ngày thấy mình không còn muốn khóc?
Nỗi buồn xưa đã nhạt nhẽo quá rồi.. !
Chợt biết tình yêu không hẳn là biển rộng..!
Những gì một thời ta đau đớn khôn nguôi..!
Một ngày thấy mình cười sao khó quá?
Tán phượng xanh đã đổ mấy lá vàng..
Có những người chưa bao giờ gặp lại..
Kể từ bãi trường độ ấy- thu sáng..
Ta đã cất tà áo dài ngày nọ
Cả những câu thơ biết khóc biết cười
Cả một thời không biết mình trẻ dại
Trong trẻo vui đùa mười tám đôi mươi..
Cả tình yêu, tà áo dài, tán phượng..
Ta ngỡ sẽ theo chân đến suốt cuộc đời
Câu thơ biết cái năm mười chín tuổi
Hai mốt rồi đã biết chỉ thơ thôi..
Ta chẳng gửi lại bài thơ áo trắng
Nỗi buồn ngây ngô cũng hóa đá lâu rồi
Chỉ còn tán phượng bên đường hoài đứng đợi.
Những tà áo dài mười tám, đôi mươi..

– Hoa phượng tàn, xác phượng rụng ngẩn ngơ
Thảng thốt tiếng ve rơi chiều lặng gió
Ba mươi tuổi lòng bỗng quay quắt nhớ
Về sân trường thuở mười sáu mười lăm
Nơi tàng cây xao xác lá bâng khuâng
Ta đứng dưới cơn mưa chiều xa vắng
Người con gái đi ngang nhìn lãng mạn
Nở nụ cười mới khó hiểu làm sao !
Nơi nằm ngoan những vạt cỏ ca dao
Ru đôi lứa ban trưa vào tình tự
Tuổi mười sáu riêng lòng ta lúc đó
Phải không em thầm kín đến dường nào
Ngày quen nhau đêm dằng dặc chiêm bao
Em hiển hiện, em chập chờn chiếc bóng
Hoa phượng nở bất ngờ hoa phượng rụng
Tiếng ve gần bất chợt hóa xa xôi
Ngẩn ngơ lòng vô cớ những buồn vui
Tập nhật ký dịu dàng dòng mực tím,
Từng trang viết bàng hoàng bao kỷ niệm
Về thân thương một mùa hạ đầu đời
Mười lăm năm vẫn tàng phượng ấy thôi
Và tiếng ve vẫn tiếng ve ngày cũ
Người bạn gái năm nào, giờ, có nhớ
Như lòng mình khi về lại trường xưa .

– Bây giờ ai đã quên chưa ?
Màu hoa phượng nở khi Hè vừa sang
Bâng khuâng dưới ánh nắng vàng
Tặng nhau cánh phượng ai mang đi rồi
Ngày xưa chỉ có vậy thôi
Có ai biết được để rồi cách xa
Mùa Hè từng mùa Hè qua
Tiếc hoài cái tuổi ngọc ngà chẳng quên
Nỗi buồn không thể đặt tên
Nhẹ nhàng nhưng lại mông mênh trong lòng
Ai còn nhớ kỷ niệm không?
Ngày xưa, một cánh phượng hồng đã trao .

– Xào xạc lá vàng bay trong gió,
Sân trường vắng lặng tiếng đùa vui.
Mình tôi bước giữa sân trường cũ,
Nghe tiếng ve buồn gọi hè sang!
Nhặt cánh phượng rơi lòng xao xuyến,
Bâng khuâng nhớ lại kỷ niệm xưa!
Bóng dáng thầy cô cùng bạn học,
Giờ đây chẳng biết ở nơi nao?

– Tâm giao tri kỷ hiến tình vì ân
Ngày nay hỏi khắp thế nhân
Tìm đâu hai đứa bạn thân Lễ – Bình?
Giàu nghèo, cao thấp, nhục vinh…
Phân chia giai cấp nghĩa tình bỏ quên
Chạy theo danh vọng hão huyền
Chạy theo vật chất của tiền háo danh…
Bề ngoài dáng vẻ cao thanh
Bên trong hoen ố mọc nanh cáo già
Tiền không thương kẻ thật thà
Tình không thương kẻ điêu ngoa dối lòng!
Đã là nghĩa nặng tình thâm
Đã là người phải lấy TÂM làm đầu
Trọn tình bằng hữu trước sau
Vẹn toàn giao ước như câu ăn thề…
Tiểu nhơn, gian dối làm chi
Cứ nơm nớp sợ, cách ly mọi người
Thế gian tất cả của trời
Trời không cho hết, không đòi riêng ai…
Như ta đây sống khoan thai
Có nghèo một tí hỏi ai khinh nào?
Mang danh hiểu biết học cao
Lễ ơi! Mày đã quên tao là Bình ?!

– Nhánh phượng hồng rũ xuống
Đọng buồn trong mắt ai
Bàn tay nào luống cuống
Nắm vội một bàn tay
Xa nhau mấy mươi ngày
Hay sẽ không gặp lại
Tuổi học trò vụng dại
Chỉ còn một buổi nay
Rồi sân trường sẽ vắng
Những tà áo trắng bay
Gốc phượng nằm thinh lặng
Nhớ nhịp guốc vui tai
Trở mình trong trang vở
Vài chiếc lá thuộc bài
Dăm bài thơ dang dở
Một mối tình phôi thai
Dẫu ngày tháng tàn phai
Phượng hồng còn mơ mãi
Tuổi học trò dấu ái
Một thuở nào nồng say .

Những bài thơ hay về tình bạn thân đầy ý nghĩa sâu sắc đã được chúng tôi cập nhật dành tặng cho các bạn. Hãy dành một phút thôi suy nghĩ đến người bạn ngây ngô luôn đi cạnh mình trên những con đường, nhớ đến người luôn hớn hở trêu đùa ta nhưng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Hãy trân trọng tình bạn đơn thuần và đẹp đẽ này nhé các bạn! Thân Ái!

Độc Ác

Độc Ác

Độc Ác (Tế Hanh)

Còn gì sướng cho bằng trông cặp mắt
Êm như nhung, sưng tím, lệ tràn trề;
Ngắm bộ ngực tròn xinh đau quằn quại
Nặng nề buông trong hơi thở đê mê!

Nguồn vui thú hãy tìm trong tiếng khóc.
Rách đau thương như lụa xé tơi bời;
Trên cặp mắt môi đỏ tươi như vết máu
Kiếm nụ cười héo hắt tựa hoa rơi.

Vì ta quá yêu em – nhưng thất vọng!
(Ngàn muôn năm, yêu chỉ nghĩa là điên)
Nên ta mong lấp vùi lòng đau đớn
Trong những giờ vui thú nhọn như kim.

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Độc Ác” của tác giả Trần Tế Hanh. Thuộc tập Nghẹn Ngào (1939), danh mục Thơ Tế Hanh trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Ba mươi sáu phố phường

Hàng Buồm chẳng còn cánh buồm
Thuyền đậu nơi nào em đến
Sông Hồng cách xa biền biệt
Bãi ngô cát trắng mùa xuân.

Hàng Chuối
Đâu còn có chuối
Vài cây cơm nguội trăm tuổi
Lác đác những chú chim sâu.

Hàng Nâu
Rồi sang hàng Lược
Lược chải tóc em ngày xưa.
Áo trắng tóc dài trên phố.

Hương chanh hương cốm mùa thu.
Hàng Đào hoa đào mấy độ?
Hàng Bạc tìm thợ làm vàng.
Hàng Cót rẽ về hàng Than.

Hàng Da em tìm giầy dép.
Hàng Nón nón trắng dập dờn
Hàng Bông nào còn bông vải
Hàng Gai đàn ai đêm tối

Văng vẳng mấy giọng hát đào
Hàng Mã chợ hoa ngày Tết
Hoa hồng đào thế Nhật Tân.
Run run rét về trong mắt

Mê hồn những sắc những hoa
Ta yêu mái nhà phố Phái
Nguệch ngoạc đơn sơ tài hoa.
Ta yêu hàng cây bờ cỏ

Tháp Bút viết suốt ngàn năm.
Hồ Gươm Rùa vàng đã nổi
Mùa xuân em có về không ?
Ba sáu phố phường Hà Nội.

(1996)

Thái Thăng Long

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly)

Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly)

Bùi Minh Quốc sinh ngày 3/10/1940, quê ở Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây. Ngay từ khi còn là học sinh trung học, ông đã sớm nổi tiếng ở miền Bắc với bài thơ Lên miền Tây. Bài thơ này đã được phổ biến rộng rãi và đưa vào chương trình giáo khoa phổ thông thời bấy giờ. Ông còn có bút danh là Dương Hương Ly. Cuộc đời của ông đã từng gắn liền với huyền thoại về sự hy sinh của văn nghệ sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thời ấy, Ông đã cùng với vợ là nhà thơ Dương Thị Xuân Quý gửi con gái đầu lòng mới 16 tháng để vào Nam chiến đấu và vợ ông đã hy sinh tại chiến trường miền Nam. Sau năm 1975, ông từng giữ các trách nhiệm Phó chủ tịch hội Văn nghệ và Tổng biên tập Tạp chí Ðất Quảng tại Quảng Nam – Ðà Nẵng, rồi chủ tịch hội Văn nghệ tỉnh Lâm Ðồng (1987)… phongnguyet.info xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.

Bài thơ: Đất quê ta mênh mông

Đất quê ta mênh mông

Thơ Bùi Minh Quốc

Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh
nay mẹ đã phơ phơ bạc đầu
mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác
bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh.

Đất nước mình hai mươi năm chiến tranh
tiếng cuốc năm canh nặng tình đất nước
hầm mẹ giăng như luỹ như thành
che chở mỗi bước chân con bước.

Đất quê ta mênh mông
quân thù không xăm hết được
lòng mẹ rộng vô cùng
mẹ giấu cả sư đoàn dưới đất
nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất
nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam.

Trên nắp hầm
bầy giặc Mỹ xúm vào đánh mẹ
nửa lời không hé
mẹ lặng thinh trước những trận đòn thù.

Trên mình mẹ mang nhiều thương tật
tóc mẹ bạc rồi lại bạc thêm
nhưng đêm đêm
từng nhát cuốc vẫn xoáy vào ruột đất.

Có những đoàn quân từ lòng đất xông lên
quân thù bạt vía
xung quanh chúng đều là trận địa.

Đất quê ta mênh mông
lòng mẹ rộng vô cùng.

9-1967

Bài thơ: Có khi nào

Có khi nào

Thơ Bùi Minh Quốc

Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đã đợi từ lâu…

Bài thơ: Bài thơ về hạnh phúc

Bài thơ về hạnh phúc

Thơ Bùi Minh Quốc

(Tưởng nhớ XQ thân yêu)

I
Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên
Trên mồ em có mùa xuân ở mãi
Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên.

Trời chiến trường không một phút bình yên
Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc
Ôi mũi lê này hôm nay sao sáng quắc
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.
Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc
Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường
Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương
Anh nổ súng.

II
Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt.

Nhớ chăng em, cái mùa mưa đói quay đói quắt
Mỗi bữa chia nhau nửa bát măng rừng
Em xanh gầy, gùi sắn nặng trên lưng
Môi tái ngắt, mái tóc mềm đẫm ướt
Bao giốc cao em cần cù đã vượt
Và mỗi lần ngồi nghỉ, em nhìn anh
Em nói tới những điều em định viết
Giữa hai cơn đau em ngồi ghi chép
Con sông Giàng gầm réo miên man
Nước lũ về… Trang giấy nhỏ mưa chan
Em vẫn viết: lòng dạt dào cảm xúc.

Và em gọi đó là hạnh phúc…

Nhớ chăng em, ngày mở màn chiến dịch Đông Xuân
Em lên đường phơi phới bước chân
B.52 bom nghìn tấn dội
Kìa dáng em băng rường bước vội
Vẫn nụ cười tươi tắn ấy trên môi.
Thôn 6 Bình Dương bãi cát sóng dồi
Nắng long lanh trong mắt người bám biển
Giặc mới lui càn khi em vừa đến
Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng
Quanh những bờ dương bị giặc san bằng
Đã lại mở những chiến hào gai góc
Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học
Những vồng khoai ruộng lúa vẫn xanh tràn
Trong một góc vườn cháy khét lửa Na-pan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc.

Và em gọi đó là hạnh phúc…

Như chồi biếc gặp mưa xuân, như chim én say trời
Em mải mê, đi giữa bao người
Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hà, Xuyên Phú…
Những mảnh đất anh hùng quyến rũ
Phút giây đầu đã ràng buộc đời em
Như tự lọt lòng từng biết mấy thân quen
Em nhỏ giao liên, mẹ hiền trụ bám
Cô du kích dịu dàng dũng cảm
Sông Thu Bồn hằng xao động tâm tư
Có tiếng hò như thực như hư
Em đã đến, tắm mình trong sóng nước
Sông kể em nghe chuyện đôi bờ thủa trước
Em mở mắt nhìn kinh ngạc những làng thôn
Và kêu lên khi được thấy cội nguồn
Mỗi sự tích trên đất này thắng Mỹ.
Em đã gặp bao anh hùng dũng sĩ
Đã cùng họ sẻ chia
Cọng rau lang bên miệng hố bom đìa
Phút căng thẳng khi vòng vây giặc siết
Nỗi thống khổ ngút ngàn không kể hết
Của một thời nô lệ đau thương
Em lớn lên bên họ can trường
Giữa bom gào đạn réo
Em đã thấy những tâm hồn tuyệt vời trong trẻo
Những con người như ánh sáng lung linh
Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình
Để làm nên buổi mai đầy nắng
Em bối rối, em sững sờ đứng lặng
Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên
Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc.

Và em gọi đó là hạnh phúc…

III
Em ra đi chẳng để lại gì
Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai.
Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống
Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu
Em trong anh là mùa xuân náo động
Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu.

8 tháng 3 – 1969
6 tháng 9 – 1969

Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009

Bài thơ: Thơ tặng vợ hiền

Thơ tặng vợ hiền

Thơ Bùi Minh Quốc

Em ngồi đó, quên cả ngày tàn quên đêm khuya khoắt
Mười ngón tay, lau một thế giới dịu hiền
Những con búp bê kia muôn màu lung linh ánh mắt
Em lẳng lặng đẩy lùi cơn bão dập đời anh.
Gầm rít quanh ta cơn bão phũ phàng
Cuộc vây hãm dằng dai của mắt cú miệng hùm lưỡi rắn
Em ngồi đó, mười ngón tay lau đằm thắm
Một thế giới dịu hiền – thông điệp của hồn em.
Cái thời nhố nhăng cặn bã hóa vương quyền
Rồi lọc hết qua bàn tay em – chỉ sau cùng còn lại
Chỉ sau cùng còn lại
Một thế giới dịu hiền nâng giấc mãi thơ anh.

(28-7-1997)

Bài thơ: Bài thơ của người qua tuổi 30

Bài thơ của người qua tuổi 30

Thơ Bùi Minh Quốc

Dù không phải đứng đợi dưới gốc me già
Tóc và râu hài hoà như bài thơ Đường luật
Quần và áo phẳng phiu như tình yêu thứ nhất
Anh vẫn giữ nguyên vẹn những ý nghĩ tốt lành.

Cảm ơn những vòm me trên đường phố Sài Gòn
Nhắc nhở hoài mối tình đầu đắm đuối
Tình yêu em ơi không bao giờ luống tuổi
Dù chúng mình đã qua lứa ba mươi.

Không còn đợi em phải chuẩn bị nụ cười
Bởi nhiều bực mình hằn phía sau đuôi mắt
Không còn gặp nhau là hôn nhau thân mật
Nhưng mọi lo toan anh chia sẻ cùng em.

Không còn đợi chờ hương dạ lý mỗi đêm
Hai đứa mới thầm thì lời tình tự
Nhưng mỗi miếng anh ăn, mỗi khi anh ngủ
Đều có tay em che chở ân cần.

Không còn đợi chờ hoa cúc nở đầy sân
Anh mới rụt rè trao lá thư hò hẹn
Nhưng gặp lại môi em cười bẽn lẽn
Là trái tim anh đã nhún nhẩy xôn xao.

Và sinh nhật nếu anh không kịp cạo râu
Không tặng hoa lay-ơn lẽ nào em trách
Vì mỗi ngày yêu em riêng anh thầm nhắc
Hãy giữ vẹn nguyên những ý nghĩ tốt lành
Như buổi ban đầu em đến trong anh.

Bài thơ

Đà lạt xuân

Thơ Bùi Minh Quốc

Cho Hiền

Em đấy ư, lưng trời hương sắc quyện
Ươm trọn đời anh nào vực nào đồi
Muôn ngón tay mơ trên vùng cỏ mịn
Mimoza thảng thốt nở hoa rồi

Chú ngựa non trưa hoang choàng nệm tía
Cất vó vờn thoang thoảng nước non thơm
Ơi thiếu nữ ôm bờm tung chín vía
Thả hồn lìa qua phía gió mơn mơn

Mặt trời ủ dưới chân rừng nưng nức
Sương thì thầm giun dế chợt im hơi
Xuân chín mựng dậy núi đồi nhưng nhức
Đoá sao ngời phưng phức dáng kiêu lơi

Nguồn: tạp chí “Kiến thức ngày nay” xuân Nhâm Thân 1992

Bài thơ: Ru xa

Ru xa

Thơ Bùi Minh Quốc

Cho bé xa

Bé xa, Bé xa
Giờ Bé ngủ nha
Choàng Bé đêm hoa
Anh ru, ru vọng
Anh ru, ru xa

Tay anh lóng ngóng
Lòng anh dịu mềm
Anh ru thật êm
Ngoan ngoan Bé ngủ

Anh ru, anh ru
Qua trời bão tố
Anh ru, anh ru
Qua đồi mượt cỏ

À ơi bão tố
Lùi xa lùi xa
À ơi đồi cỏ
Ru thơm mượt mà

Bé xa, Bé xa
Ngủ ngon vào mộng
À ơi tiên nga
Này anh ru vọng
À ơi ngọc ngà
Này anh ru xa

Ru xa, ru xa…

Hà Nội đêm 6-12-2001
Nguồn: Ru xa/ NXB Phụ Nữ, 2002

Bài thơ: Hồng dại của muôn đời

Hồng dại của muôn đời

Thơ Bùi Minh Quốc

Hồng dại bên rào lặng nở
Con đường vô tận một mình đi
Chợt bước phong trần bỡ ngỡ
Hồng dại bên rào ngào ngạt niềm chi

Mải mê con đường vô tận
Hồng dại bên rào thoắt đã xa xăm
Day dứt hương nồng số phận
Cho hồn mình giăng mắc với nghìn năm

Đà Lạt 15-12-2002
Nguồn: Ru xa/ NXB Phụ Nữ, 2002

Bài thơ: Bài thơ tặng cố nhân

Bài thơ tặng cố nhân

Thơ Bùi Minh Quốc

Đôi mắt thơ ngước lên khoảng trời hạnh thắm
Bập bẹ đầu đời lời ngỏ tuổi mười lăm
Em đâu biết những năm dài lửa đạn
Một khoảng trời hạnh thắm vẫn đăm đăm

Bao hụt hẫng nguôi rồi, anh cảm ơn số phận
Đã không cuốn em vào sóng gió đời anh
Anh vui gánh mọi gieo neo quốc vận
Cho em xa một cõi an bình

Xin cảm ơn, xin cảm ơn số phận
Đã cho anh lành lặn trở về
Được soi mắt vào khoảng trời hạnh thắm
Được mở lòng muôn dặm tới em xưa

Hà Nội 16-12-2001
Nguồn: Ru xa/ NXB Phụ Nữ, 2002

Bài thơ: Em khơi nguồn

Em khơi nguồn

Thơ Bùi Minh Quốc

Em khơi nguồn thơ anh
Mà em đâu biết thế
Em dồi dập thác gành
Cho hồn anh trời bể

Em tái tạo đời anh
Mà em đâu biết thế
Hồn xanh đầu bạc nhanh
Xin mình anh rơi lệ

Đà Lạt 7-1-1999
Nguồn: Ru xa/ NXB Phụ Nữ, 2002

Bùi Minh Quốc là một cây đại thụ trong nền thơ ca Việt Nam. Thơ ông luôn được sự yêu thích và mến mộ của độc giả.

Đề Tranh Tố Nữ

Đề Tranh Tố Nữ

Đề Tranh Tố Nữ (Nguyễn Khuyến)

Bao tuổi xuân xanh hỡi chị mình?
Xinh sao xinh khéo thực là xinh!
Hoa thơm chẳng muộn hương mà ngát,
Tuyết sạch không nề nước mới thanh.
Ngoài mặt đã đành son với phấn,
Trong lòng nào biết đỏ hay xanh?
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng…
Mỗi bút một thêm một điểm tình!

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Đề Tranh Tố Nữ” của tác giả Nguyễn Khuyến. Thuộc danh mục Thơ Nguyễn Khuyến trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!

Tập thơ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của nhà thơ Lê Ngô Cát phần 1

Tập thơ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Lê Ngô Cát. Nhân sáng kiến của một người học trò tỉnh Bắc Ninh dâng quyển Sử ký quốc ngữ ca, Tự Đức muốn có một quyển lịch sử bằng văn vần quốc âm, và Lê Ngô Cát được Phan Thanh Giản tiến cử. Hãy cùng nhau theo dõi bài viết nhé!

Nội Dung

Mở đầu
Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.
Nam Giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xưa.
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương.
Kinh Dương Vương
Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hoả đức gọi là Đế Minh.
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương.
Hoá cơ dựng mối luân thường.
Động đình sớm kết với nàng Thần long.
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Lạc Long lại sánh ưu ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thuỷ hoả sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Quy sơn, quy hải khác người biệt ly.
Lạc Long về chốn Nam thuỳ,
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên.
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng.
Hùng Vương và nước Văn Lang
Hùng Vương đô ở châu Phong,
Đấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Dên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn Tây;
Định Yên, Hà Nội đổi thay,
Đấy châu Giao Chỉ xưa nay còn truyền.
Tân Hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ Ninh tỉnh Bắc, Dương Tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Đấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh;
Hoài Hoan: Nghệ; Cửu Chân: Thanh;
Việt Thường là cõi Trị, Bình Trung Châu.
Lạng là Lục Hải thượng du
Xa khơi Ninh Hải thuộc vào Quảng Yên.
Bình Văn, Cửu Đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng Vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc Hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc Tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ Chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loài.
Giao thiệp với Trung Hoa
Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.
Bình Dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quỳ, hoắc cũng đều hướng dương.
Thần Quy đem tiến Đào Đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đầu.
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh.
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thuỷ quái vẽ mình thổ nhân.
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái bình.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung Quốc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu Vương.
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quy.
Chuyện Phù Đổng Thiên Vương
Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?
Chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh
Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị Châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trang.
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đâu vừa thấy hai người,
Một Sơn Tinh với một loài Thuỷ Tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng Vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn Tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia.
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thuỷ Tinh lỡ bước chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hoả phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
Chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung
Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu.
Ra vào nương náu Hà Châu.
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà,
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng Vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hoá về Bồng Châu,
Đông An, Dạ Trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đời.
Hết đời Hồng Bàng
Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường Đế sau tầy Noãn Vương.

1. Thần Kim quy giúp vua Thục

Thục từ dứt nước Văn Lang
Đổi tên Âu Lạc, mới sang Loa thành.
Phong Khê là đất Vũ Ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim quy.
Hoá ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỷ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh Quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.

2. Trung Hoa đánh Âu Lạc

Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu Cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh Nam mấy chốn biên thuỳ,
Quế Lâm, Tượng quận thu về bản chương.
Đặt ra uý, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn.
Hai người thống thuộc đã quen,
Long Xuyên, Nam Hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thuỷ bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền.
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hoà.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu uý, Nam là Thục vương.

3. Trọng Thuỷ và Mị Châu

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thuỷ, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc quy.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thuỷ chung
Rằng: “Khi đôi nước tranh hùng,
Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?
Trùng lai dù hoạ có ngày,
Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau.”
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

4. Triệu Đà diệt Thục

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu uý, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu ly,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim quy đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm tròn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?

Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán
Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu.
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù.
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thuỳ gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng Sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục Giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thuỷ chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.
Triệu Văn Vương và Triệu Minh Vương
Văn Vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cương.
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Ải lang quét sạch bui trần một phương.
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi.
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm hoạ thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành.
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phi.
Cù Thị xin nhập Hán
Ai Vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giai.
Khéo đâu dắt díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hoà thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.
Lữ Gia phá mưu Cù Thị
Lữ Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành trần:
“Để cho Triệu bích về Tần sao nên.”
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dằng.
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gan.
Hán đánh Nam Việt
Vũ thư đạt đến Nam Quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.
Nhà Triệu mất
Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan.
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.

Chính sách nhà Tây Hán
Giao Châu mới thuộc nước người,
Dấy về Tây Hán là đời Nguyên Phong.
Bản đồ vào sách hỗn đồng,
Đất chia chín quận, quan phong thú thần.
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
Tuần tuyên mới có Tích Quang,
Dạy dân lễ nghĩa theo đường hoa phong.
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền.
Sính nghi lại giúp bổng tiền,
Khiến người bần khổ thoả nguyền thất gia.
Văn phong nhức dấy gần xa,
Tự hai hiền thú ấy là khai tiên.
Luân hồi trăm có dư niên,
Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người.
Hai bà Trưng dựng nền độc lập
Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.

Chính sách nhà Đông Hán
Trải Minh, Chương đến Hiếu, An,
Tuần lương đã ít, tham tàn thiếu đâu.
Mới từ Thuận đế về sau,
Đặt quan thứ sử thuộc vào chức phương.
Kìa như Phàn Diễn, Giả Xương,
Chu Ngu, Lưu Tảo dung thường kể chi.
Trương Kiều thành tín phủ tuy,
Chúc Lương uy đức, man di cũng gần.
Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết việt hai lần thừa tuyên.
Lý Tiến, Lý Cầm làm quan nhà Hán
Tuần lương lại có Mạnh Kiên,
Khúc ca Giả phủ vang miền trung châu.
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý Tiến mới đầu Nam nhân.
Sở kêu: “Ai chẳng vương thần,
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhau?”
Tình từ động đến thần lưu,
Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoài.
Lý Cầm chầu chực điện đài,
Nhân khi Nguyên đán kêu lời xa xôi.
Rằng: “Sao phủ tái hẹp hòi?
Gió mưa để một cõi ngoài Viêm phương”.
Tấm thành cũng thấu quân vương,
Trung châu lại mới bổ sang hai người.
Nước Nam mấy kẻ nhân tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rày.
Họ Sĩ tự chủ
Lửa lò Viêm Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh sát mặc người phong cương.
Nho lưu lại có Sĩ vương,
Khơi nguồn Thù Tứ, mở đường lễ văn.
Phong tiêu rất mực thú thần,
Sánh vai Đậu Mục, chen chân Triệu Đà.
Sĩ Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông hiếu, gây ra cừu thù.
Cửa hiên phút bỗng hệ tù,
Tiết mao lại thuộc về Ngô từ rày.
Bà Triệu Ấu đánh Ngô
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
Anh hùng chán mặt phong trần,
Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.
Cửu chân có ả Triệu kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh.
Ngô Tấn tranh nhau Giao Châu
Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phân.
Tôn Tư rồi lại Đặng Tuân,
Lữ Hưng, Dương Tắc mấy lần đổi thay.
Đổng Nguyên, Lưu Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân tranh.
Đào Hoàng nối dựng sứ tinh,
Tân Xương, Cửu Đức, Vũ Bình lại chia.
Mười năm chuyên mặt phiên ly,
Uy gia bốn cõi, ân thuỳ một châu.
Khi đi, dân đã nguyện lưu,
Khi già, thương khóc khác nào từ thân.
Chính sách nhà Tấn
Ngô công nối dấu phương trần,
Hai mươi năm lẻ nhân tuần cũng yên.
Dân tình cảm kết đã bền,
Tước nhà Cố Bật lại truyền Cố Tham.
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố Thọ muốn làm ai nghe.
Quận phù lại thuộc Đào Uy,
Rồi ra Đào Thục, Đào Tuy kế truyền.
Bốn đời tiết việt cầm quyền,
Phiên bình muôn dặm, trung hiền một môn.
Tham tàn những lũ Vương Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trần.
Tấn sai đô đốc tướng quân,
Sĩ Hành là kẻ danh thần chức cao.
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy danh nào kém họ Đào thuở xưa.
Nguyễn Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi luỹ tảo trừ giặc Man.
Họ Đỗ ba đời làm thứ sử
Châu diên lại có thổ quan,
Đỗ công tên Viện dẹp đoàn Cửu Chân.
Tướng môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ Độ thêm phần uy danh.
Bổng riêng tán cấp cùng manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê.
Dâm từ cấm thói ngu mê,
Dựng nhà học hiệu giảng bề minh luân.
Ân uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trời.
Hoàng Văn phủ ngữ cũng tài,
Một nhà kế tập ba đời tuần lương.
Giao Châu loạn
Đến triều Lưu Tống hưng vương,
Hoà Chi, Nguyên Cán sai sang hội đồng.
Đuổi Dương Mai, giết Phù Long,
Khải ca một khúc tấu công về trào.
Gió thu cuốn bức chinh bào,
Y thường một gánh, quy thiều nhẹ không.
Từ khi vắng kẻ chiết xung,
Tràng Nhân, Lưu Mục tranh hùng mấy phen.
Pháp Thừa cũng chức tuần tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại ty.
Dưới màn có Phục Đăng Chi,
Cướp quyền châu mục, lộng uy triều đình.
Tề suy, Nguyên Khải tung hoành,
Hùng phiên chiếm giữ cô thành một phương.
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xa.
Giao châu một giải sơn hà,
Ái Châu lại mới đặt ra từ rày.

1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập

Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.
Cỏ cây chan chứa bụi trần,
Thái bình mới có Lý Phần hưng vương.
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.
Cứu dân đã quyết lời thề,
Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
Đông tây muôn dặm quan hà quét thanh.
Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên.
Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.
Quân Lương đâu đã đến ngoài,
Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.
Cùng nhau mấy trận giao binh,
Thất cơ Tô Lịch, Gia Ninh đôi đường.
Thu quân vào ở Tân Xương,
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.
Mới hay “nhật phụ mộc lai,”
Sấm văn trước đã an bài những khi.

2. Triệu Quang Phục phá Lương

Bấy giờ Triệu mới thừa ky,
Cứ đầm Dạ Trạch, liệu bề tấn công.
Lý vương phút trở xe rồng,
Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh.
Hương nguyền trời cũng chứng minh,
Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mâu.
Từ khi long trảo đội đầu,
Hổ hùng thêm mạnh, quân nào dám đương.
Bá Tiên đã trở về Lương,
Dương Sằn còn ở chiến trường tranh đua.
Một cơn gió bẻ chồi khô,
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra,
Bốn phương phẳng lặng can qua,
Theo nền nếp cũ, lại ra Long Thành.

3. Lý Phật Tử đánh Triệu Quang Phục

Lý xưa còn có một cành,
Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lao.
Chiêu binh lên ở Động Đào,
Họ là Phật Tử cũng vào hội minh.
Đào lang lại đổi quốc danh,
Cũng toan thu phục cựu kinh của nhà.
Cành dâu mây toả bóng tà,
Bấy giờ Phật Tử mới ra nối dòng,
Rừng xanh gió phất cờ hồng,
Đề binh kéo xuống bẹn sông tung hoành.
Triệu vương giáp trận Thái Bình,
Lý thua rồi mới thu binh xin hoà.
Triệu về Long Đỗ, Nhị hà,
Lý về Hạ mỗ, ấy là Ô Diên.
Hai nhà lại kết nhân duyên,
Nhã lang sánh với gái hiền Cảo nương.
Có người: Hống, Hát họ Trương,
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu.
Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan rắc mối Châu Trần sao nên?”
Trăng già sao nỡ xe duyên?
Để cho Hậu Lý gây nền nội công.
Tình con rể, nghĩa vợ chồng,
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.
Lâu la mới ngỏ tình đâu,
Nhã lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.
Trở về giả chước vấn yên,
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.
Triệu vương đến bước vội vàng,
Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua.
Đem con chạy đến Đai nha,
Than thân bách chiến phải ra đường cùng!

4. Lý Phật Tử hàng Tuỳ

Từ nay Phật Tử xưng hùng,
Hiệu là Nam đế nối dòng Lý vương.
Phong châu mới mở triều đường.
Ô Diên, Long Đỗ giữ giàng hai kinh.
Tuỳ sai đại tướng tổng binh,
Lưu Phương là chức quản hành Giao Châu.
Đô long một trận giáp nhau,
Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn Dương.
Từ giờ lại thuộc Bắc phương,
Mấy năm Tuỳ loạn rồi Đường mới ra.

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả tập thơ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca hấp dẫn của nhà thơ Lê Ngô Cát. Hãy cùng nhau theo dõi và cảm nhận những giá trị của tập thơ này nhé. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất. Thân Ái!

Cây Lúa

Cây Lúa

Cây Lúa (Huy Cận)

Mơn mởn đời ươm hoa trái non
Cho tôi chăm bón. Đến mùa hồn
Thì tôi sẽ chết như cây lúa
Đầu ngả mang đầy hạt dẻo ngon

1942

Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài “Cây Lúa” của tác giả Cù Huy Cận. Thuộc tập Vũ Trụ Ca, danh mục Thơ Huy Cận trong Những Tác Phẩm Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng. Hãy cùng đọc và thưởng thức những tác phẩm khác, còn rất nhiều những bài thơ hay đang chờ đợi các bạn!